Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 02 - Phần 2
Đô tướng Trường quốc công nghe nói cả mừng, ban sắc phong cho Băn Khuê giữ chức quản thống binh dân các huyện ở phủ Trường Yên. Quận Sơn nhận chức, vái vọng tạ ơn. Trường quốc công bèn cho tiến quân đến phía nam sông Quyết. Tướng nhà Mạc là bọn Quỳnh quận công. Lộc quận công đều dâng thư xin hàng. Trường quốc công lại tiến quân đến đóng quân ở Cầu Tắc huyện Thanh Liêm[65]. Từ đó các tướng Nam đạo của nhà Mạc đều đem cờ xí, khí giới, voi ngựa, chiến thuyền đến trước cửa quân của Trường quốc công Trịnh Tùng dâng nộp xin hàng. Trường quốc công cả mừng, mở tiệc khoản đãi, cho ai nấy đều được giữ chức cũ. Các hàng tướng đều hồ hởi tuân phục. Đô tướng lại sai quân đi do thám tin tức quân Mạc.
[65] Thanh Liêm: Tên huyện thuộc trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nam Ninh).
Lại nói quân Mạc từ lúc thua trận, lui về đóng giữ ở vùng Hát Giang, chiêu binh mãi mã, dựng lũy đắp thành để làm thế cầm cự lâu dài. Quân do thám trở về báo tin, Trường quốc công nghe xong bèn sai sắp sẵn binh lương, khí giới, voi ngựa đợi lệnh. Đến ngày mười bốn tháng mười, đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng dẫn quân thủy bộ thẳng tiến đến Hát Giang đánh lớn với quân Mạc. Tiếng súng nổ vang động trời đất, tên đạn vèo bay như sao vượt. Quân Mạc thua to, bỏ thành tan chạy, quân tướng đều không dám ngoái đầu lại, ai nấy đều lánh trốn tìm đường sống thoát. Tướng Mạc là Đà quốc công[66] một thân chạy thoát. Vua Mạc Hồng Ninh cả kinh, liệu bề khó chống cự nổi bèn giả làm một tên lính thường chhuyện Phượng Nhãn, trong tay không một tấc sắt, không có quân hầu, thật đã đến bước đường cùng. Khi chạy đến chùa Mô Khuê, Hồng Ninh bèn cạo tóc giả làm sư để ẩn náu, người đời không ai biết.
[66] Đà quốc công: Tên tước của Mạc Kính Điền.
Ngày mười lăm, Trường quốc công đem quân đến Trường Yên, đóng trại ở xã Bát Cổ. Bề tôi nhà Mạc nghe tin đua nhau đến xin hàng. Trường quốc công tiếp đãi rất trọng hậu. Đến ngày mồng một tháng chạp lại sai Trà quận công[67], Liêm quận công đưa quân qua sông Nhị Hà lên huyện Phượng Nhãn tra hỏi dân huyện lấy tin tức Mạc Hồng Ninh trốn tránh nơi nào. Dân chúng đều nói: Trước đây có vua ngụy Mạc giả làm sư ẩn náu ở chùa Mô Khuê. Quận Trà nghe xong sai người về bẩm báo. Trường quốc công cả mừng. Ngày mồng ba, sai hai doanh Tráng Nghĩa, Sùng Nghĩa dẫn quân ập đến vây chặt chùa Mô Khuê, bắt thầy chùa đem ra xét hỏi họ tên quê quán. Mạc Hồng Ninh đáp:
- Bần tăng người huyện Thạch Hà, xứ Nghệ An, bình sinh mến chuộng đạo Phật, cạo tóc đi tu, tháng ngày vân du non biển, gối tuyết nằm sương, không can dự việc đời, xem phú quý tựa bụi trần, coi công danh như cỏ rác. Chỉ mong vẹn thành chính giác để cứu vật giúp người, đối với hoàng triều không làm điều gì can phạm. Nay các ông bắt giữ bần tăng, chẳng hay vì cớ gì?
Quan quân nghe nói thế đã toan tha. Nhưng trong bọn có kẻ biết xét đoán, thấy dáng mạo ông sư chẳng phải người thường, lại nói năng hoạt bát, trong bụng đã sinh nghi, bèn cứ trói tay giải nộp. Mạc Hồng Ninh tự liệu không thoát, bèn nghiêm giọng nói lớn:
- Ta chính là Mạc Hồng Ninh, vua muôn thặng[68] thống trị cả nước. Nay không may sảy chân gặp bước đường cùng. Ta từng nghe kẻ làm vua thiên hạ, gặp bước loạn li, chết không có điều gì oan uổng. Nay ta đến bước này, đó là vận số của ta như thế. Bọn ngươi chỉ là hạng tiểu tốt, không được làm nhục ta.
[67] Trà quận công: Tên tước của Nguyễn Đình Luận.
[68] Vua muôn thặng: ý nói vua chính thống (thiên tử) có muôn cỗ xe.
Quân lính nghe thế liền phi báo cho hai tướng biết. Trà quận công và Liêm quận công cả mừng, sai đóng cũi nhốt Hồng Ninh áp giải về kinh sư dâng nộp. Tới nơi, Hồng Ninh không chịu quỳ, Trường quốc công nghiêm giọng mắng:
- Người là kẻ bề tôi tiếm đoạt ngôi vua, tội ngươi to tầy núi biển. Nay ngươi bị bắt, ấy là đạo trời báo ứng, còn muốn nói gì mà không chịu quỳ?
Mạc Hồng Ninh cất tiếng đáp lại:
- Ông nói sai rồi, ông không biết các đời Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống kế tiếp thay nhau hay sao? Huống chi nhà Lê lên ngôi nhân lúc họ Trần hết vận, nhà Mạc lên kế trị khi nhà Lê suy tàn, đó là lẽ phế hưng thông thường. Tuy là tiếm đoạt, nhưng ai là vua đó chăng, ai là bề tôi đó chăng?
Mạc Hồng Ninh nói xong ngửa mặt lên trời cười vang.
Trường quốc công nghe xong cả giận mắng:
- Tên nhãi nhép điên rồ không biết ơn nuôi dưỡng lại còn khua môi múa lưỡi!
Nói đoạn hạ lệnh sai quân dẫn Mạc Hồng Ninh ra ngoài phía nam của doanh xử lăng trì[69] để răn đe dân chúng. Cho đến khi chết, Hồng Ninh vẫn còn chửi mắng không thôi. Từ đó đồ đảng họ Mạc nam nữ lớn bé đều bị tru diệt, thây chất như núi, máu chảy thành sông. Nhà Mạc mất. Chỉ còn người con thứ của Mạc Hồng Ninh là Mạc Đăng Mạo lánh trốn lên miền rừng núi Cao Bằng, lại tụ tập đồ đảng trộm chiếm xứ Cao Bằng, xưng hiệu là Long Thái vương. Triều đình nhiều phen sai quân đi đánh dẹp cho dứt hẳn.
[69] Lăng trì: Cực hình dùng voi xé xác.
Chưa biết họ Mạc còn mất ra sao, chỉ biết khi trước đã có thơ sấm nói rằng:
Ngưa đầu thử vĩ nguyệt,
Thần đao trảm thảo tuyệt.
(Tháng đầu trâu đuôi chuột
Đao thần chém đứt cỏ)
Người bấy giờ không hiểu ý nghĩa ra sao. Đến khi nhà Mạc mất, người ta mới hiểu rằng: ngưu đầu (đầu trâu) là nói về thượng tuần tháng chạp, thử vĩ (đuôi chuột) là nói về cuối tháng mười một[70]. Hòa đao là trong chữ Lê có chữ đao, thảo tuyệt (dứt cỏ) là chữ Mạc. Bấy giờ người ta mới nghiệm rằng lời sấm ngữ quả không sai! Nhân đó có thơ chê cười nhà Mạc như sau:
Ầm vang tiếng trận đến La Thành.
Họ Mạc ngày tàn đã đến nhanh.
Đêm tối quốc kêu buồn lạc lối,
Canh khuya nhạn khóc đang thương tình.
Hiên ngang chịu chết lòng chẳng khuất,
Khảng khái liều thân miệng quát vang.
Khen khá Hồng Ninh gan cứng mạnh,
Đời còn nhắc nhở cũng lưu danh!
[70] Tháng mười một: là tháng Tý (chuột), tháng mười hai là tháng Sửu (trâu).
Bấy giờ Mạc Hồng Ninh đã chết, đồ đảng nhà Mạc tụ tập ở miền huyện Thanh Lâm[71] tìm được tông thất nhà Mạc tên là Hùng Lễ[72] lập lên làm vua, xưng niên hiệu là Khang Hựu[73] năm đầu, ngầm chiếm một cõi, áp bức dân chúng, cướp bóc của cải. Trường quốc công Trịnh Tùng nghe nói cả giận, bèn sai thái phó Dương Quốc công thống lĩnh thủy quân, thái phó Vinh quốc công thống lĩnh bộ binh chia đường tiến phát. Vinh quốc công dừng quân đóng trại ở huyện Thanh Lâm, sai lính đi do thám tình hình quân giặc, rồi cho quân tiến đánh. Hùng Lễ chia quân chống cự. Quân đôi bên đánh lớn mấy trận không phân thắng bại, rồi lui về đóng trại cố thủ.
[71] Thanh Lâm: tên huyện thời Lê Mạc, thuộc phủ Nam Sách (nay thuộc tỉnh Hải Hưng).
[72] Hùng Lễ: Tên tước của Mạc Kính Chi (con của Mạc Kính Điển) xưng vương ở miền Chí Linh, Đông Triều.
[73] Khang Hựu: Nguyên bản chép Khai Hựu, sửa lại là Khang Hựu như Lê Quý Đông đã giải trong ĐVTS.
Năm Quý Tị, niên hiệu Quang Hưng thứ mười sáu (1593), tháng giêng, ngày mồng mười, đô tướng Trường Quốc công hạ lệnh tiến quân, các đội quân nhăm theo bờ sông, thủy bộ đều tiến. Khi đến sông Giẻ liêng tung quân đánh ngay. Quân Mạc thua tô, máu trôi đỏ ngày sông Giẻ, thây chết đầy bờ cát. Hùng Lễ một mình chạy thoát thân. Trường quốc công sai lính kị đuổi theo đến miền huyện Chí Linh, Đông Triều[74] bắt sống được đem về dâng nộp. Hùng Lễ bèn bị chém đầu. Từ đó dẹp yên đồ đảng nhà Mạc. Trường quốc công đem quân về kinh đô Thăng Long, sai người tu sửa cung điện, kho tàng, phố phường cho được như cũ.
[74] Huyện Chí Linh, Đông Triều: tên Huyện thuộc Hải Hưng nay.
Mùa hạ, tháng tư, ông sai thái phó Dương quốc công Nguyễn Hữu Liêu về phủ Yên Trường, xứ Thanh Hoa đón rước xa giá vua Lê về kinh thành Thăng Long. Vua Lê vỗ về răn bảo dân chúng, cho nhẹ lao dịch phu phen.
Lại nói chúa xứ Nam là thái úy Đoan quốc công Nguyễn Hoàng từ ngày thống quản hai xứ Quảng Nam, Thuận Hóa rộng ban ơn đức, thương yêu dân chúng, chậm bữa ăn để đón người hiền xuống xe để tiếp quân sĩ. Anh hùng quy phục, hào kiệt đến theo. Luôn năm mưa thuận gió hòa, khắp nơi được mùa no đủ, các nước lân bang tìm đến chầu phục.
Một hôm Đoan Quốc công đang coi chầu bàn xét triều chính bống có tin ở Bắc triều Trường quốc công Trịnh Hùng đã diệt được Mạc Hồng Ninh, cắt gai nhổ rễ, làm nên công lớn. Đoan quốc công cả mừng hạ lệnh chuẩn bị ra kinh đô Thăng Long chầu mừng. Trước là chúc mừng thiên tử, sau là viếng lăng tẩm các tiên vương để thỏa lòng bấy lâu tưởng nhớ.
Tháng sáu, Nam chúa Đoan quốc công Nguyễn Hoàng dẫn quân về kinh đô, vào triều bái yết hoàng đế. Vua Lê an ủi vỗ về, nói:
- Khanh trấn nhậm hai xứ, lòng dân được yên, công ấy rất lớn.
Vua Lê nói xong truyền mở tiệc khoản đãi. Đoan quốc công chắp tay tạ ơn. Dự ban yến xong, Đoan quốc công lui chầu, đi ngày đến phủ đô tương kiến đã xong, hai người chia ngôi chủ khách, cùng ngồi bàn việc nước, bày tỏ tinh thần. Đoan quốc công là kẻ anh hùng cái thế, công đức lớn lao dầu là các bậc danh tường đời xưa cũng không sánh kịp. Trường quốc công cả mừng, lấy tình thân thích máu mủ mà đối xử, phong Đoan quốc công làm hữu thừa tướng, ngôi thứ xếp sau Trường quốc công một bậc. Từ đó về sau, ngày đêm không rời, ăn tất cùng mâm, ngồi ắt cùng chiều, thân thiết như tim phổi, tin dùng như chân tay.
Trường quốc công lại tưởng nhớ công lao của các bậc huân thần, tâu vua xin xét công ban thưởng, vinh thăng phẩm trật để đền đáp công lao.
Lại nói chuyện hiến sát xứ Nguyễn Tạo năm trước vâng mệnh vào xem xét việc mùa màng cày cấy ở hai xứ Thuận, Quảng, đến khi trở về Đông đô mến chuộng tưởng nhớ Nam chúa Đoan quốc công Nguyễn Hoàng, ngày đêm không một khoảnh khắc quên nguôi. Sau đó Tạo vào triều nộp trả ấn thao xin về hưu trí ở quê nhà. Nay, nghe tin chúa Nam về kinh, Nguyễn Tạo mừng vui khôn xiết, bèn thân đế dười trướng yết kiến. Nam chúa cả mừng, mời Tạo cùng ngồi ôn lại tình cảm trong lúc chia phôi, xa cách tưởng nhớ. Hai người ngày đêm chuyện trò bàn luận, cảm tình sâu sắc thân thiết, ý muốn cùng nhau mưu đồ đại sự.
Năm Ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng thứ mười tám (1595), tháng hai, Trường quốc công cậy vào uy thế, muốn được lập ngôi chúa, bèn sai người mật tâu với vua. Vua lo sợ, bèn xuống chỉ rằng: Đô tướng thái úy Trường quốc công Trịnh Tùng có công trùng hưng nhà Lê, diệt trừ ngụy Mạc, không thể không thăng thưởng. Bèn ban kim sách, ấn ngọc cùng với cờ mao tiết liệt. Sai thái tể Phụng quốc công Trịnh Đỗ đem tới phủ dinh của Trường quốc công tôn phong Trường quốc công Trịnh Tùng làm đô nguyên súy tổng quốc chính thái sư thượng phụ, tước Bình An vương, được mở vương phủ. Đó là để đền đáp công lao của bậc nguyên huân. Trường quốc công nhận được tước phong, vào triều vái tạ rồi về phủ định liệu công việc. Các quan văn võ có dáng sợ hãi, cùng đến phủ chúa chúc mừng.
Bình An vương mở yến tiệc khoản đãi, ban phát vâng lụa cho các quan. Từ đó trong triều ngoài quân, mọi việc cắt đặt quan chức, ban cấp bổng lộc đất ruộng, khen thưởng, bình phạt, thăng giáng, bãi truất đều do Bình An vương xét định. Kỉ cương chính sự, vua Lê chỉ ở trong thâm cung mà thôi.
Thượng tuần tháng tư, có tin vua Minh sai người sang hỏi việc tuế cống. Bình An vương sai Lại bộ thượng thư Nguyễn Văn Giau lên đầu địa giới ở Lạng Sơn nghe lệnh, xong rồi trở về. Tháng sáu, sai thượng thư Phùng Khắc Khoan lĩnh lễ vật sang triều cống vua Minh. Phùng Khắc Khoan tướng mạo xấu xí, hình dáng thấp bé, tóc rối râu phơ, nhưng bẩm tính thông minh sáng trí, hiểu biết hơn người, có tài năng của Gia Cát, Lưu Cơ[75], có sức học của Nhan, Tăng, Tử, Mạnh[76]. Văn chương nhất đời, mưu lược hơn người, đáng là bậc trạng nguyên một thời.
[75] Gia Cát, Lưu Cơ: Gia Cát tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, quân sư Lưu Bị thời Tam quốc. Lưu Cơ tự Bá Ôn, giúp Minh Thái Tổ thống nhất Trung Quốc.
[76] Nhan, Tăng, Tử Mạnh: tức Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử, bốn người học trò nổi tiếng của Khổng Tử.
Bấy giờ Phùng Khắc Khoan vâng mệnh mang lễ vật đi sứ, ngày đêm trèo non vượt bể, gội tuyết xông sương, thẳng tới kinh đô nước Minh. Sứ bộ nghỉ ở khách quán, ngày hôm sau vào triều bái yết dâng lễ vật tiến cống.
Vua Minh thấy Phùng Khắc Khoan tướng mạo xấu xí, thấp bé, cười nói:
- Ngày trước bọn Mộc Thạnh, Trương Phụ ở An Nam về tâu rằng nước Nam nhân tài rắp rắp, hào kiệt ngời ngời. Nay sứ giả Khắc Khoan đến đây chắc là đã được tuyện chọn kĩ. Nhân tài phồn thịnh có thể thấy được chăng?
Nói đoạn hỏi Phùng Khắc Khoan rằng:
- Ngươi ở nước Nam làm quan chức gì?
Khắc Khoan đáp:
- Thần ở nước Nam thi đỗ trạng nguyên, được phong chức thượng thư bộ Hộ.
Vua Minh nói:
- Ngươi là trạng nguyên nước Nam, hẳn là thông kim bác cổ. Nay trẫm thử hỏi ngươi: Việc trong thiên hạ rất dễ mà cũng rất khó. Vậy thì việc gì dễ nhất và việc gì khó nhất?
Khắc Khoan tâu đáp:
- Người ta sinh ra trong cõi đời, phàm những chuyện về thiên văn, địa lí, nhân sự, tam giáo cửu lưu, bách công kĩ nghệ, đều là việc rất dễ! Duy chỉ có hai chữ “thanh sắc” là khó mua khó cầu[77], ấy là việc rất khó có được!
[77] “Thanh sắc” là khó mua khó cầu: vì Phùng Khắc Khoan tướng mạo rất xấu xí nên mới ngụ ý nói “thanh sắc” là vật khó mua khó cầu.
Vua Minh lại hỏi:
- Thức ăn món gì ngon nhất? Đồ dùng thứ gì quý nhất?
Khắc Khoan đáp:
- Thức ăn ngon không gì bằng muối trắng, đồ vật quý không gì bằng người hiền. Muối trắng có thể điều hòa đủ độ ngọt ngon, cho vừa mặn nhạt, bổ gan bổ phổi, nhuận tâm, nhuận tràng. Đó là thức ăn ngon vậy. Người hiền có thể cương, có thể nhu, có thể giúp phò xã tắc, có thể chuyển loạn thành trị, biến truân thành hanh, bồi dưỡng mệnh mạch nước nhà đạt đến thăng bình thịnh vượng, giúp rập cơ đồ dài lâu. Trên thì giúp vua đạt đến mức thành quân như Ngiêu, Thuấn. Dưới thì mở mang bờ cõi non sông, bốn biển yên bình, muôn nước chầu phục. Ấy là của báu chân chính.
Vua Minh nghe nghe tâu xong cho là đúng, bèn ban yến cho Khắc Khoan, cho lui về khách xá nghỉ ngơi. Các quan văn võ triều Minh tấm tắc khen ngợi không ngớt. Vua Minh nói:
- Sứ giả nước Nam mặt mũi xấu xí nhưng đối đáp trôi chảy. Ta phải thử hỏi như thế để biết rõ tài năng.
Mấy ngày xau, vua Minh sai thợ giỏi là giả một con chim sẻ biết chạy, nhảy, mổ, bay, đặt đậu trên bụi trúc trước điện, cho bay nhảy hệt như chim thật, người lạ nhìn vào không ai phân biệt được. Rồi đó vua Minh cho vời Phùng Khắc Khoan vào chầu, mời lên điện rồi hỏi rằng:
- Sứ nước Nam có biết con chim sẻ này trẫm nuôi đã bao nhiêu năm mà dạn người như thế?
Phùng Khắc Khoan ngắm nhìn thấy nó biết bay biết nhảy như thường, một lúc sau bèn bước xuống thềm đi đến bụi trúc giơ tay chộp bắt ném xuống giữa sân. Con chim sẻ vỡ thành bốn mảnh gỗ. Khắc Khoan bèn đến trước điện thản nhiên tâu rằng:
- Trúc là hạng quân tử, ví như mình rồng của thiên tử. Sẻ là hạng tiểu nhân, ví như kẻ phàm phu tục tử, lẽ đâu lại để cho tiều nhân đứng trên quân tử? Thế là các quan của thượng quốc đã khinh mạn thiên tử vậy. Nước thần tuy nhỏ nhưng còn biết phân biệt lẽ vua tôi, đạo cha con, nghĩa anh em, rạch ròi kẻ trên người dưới, chứ không ô tạp lộn ngược dưới trên. Lẽ như thế, chứ đâu phải thần không biết nó là con chim giả!
Tâu xong, Khắc Khoan ngửa mặt lên trời cười to.
Vua Minh nghe tâu hơi có ý xấu hổ, làm thinh không nói gì. Từ tể tướng cho đến các quan trong triều đều lo sợ, ai nấy đều không ngớt lời khen ngợi Khắc Khoan. Vua Minh bèn ban thưởng cho Khắc Khoan, cho lui về nhà công quán nghỉ ngơi. Phùng Khắc Khoan vái tạ ra khỏi triều trở về nhà nghỉ. Tù đó Khắc Khoan nhàn hạ đi du ngoạn, viếng thăm núi sông, chùa tháp các nơi ở nước Minh, tận mắt nhìn ngắm cảnh vật cực kì tươi đẹp hùng tráng. Mấy tháng sau, vua Minh lại sai người tìm hai con ngựa cái vóc dáng sắc lòng đều y hệt như nhau, người trong nước không ai biết con nào ngựa mẹ, con nào ngựa con. Vua Minh sai người dẳt hai con ngựa ấy đến nhà công quán, hỏi Khắc Khoan rằng:
- Nhờ trạng nguyên phân biệt giúp hai con ngựa này, con nào là mẹ, con nào là con? Chỉ ra rõ ràng, thế mới thực đúng là tài.
Phùng Khắc Khoan nghe xong mìm cười bảo rẳng:
- Cái lí ấy chẳng có gì khó khăn, cần gì phải đợi nhà vua đích thân hỏi đến!
Nói đoạn đưa tay quơ nắm cỏ giơ lên phía trước mà cười. Ngựa con vốn tính nóng vội, thấy cỏ bèn bước lên trước tranh ăn. Ngựa mẹ điềm tĩnh hơn, vẫn đứng yên tại chỗ. Khắc Khoan cười nói:
- Con bước lên đó là ngựa con, con đứng yên kia là ngựa mẹ, chắc chắn như thế, không sai!
Người Minh thấy vậy đều kính phục, tấm tắc khen ngợi: “quả đúng là trạng nguyên”, rồi lập tức trở về hoàng cung tâu vua Minh biết. Vua Minh khen ngợi Khắc Khoan là người tài giỏi.
Tháng mười một, Phùng Khắc Khoan dâng biểu xin được trở về nước. Vua Minh có ý muốn giữ lại, nhưng sợ mang tiếng thất tín, bèn ban sắc phong cho Phùng Khắc Khoan là “Lưỡng quốc trạng nguyên” (Trạng nguyên của hai nước), ban thưởng vàng bạc vóc lụa, chuẩn cho được trở về nước Nam.
Phùng Khắc Khoan vái chào vua Minh, từ biệt các quan rồi về nhà công quán sắp xếp hành trang trở về. Trên đường về Khắc Khoan có làm một bài vãn sứ trình[78].
Về đến kinh đô, Khắc Khoan vào triều bái yết vua Lê tâu bày công việc đi sứ. Sau đó Khắc Khoan sang vương phủ [79] chào Bình An vương Trịnh Tùng bẩm trình mọi việc. Từ đó người nước Nam ta, trên từ các bậc công khanh, dưới đến học trò dân chúng đều ca ngợi Phùng Khắc Khoan vâng mệnh đi sứ Bắc quốc biết trọng mệnh vua, làm mạnh thế nước, quả đúng danh vị trạng nguyên. Bình An vương vui mừng, rất mực yêu mến, giao cho giữ chức phụ quốc chính (giúp việc triều chính) chăm lo vun đắp thái bình, xứng đáng là bậc danh nho ở đời.
Người đời sau có thơ khen ngợi Phùng Khắc Khoan như sau:
Học đạo tinh thuần được quý tôn,
Non sóng vạn dặm đến cung môn.
Lộ trình Bắc sứ tùy ứng biến,
Công việc vua giao phải vẹn tròn.
Một chữ kinh luân dành để dụng.
Phải đâu thanh sắc đọ thua hơn[80]
Bốn phương từ trước bao tài giỏi,
Ai được như ông lưỡng Trạng nguyên?
[78]”Vãn” sứ trình: Nguyên văn Sứ trình vãn (Khúc ngâm trên đường đi sứ).
[79] Vương phủ: tức phủ chúa Trịnh
[80] “Thanh sắc”: vì Phùng Khắc Khoan tướng mạo xấu xí mà được người Minh thán phục cho nên nói không phải vì “thanh sắc” (tiếng nói và sắc đẹp) để đọ hơn thua với mình.