Nam triều công nghiệp diễn chí - Chương 03 - Phần 1

HỒI THỨ BA

Ngạn Khuê đốt thành, triều Lê Trịnh một phen rung chuyển

Chúa Tiên về trấn, đất Thuận Quảng, khắp chốn đều vui.

Lại nói năm Kỷ Hợi, niên hiệu Quang Hưng thứ hai mươi hai (1599), mùa thu, tháng bảy, vua Lê ốm nặng, mệnh hệ chỉ tính được trong ngày đêm. Vua cho gọi Bình An vương Trịnh Tùng và các cận thần vào nội điện căn dặn rằng:

- Trẫm muốn cùng các khanh chung hưởng phú quý để giữ gìn bờ cõi non sông. Nhưng nay số trời đã đến kì, muôn vàng khó chuộc. Sau khi trẫm đã theo xe mây, con trưởng của trẫm là Duy Quân tài hèn đức mọn không kham nổi việc nối ngôi trị nước. Con thứ của trẫm là Duy Tân gồm đủ cả ơn uy, có đức có nhân, nối được nghiệp lớn, giữ được quy mô lớn lao để thống quát việc triều chính. Trẫm nhờ cậy cả ở các khanh, mong các khanh hết lòng phò tá giúp rập. Các khanh chớ để phụ lời nói của trẫm.

Dặn dò xong thì vua Lê qua đời. Vua ở ngôi hai mươi bảy năm, thọ ba mươi tư tuổi, miếu hiệu là Thế Tông Nghị hoàng đế, mộ táng ở Vĩnh Lăng.

Bình An vương Trịnh Tùng họp bàn với các quan triều đình vâng theo di chúc của vua Lê, lập con thứ là Duy Tân lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thuận Đức [81]. Vua mới lên ngôi, xuống chiếu đại xá thiên hạ. Hạ tuần tháng mười hai lại đổi niên hiệu là Hoằng Định. Vua nối ngôi còn nhỏ tuổi, nhờ cậy cả ở Bình An vương Trịnh Tùng giúp việc triều chính, bên trong thống quản các quan, bên ngoài lo việc dẹp yên biển. Việc chính sự triều đình đặt quan chia chức, bổ dụng cất nhắc, biếm truất, thưởng phạt, hình ngục… đều do Bình An vương định đoạt. Uy quyền của chúa bao trùm, các tướng đều lo sợ, không ai dám hé răng nghé mắt.

[81] Thuận Đức: Tính chích xác thì tháng năm Canh Tý 1600 vẫn còn thuộc niên hiệu Thuận Đức. TheoToàn thư và Cương mục thì đến tháng mười một, Lê Kính Tông mới đổi niên hiệu là Hoằng Định năm đầu (như vậy niên hiệu Hoằng Định năm thứ nhất chỉ có trong ngoài một tháng (12/1600), đầu năm Tân Sửu (1601) là niên hiệu Hoằng Định thứ hai.

Lúc đầu Bình An vương Trịnh Tùng thân quý Đoan quốc công Nguyễn Hoàng, coi như người tâm phúc anh em, đối xử tiếp đãi rất trọng hậu, giao cho cầm giữ những công việc quan trọng. Nhưng về sau, Đoan quốc công Nguyễn Hoàng là người khí chất hùng vĩ khác kẻ bình thường, được các quan trong triều nhiều người yêu mến ngưỡng mộ, Trịnh Tùng bỗng sinh lòng ngờ vực, muốn tính kế trừ đi khỏi mối lo về sau. Vì thế cảm tình ngày càng thưa nhạt, hiềm khích ngày một tăng mau, nói năng động chạm, đi đứng đề phòng. Nguyễn Hoàng cũng thầm hiểu ý ấy, ngày đêm suy nghĩ tìm cách trở về Thuận Hóa, chẳng hay lúc ấy đã vào dịp cuối năm.

Năm Canh Tý, niên hiệu Hoằng Định năm đầu (1600), mùa hè, ngày mồng một tháng năm, hữu thừa tướng Đoan quốc công Nguyễn Hoàng thấy tình cảm đối xử của Bình An vương Trịnh Tùng ngày một thưa nhạt, phải tính kế giữ mình, nhưng không nghĩ ra cách gì, bèn sai người đem vàng bạc làm lễ vật đến biếu viên quan nhà Mạc đã hưu trí về làng là Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm để hỏi kế giữ thân, Trình quốc công bèn lấy giấy bút viết tám chữ giao cho người tâm phúc của Nguyễn Hoàng đem về. Đoan quốc công Nguyễn Hoàng mở thư đọc thấy tám chữ: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung nhân” (Nghĩa là “Hoành Sơn một dải, dung thân muôn đời”).

Đọc xong, Nguyễn Hoàng trầm ngâm nghĩ ngợi suốt cả một ngày mới chợt hiểu ra. Từ đó chỉ nghĩ cách tìm đường trở về trấn cũ. Nguyễn Hoàng còn e ngại tin ở cửa biển có đồn binh của Kế quận công Phan Ngạn và Mỹ quận công Bùi Văn Khuê, tất sẽ chặn đường về, khó lòng qua thoát. Nhưng thấy bọn Ngạn, Khuê từng nhận mình là cậu[82], Nguyễn Hoàng bèn nảy ra một kế.

Rồi đó, Đoan quốc công mật sai người giả cách làm sứ giả của Chúa Trịnh, rồi là như thế, như thế … Lại sai người mời Ngạn, Khuê đến chỗ phủ doanh của mình.

[82] Vì Nguyễn Hoàng là cậu của Trịnh Tùng cho nên các tướng dưới quyền công nhận gọi Nguyễn Hoàng là cậu.

Đoan quốc công trò chuyện, bàn luận với Ngạn, Khuê các tích cổ kim cùng là các việc chính sự đương thời, bảo rằng kẻ anh hùng hào kiệt xưng bá, xưng vương, ai nấy đều có gan hùng chí lớn, há cam chịu khóc lóc quỳ gối ở dưới người! Bọn Ngạn, Khuê kéo tay đập chiếu khen phải, cho rằng như thế mới đáng mặt trượng phu

Trong khi ba người đang trò chuyện, bỗng có lính hầu vào báo: “Có sứ giả của chúa đến truyền lệnh”. Nguyễn Hoàng vội bảo Ngạn, Khuê lánh vào ngồi nấp ở buồng trong rồi sửa áo mũ đi ra tiếp đón sứ giả, mời vào trong phủ. Đôi bên chủ khách an tọa, sứ giả của chúa Trịnh ghé bên tai Đoan quốc công nói rằng:

- Chúa thượng thấy bọn Ngạn, Khuê cậy có quân hùng tướng mạnh, kiêu căng công lao tài năng, không tuân mệnh lệnh, nói năng không giữ khiêm tốn. Chúa thượng xét nghĩ để bọn ấy lâu tất gây mối lo cho thiên hạ. Vì thế chúa thượng sai hạ quan đến truyền lệnh cho tôn ông phải tìm cách bắt ngay bọn ấy tiến nạp vương phủ để lập công đầu, lớn bé đều không được để sót! Phải giữ kín, không được tiết lộ.

Đoan quốc công đáp:

- Xin tuân lệnh chúa!

Sứ giả vái chào ra về. Thế là bọn Ngạn, Khuê nấp sau vách đã nghe được lời nói nhỏ của sứ giả, nhưng còn nửa tin nửa ngờ. Sau khi sứ giả ra về, bọn Ngạn, Khuê bước ra hỏi Đoan công rằng:

- Sứ giả của chúa truyền lệnh gì?

Nguyễn Hoàng do dự không đáp, đưa mắt nhìn hai người, đáng buồn rầu, rơi lệ. Ngạn, Khuê khẩn khoản gạn hỏi cho ra. Nguyễn Hoàng đáp:

- Cậu trông hai cháu tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, có tài như Hán Vũ Đế, Tống Thái Tòng, trong bụng có trí mưa chẳng kém gì Tôn, Ngô, Trương Tử[83], đầy đủ tài ba cứu đời, yên dân, khuôn phù ngôi báu để rạng mặt anh hùng, vẻ vang tiên tổ. Cớ sao hai cháu lại bo bo chịu cho người ta đèn nén? Vừa rồi sứ giả truyền mật lệnh của chúa có ý không dung cho hai cháu, cậu lấy làm thương. Hai cháu nên suy nghĩ kĩ để ngày sau khỏi phải than tiếc vì nỗi chim hết, cung treo! Cậu với hai cháu đều cùng một lẽ. Nay cậu muốn trở về Thuận Hóa ngao du sông núi để khỏi cảnh cá chậu chim lồng, nhưng cậu đâu nỡ để hai cháu bị người ta giết hại. Mong hai cháu mau trù tính mưu kế lớn kẻo lại hối về nỗi cắn rốn cháy mày. Các cháu phải ghi nhớ trong lòng, chớ để tiết lộ. Phải cẩn thận lắm đấy! Đừng quên lời cậu dặn!

[83] Tôn, Ngô, Tương Tử: tức Tôn Vũ, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, ba nhà quân sự nổi tiếng của Trung Quốc thời cổ.

Bọn Ngạn, Khuê cảm tạ, khóc vái lĩnh mệnh ra về, quyết chí mưu phản. Đoan quốc công cả mừng. Sáng hôm sau sửa sang áo mũ vào phủ chúa, bẩm với Bình An vương rằng:

- Lão phu trộm xét trong triều từ tể tướng đến trăm quan đều dốc lòng trung nghĩa, hết sức giúp vua, chỉ có bọn Ngạn, Khuê kiêu căng ngạo mạn, ngang ngạnh hung hăng, lòng dạ chó má, vong ân bội nghĩa, bất hiếu bất trung. Bọn ấy sớm muộn ắt sẽ dấy lên làm loạn, xin chúa thượng định kế trừ đi kẻo để lo về sau.

Bình An vương Trịnh Tùng nói:

- Lời thừa tướng nói có lí, ta thấy bọn kia rắp tâm đối địch dọc ngang. Nên xử trí sao đây?

Đoan quốc công nói:

- Bọn chúng đều là hạng hữu dũng vô mưu, chỉ ví như trò đùa con trẻ mà thôi. Lão phu xin đem đội quân đi bắt chúng đem về dâng nộp trước mặt chúa thượng, có gì khó!

Bình An vương nói:

- Việc bắt hai thằng giặc ấy xin ủy cho thái úy quốc công cắt đặt định đoạt, trừ bỏ đi để dứt mối lo.

Đoan quốc công nghe nói mừng thầm, vâng mệnh trở về phủ. Hôm ấy là ngày Tết Đoan Ngọ (mồng năm tháng năm). Bình An vương cùng các tướng hội họp ca xướng, ăn uống linh đình, ai nấy rượu say ngã lăn khắp sân thềm. Đoan quốc công bèn chỉnh đốn đội thủy quân, rồi cùng hiến sát sứ Nguyễn Tạo đem quân trở về trấn cũ. Bọn Ngạn, Khuê khóc vái chào biệt.

Thế là Đoan quốc công Nguyễn Hoàng thuận gió xuôi thuyền chẳng mấy ngày đã về đến Nam triều. Các tướng của Nam triều gần xa nghe tin đến nghênh đón chúa Đoan trở về, rồi cùng vào trong phủ chúc mừng. Từ đó Nam chúa lại sửa sang thành trì, thi hành nhân chính để vỗ về dân chúng, trăm họ yên bình, muôn dân vui mừng tuân phục

Người thời bấy giờ có thơ ca tụng rằng:

Khai cơ sáng nghiệp mở dư đồ,

Thao lược mưu mô giỏi tính lo.

Nam trấn rồng cuồn về Bái ấp[84]

Bắc triều gió nổi rối kinh đô.

Chớ rằng Vương Xán[85] tài cao nhất.

Hãy nói Công Tôn[86] trí chẳng nhì.

Muôn năm xây lớn vững quy mô.

[84] Bái ấp: tức huyện Bái (TQ), nơi dấy nghiệp của Háo Cao Tổ. Đây dùng để chỉ Nguyễn Hoàng trở về đất dấy nghiệp ở Thuận Hóa

[85] Vương Xán: người nước Ngụy, học rộng, nhiều tài, một trong nhóm bảy người thường được gọi là “Kiến An thất tử.”

[86] Công Tôn: chỉ Nguyễn Hoàng

Hôm ấy ở Bắc triều bọn Kế quận công Phan Ngạn, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê từ khi biết tin Đoan quốc công đem quân trở về Nam, bèn bàn kín với nhau dấy binh làm loạn. Rồi đó hai tướng đem quân về bao vây kinh thành rất gấp[87], phóng hỏa đốt cháy doanh trại, phố xá. Dân chúng ai nấy đều kinh sợ, dìu mẹ dắt con tìm nơi ẩn lánh để tránh mũi nhọn binh đao. Các tướng của triều đình đem quân ra đánh mấy phen đều thua bại, ai cũng rụt đầu không dám đem quân ra giao chiến nữa.

[87] Về cuộc binh biến của Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê, Toàn thư chỉ nói sơ qua là do Đoan quốc công Nguyễn Hoàng xúi giục (IV, 231). Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng ghi chép tương tự. Cương mục thì bỏ qua không nói đến điều đó (có lẽ là để tránh tiếng không hay cho Nguyễn Hoàng). Thế lực của phiến quân Ngạn, Khuê có lẽ rất mạnh đã vây bức kinh thành Thăng Long như CNDC đã nói rõ ở đây. Nhưng các tài liệu khác đã dẫn ở trên chỉ nói là Trịnh Tùng đem vua Lê chạy về Tây đô… (Thanh Hóa) mà không nói rõ lí do cuộc rút lui đó.

Đang lúc bàng hoàng không có kế sách gì để đem thi thố, Bình An vương bèn phò giá vua Lê theo đường qua huyện Mỹ Lương[88] trở về giữ Thanh Hoa để củng cố căn bản. Quân đi đến núi Khuất Sơn đóng trại nghỉ lại mấy ngày rồi lại đi tiếp về Thanh Hoa. Đến nơi rồi, Trịnh Tùng bèn sai người trở lại kinh thành dò xét tin tức quân giặc.

[88] Mỹ Lương: tên huyện đời Lê thuộc trấn Sơn Tây, nay là đất hai huyện Mỹ Đức và Lương Sơn (Hà Sơn Bình).

Bấy giờ Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê thấy vua Lê đã theo Bình An vương Trịnh Tùng bỏ kinh thành chạy về giữ Thanh Hóa, hai người lấy làm đắc chí, tung hoành vơ vét của cải trong các kho tàng, cướp đoạt tài sản của lương dân. Nhưng lòng tham không đáy, bất ngờ gây nên chuyện tranh chấp chẳng khác kẻ cừu thù. Hai viên tướng ấy ngày đêm đem quân đánh lẫn nhau. Bùi Văn Khuê thấp mưu, bị Phan Ngạn ém phục binh đánh úp giết chết ở sông Nhị Hà. Thế là Phan Ngạn tự khoe khoang mình là kẻ trí dũng kiêm toàn, thiên hạ không ai địch nổi, tự xưng mình là Quan Vũ tái sinh. Phan Ngạn trong lòng không chút e dè. Vốn là kẻ tham của háo sắc, từ khi bắt được Triệu thị, vợ cả của Bùi Văn Khuê là người đàn bà xinh đẹp có đức hạnh nết na, giới nữ lưu ít ai sánh kịp. Phan Ngạn hết sức yêu mến muốn được gặp mặt ngay, bèn sai người đến ép Triệu thị làm lễ thành thân. Triệu thị khóc lóc thảm thiết, bảo với người được Phan Ngạn sai đi rằng:

- Phu quân tôi không biết mệnh trời, đem lòng bội bạc với quý nhân, đến nỗi tan nhà mất mạng. Nay tôi cam chịu ở góa, đâu dám nương dựa vào ai. Nếu như quý nhân có lòng thương xót đến kẻ quê mùa này thì tôi xin theo cầm chổi rổ để hầu hạ quý nhân, mong được thân thanh hiền quý rạng rỡ ông cha. Nhưng xin lui cho vài ngày rồi hãy xin mời quý nhân đến tệ xá chung hoan để thỏa lòng nắng hạn mưa rào ao ước.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3