Từ Hy Thái Hậu - Chương 2 phần 03

Cử tọa hiện diện nghe nói phải rùng mình, king ngạc. Hoàng thượng nghe nói thế cũng phải lạ lùng, ngài đứng dậy, nói:

- Xin lỗi? Vì lí do gì?

- Tâu bệ hạ, như thế đó, họ ngang ngược lắm.

- Cho khanh bình thân.

Cung thân vương nhắc lại:

- Thiên tử cho khanh bình thân.

Đó là một đặc sủng, viên tổng đốc phụng mạng.

Viên quan này người Hán đã cao niên, sinh quán một tỉnh về miền Bắc, rất trung thành với triều đại nhà Thanh. Nhà vua hậu đãi những sĩ phu, bổ nhiệm làm quan sau cuộc sát hạch thi đình, thi hội.

Vua hỏi:

- Nhà ngươi có xin lỗi không?

Lần này vua hỏi thẳng không qua trung gian của thân vương, tỏ ra đức vua rất chú trọng đến việc này.

Viên tổng đốc thưa:

- Muôn tâu Thánh thượng, làm sao kẻ hạ thần lại có thể tự hạ đến xin lỗi chúng. Tuy là kẻ tầm thường bất tài, song được đội ơn mưa móc, ngai rồng bổ nhiệm, giao trọng trách cai trị một vùng. Hạ thần phái viên thuyền trưởng và thủy thủ cùng bọn thảo khấu đến xin lỗi viên quan hồng mao. Nhưng tên Boring trí độn và hợm hĩnh chưa lấy thế là vừa ý. Hắn sai bọn giặc đến bảo hạ thần, hắn muốn chính hạ thần phải thân chinh đến xin lỗi. Hạ thần truyền đao phủ chém đầu cả bọn để thị uy, làm gương cho người nào manh tâm tiếp tay với quân ngoại xâm, phá rối an ninh quốc gia.

- Như thế đã vừa lòng tên hồng mao chưa?

- Muôn tâu Thánh thượng không có gì để cho họ được vừa lòng. Họ muốn gây xáo trộn, lấy cớ để gây một cuộc chiến nữa, chiếm đoạt thêm đất đai và kho liễm của ta. Tên hồng mao xúi giục, khuyến khích, tán trợ các cuộc lộn xộn để thực hiện âm mưu thủ lợi. Vì vậy, trái với luật lệ triều đình, tuyệt đối cấm chỉ không cho nhập cảng vào nội địa nước ta thứ thuốc phiện Ấn Độ, nhưng người Hồng Mao ngang nhiên khuyến khích đem lén lút thuốc phiện vào nước ta. Họ lấy cớ người Hán đem thuốc phiện vào bán cho dân chúng được thì người Hồng Mao, người Pháp, người Ấn Độ cũng có quyền làm. Tâu bệ hạ nha phiến đầu độc dân tộc mình làm cho tinh thần bạc nhược, thể chất yếu hèn. Lại còn một nguy cơ nữa, nhờ việc buôn bán lén lút nha phiến mà quân phiến loạn miền Nam đổi chác, chuyển vận vũ khí vào trong nội địa. Người Bồ Đào Nha tuyển mộ người Hán nói để làm phu, tên Boring nhiệt thành tán trợ việc đó. Họ còn yêu sách thêm đất đai để xây cất, họ nói phần đất mình nhường cho họ không đủ. Quân Hồng Mao còn đề nghị mình phải mở các cửa thành để cho gia đình họ được tự do đi lại trong tỉnh Quảng Đông và sống chung với dân tộc mình. Người ta để ý thấy đàn ông hồng mao thích nhìn phụ nữ nước mình. Còn bọn đàn bà ngoại lai chẳng có chút gì thẹn thò, ý tứ, xông xáo các nơi không thua gì bọn đàn ông. Nếu ta chiều theo ý họ, bọn ngoại lai khác ghen tị, cũng đòi phải được ưu đãi. Tình trạng này rất nguy hại, làm sụp đổ nền móng văn hóa nước ta và ung thối dân tộc mình.

Hoàng thượng tán thưởng ý đó, gật đầu, ngài phán:

- Chúng ta không thể nào để quân bạch chủng ngang nhiên đi lại một cách tự do bừa bãi trong đường phố của ta.

- Muôn tâu Chúa thượng, hạ thần đã nghiêm cấm. Hạ thần e quân Hồng Mao vin vào sự ngăn cấm đó để gây cuộc binh đao. Hạ thần, một kẻ bất tài, giữ một trọng trách quá nặng nề, hạ thần không dám quyết đoán đảm nhiệm.

Từ Hy ngồi sau tấm bình phong nghe hết sớ tấu, lòng căm phẫn của nàng lên đến cực độ, song phải cố nén lòng. Nếu nàng có thể can thiệp thì nàng đã lên tiếng rồi, nhưng nàng là một nữ nhi, không được tham khảo, nên phải ngồi nín thinh.

Hoàng thượng hỏi tiếp:

- Khanh có nói ý nghĩ của khanh cho tên hồng mao đó biết không?

Lòng phẫn nộ của ông vua lên đến cực độ, ông nói lớn, giọng như thét lên làm viên tổng đốc sợ thất thần, vì xưa nay chưa bao giờ thấy Hoàng thượng nói lớn tiếng. Viên tổng đốc quay mặt về Cung thân vương, nói:

- Muôn tâu Chúa thượng, hạ thần không thể nào tiếp tên hồng mao đó vì hắn láo xược nói, hắn chỉ nói chuyện với người nào ngang hàng với hắn. Nhưng làm sao hắn có thể ngang hàng với hạ thần đã đội ơn được sắc phong của Chúa thượng. Nếu hạ thần tự hạ thấp xử ngang hàng với hắn, hạ thần phạm tội khi quân; hạ thần có sai thuộc hạ đến bảo cho hắn biết hạ thần thuận cho hắn vào yết kiến nhưng với tư cách một thuộc quốc, hắn phải quỳ. Hắn tự chối, không chịu.

Mặt rồng nổi giận, gật đầu xác nhận:

- Khanh nói hữu lí.

Được đức vua tán thưởng, viên tổng đốc tiếp tục trình bày:

- Muôn tâu Chúa thượng tên Boring còn yêu sách hạ thần phải nghiêm trị những ai dán bích chương, thuyết khẩu hiệu bài xích quân bạch chủng. Hạ thần biết những bích chương do người Hán viết, dán ở các cổng thành vào tỉnh. Tên Boring đọc những bích chương đó tức lắm vì trong tờ bích chương nói quân bạch chủng là một man chủng, triều đình phải đuổi hết bọn man rợ ra biển.

Hoàng thượng như reo lên, ngắt câu:

- Vì lẽ gì có những bích chương đó?

- Muôn tâu Chúa thượng, vì lẽ gì, hạ thần không rõ, hạ thần làm sao cấm được dân chúng dán những bích chương bài ngoại. Dân chúng vẫn được tự do phát biểu công khai tư tưởng chống đối. Hạ thần làm sao bịt được mồm dân chúng nếu cấm đối lại phát sinh tao loạn. Năm ngoái, hạ thần thị uy dân chúng, theo pháp luật, truyền cho quân đội dùng vũ khí diệt hết quân phiến loạn đã bị giết, nhưng còn sót lại một tên sẽ có ngay mười vạn tên khác. Quân phiến loạn được ngoại bang yểm trợ, khuyến khích, mưu đồ phế bỏ triều đại nhà Thanh, dân tộc Hán phải do người Hán cai trị.

Lời giải thích đó làm Hoàng thượng bàng hoàng, toát mồ hôi. Ông lấy bàn tay mặt để che mồm, không muốn ai nom thấy hai môi ông run run. Sự thật ông rất sợ người Hán hơn bọn người bạch chủng. Với một giọng yếu ớt. Ông lẩm bẩm, khẽ nói:

- Không nên cấm đoán dân chúng, để mặc họ phát biểu tư tưởng.

Cung thân vương nhắc lại lời vua vừa nói. Tất cả thân vương, đình thần đang quỳ mọp xì xào tán thưởng lời vua vừa truyền xuống. Vua nói:

- Mai sẽ có quyết nghị.

Viên tổng đốc rập đầu chín lần xuống sân rồng, cáo lui, nhường chỗ cho một viên quan khác đến dâng sớ, biểu. Tất cả mọi người đều biết tại sao hoàng thượng để đến mai mới ra quyết nghị.

Suốt ngày hôm đó, Từ Hy ngồi một mình suy nghĩ, quên cả việc sai người ẵm con về chơi. Nàng tức quá, càng nghĩ càng thấy căm thù quân sài lang, nàng muốn vua cho đem quân tống cổ hết quân ngoại xâm ra biển, không cho phép một tên nào trú ngụ trên lãnh thổ.

Nhưng nghĩ lại lúc này chưa phải lúc nàng có thực quyền. Nàng cũng biết tự khắc phục mình trước, sau đó mới khắc phục được người. Nàng còn nhớ một câu trong sách văn tuyển.

“Người có đức độ, liêm chính, trị dân không cần hình luật, mà dân sự theo. Người trị dân không có đức độ, liêm chính, tuy có hình luật mà dân không theo.”

Mấy lời nói đó để áp dụng cho một người đàn ông, đối với người đàn bà cầm quyền bính lại còn cần thiết hơn. Nàng nhận thấy có hai điều bó buộc: Nếu nàng sanh ra là đàn ông sẽ cầm quân chống xâm lăng; không biết kiếp trước nàng đã phạm tội gì để kiếp này sanh làm đàn bà. Trong khi quốc gia nghiêng ngả, cần phải có chí dũng để bảo vệ non sông.

Nàng bận tâm suy nghĩ rất lâu, lòng lại hỏi lòng sao lại có sự oái ăm như vậy? Hiện giờ nàng là một người đàn bà vốn dĩ đã như vậy, nàng phải hành động với một tâm trí dũng cảm của một nam nhi trong một thể xác đàn bà.

Đêm hôm đó khi vào nội tẩm bệ kiến, nàng thấy ông vua mặt ủ mày chau, lo lắng, sợ hãi, không còn thiết đến thú vui thường nhật, nhưng dù có nghĩ tới, ông cũng đã bất lực không sao thõa mãn được nhục dục. Có nàng bên cạnh, lòng phiền muộn của ông như vơi được phần nào. Ông nắm hai bàn tay nàng, vuốt ve, hỏi nàng một câu, nàng đã biết trước câu hỏi đó:

- Nên xử trí thế nào với tên hồng mao Boring. Tội hắn có nên giết không?

- Xét tội trạng, nên chém đầu. Người nào xúc phạm đến long thể, khi quân phải tội tử hình. Nhưng xin lưu ý Chúa thượng, muốn giết một con rắn độc phải đánh dập đầu, đánh một nhát chết ngay, nếu đánh trượt, nó sẽ quay lại cắn người đánh nó. Như vậy, muốn hạ tên đó, mình phải có một vũ khí hữu hiệu và thần tốc. Hiện mình chưa hiểu con rắn đó thế nào nhưng chắc chắn con rắn này quỷ quyệt và mạnh lắm. Thần thiếp xin đề nghị muốn hạ độc thủ phải tranh thủ thời gian, mình dùng kế cò cưa, không nhượng bộ hẳn mà cũng không khước từ hẳn.

Ông vua cố lắng tai nghe, da mặt vàng nghệch lại thêm những nếp nhăn vì lo sợ và bệnh hoạn, ông cố ghi nhận từng lời, như ở trên cho một vị thiên thần nói xuống, vẽ đường, chỉ lối.

- Quý phi quả là hiện thân của Phật Bà Quan Âm, lòng Trời run rủi được quý phi đến giúp trẫm trong lúc thiên nan vạn nan này.

Ông cũng nói mấy câu tình tự, ông gọi nàng là “Tâm can của ông.” Mấy lời tâng bốc của ông vua làm nàng hết sức cảm kích. Nàng nói:

- Đức Phật Quan Âm là một vị chí kính chí tôn đối với thần thiếp.

Lời nàng nói tuy dịu dàng, mềm mại song rất đanh thép đầy nghị lực.

Ông vua đang nằm đột nhiên ngồi nhổm dậy, truyền:

- Truyền cho viên thái giám cấp tốc triệu thỉnh Hoàng tùng đệ vào bệ kiến có việc thượng khẩn.

Cũng như mọi người tâm hồn bạc nhược, ông vua này khi đã quyết định một việc gì, hấp tấp muốn cho thi hành tức khắc.

Tuy vậy, Từ Hy cũng phụng mệnh truyền đạt truyền lệnh cho tên thái giám đứng túc trực ở cửa cung.

Vài phút sau, Cung thân vương vào yết kiến. Nhìn khuôn mặt đĩnh ngộ, sáng như gương của vị vương này, Từ Hy nghĩ thầm người này có thể đảm nhiệm thi hành sứ mạng. Cả hai người cùng đồng một ý nghĩ, một quan niệm.

Hoàng thượng vội vàng mời em ngồi xuống.

- Ngồi xuống... Ngồi xuống...

Cung thân vương niềm nở nói:

- Cho phép tôi đứng để nghe hoàng huynh chỉ giáo.

Cung thân vương đứng cạnh long sàng. Hoàng thượng với một giọng yếu ớt, ẻo lả, nhắc đi, nhắc lại từng tiếng như một người nói lắp, vừa nói vừa tìm câu nói:

- Đệ nàỵ… Chúng mình... à tôi quyết định thế nàỵ… đem quân đánh... đánh úp quân ngoại xâm. Tội chúng nó đáng chết lắm... à này, tôi nghĩ... khi mình định hạ một con rắn độc... Nghĩa là, Hoàng đệ có hiểu không... phải chém nó một nhát nó chết liền, nghiền nát đầu nó ra hay cắt đầu nó. Nếu nó còn ngắc ngoải nó quay lại thì chí nguy, chí nguy. Ấy vấn đề đại khái như thế...

Cung thân vương ngắt lời, nói:

- Đệ hiểu, hiểu lắm ý vương huynh. Mình không nên bạo động dùng binh lực diệt trừ chúng nó nếu mình chưa có gì bảo đảm chắc chắn hạ hẳn được chúng.

Ông vua, nét mặt rầu rĩ, nhăn nhó, nói:

- Đệ nói đúng như ý trẫm nghĩ. Việc triệt hạ bọn chúng, mình phải chờ thời cơ thuận tiện. Trong lúc này mình dùng kế trì hoãn, án binh bất động. Mình phải dùng dằng, kéo dài thời gian, chính sách “cò cưa” chúng yêu sách gì mình cũng ậm ừ, không hẳn là nhượng bộ mà cũng không hẳn là không.

Cung thân vương nói:

- Nghĩa là mình tỏ vẻ khinh bỉ chúng. Mình nhử mồi như người ta nhử con nít.

- Đúng vậy.

Ông vua nói đến đấy đã mệt lắm, ngã lưng xuống nệm vóc vàng.

Thân vương đứng suy nghĩ. Nếu ông vua tự nghĩ quyết định này, có lẽ ông muốn thụ động, không muốn rắc rối, lôi thôi sinh ra nhiều chuyện phức tạp, phiền phức. Ông nghĩ có lẽ Từ Hy đã mớm lời. Ông cũng nhận thấy lí luận rất vững vàng, xác đáng. Sau khuôn mặt mĩ miều Từ Hy có một khối óc lanh lợi, thông minh. Nàng còn trẻ quá mà là một phụ nữ. Liệu nàng có đủ khôn ngoan, kinh nghiệm lịch duyệt không?

Thân vương tâu:

- Tâu Chúa thượng...

Ông vua xua tay không muốn nghe, với một giọng có vẻ bực bội, khó chịu, ông nói:

- Ta đã nói cứ thế mà làm.

Cung thân vương nghiêng đầu:

- Xin phụng chỉ Chúa thượng, ngu đệ sẽ truyền đạt thánh chỉ cho viên tổng đốc Lưỡng Quản.

Triều đại nhà Thanh sống trong sự hòa hoãn bấp bênh. Một buổi sáng mùa đông, cuối năm âm lịch, Thái tử đã được chín tháng, Từ Hy thức giấc, thở dài rất não nuột. Suốt đêm nàng không sao ngủ được, trong óc miên man suy nghĩ hết việc này đến việc khác. Nàng tự thấy cô đơn, linh tính cảm thấy có gì nguy hiểm, như có âm mưu muốn ám hại hai mẹ con nàng. Nhớ khi còn con gái ở nhà, sáng ngủ dậy, thâm tâm nhẹ nhõm, trí óc thảnh thơi, không có gì lo ngại, ưu phiền. Chiếc giường xấu xí nàng nằm chung với em gái thuở nào, như một nơi kín đáo, không ai biết đến, một nơi bất khả xâm phạm, dưới sự trông nom săn sóc của mẹ nàng. Ở đây, trong một nơi mông mênh kín cổng cao tường, đường ngang lối dọc, nào cung nào điện nguy nga, ở ngoài ai biết nàng còn sống hay chết. Ông vua, người chồng nàng còn biết bao nhiêu cung tần, mĩ nữ. Nghĩ thế lòng quặn đau, úp mặt xuống gối rên rỉ:

- Ối! Mẹ ơi!

Nàng gọi mẹ, không nghe có tiếng trả lời. Nàng ngẩng đầu lên, nhìn ra ngoài sân, ánh sáng lờ mờ, trời chưa sáng rõ. Mưa tuyết suốt đêm, ngoài sân, ngoài vườn một lớp tuyết dày phủ kín, những cây thông nặng trĩu tuyết. Nàng nghĩ buồn quá, nỗi buồn thấu đến xương đến tủy.

Nàng rất khỏe mạnh, hai cánh tay rắn chắc ủ trong nệm, nóng ran. Máu trong người chảy điều hòa, trí óc sáng suốt minh mẫn. Nàng chỉ buồn vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ họ hàng.

- Nếu ta có thể về thăm mẹ, thăm người đã mang nặng đẻ đau ra ta.

Nàng nhớ lại khuôn mặt mẹ hiền từ, thông minh, vui vẻ. Nàng muốn gặp mẹ, nói cho mẹ biết cảnh cô đơn của nàng ở trong cung cấm. Ở nhà ông chú phố Hàng Thiết, nàng sống nhàn hạ ung dung, chẳng phải lo lắng sợ hãi, chẳng cần để ý đến ngày mai. Cả ngày giúp mẹ làm những công việc thường nhật, những sự cần thiết cho cuộc sống. Không cần xa hoa, lộng lẫy, một cuộc sống an nhàn, bình thản.

Nàng lại thở dài gọi mẹ ơi, như một đứa trẻ. Làm sao nàng lại trở về ngôi nhà cũ nom lại khuôn mặt mẹ nàng.

Suốt ngày nàng băn khoăn với ý nghĩ đó. Lòng buồn cảnh vật cũng buồn, mưa tuyết rả rích, gió thổi vi vút suốt ngày. Trời u ám, trong nhà giữa trưa phải thắp đèn. Cả ngày hôm đó, Từ Hy ngồi trong thư viện riêng, trong một cung nhỏ gần đó. Nàng thu thập những sách cổ, những cuốn tranh cổ. Hôm ấy lòng buồn, tuy đọc sách nhưng không thích thú. Nàng để thời giờ giở những cuốn tranh ra coi. Có một tấm nàng ưng ý nhất, tấm này dài hai thước do họa sĩ Thiệu Mạnh Phúc vẽ từ triều đại Mông Cổ nhà Nguyên. Tấm tranh đã được năm trăm năm, phỏng theo lối vẽ của Vương Vệ, một đại danh họa cổ. Nàng ngắm nhìn tấm tranh, nét bút thật tuyệt luân, màu sắc hòa hợp dịu dàng, cây cỏ, nước non, xa xa những ngọn đồi trùng điệp.

Trí tưởng tượng đưa nàng bay bổng ra khỏi bức tường thành, nàng đi ngao du một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, những suối nước chảy róc rách, những hồ lớn, rừng sâu. Bước chân tha thẩn đi men theo dòng sông, có chỗ đi ngang qua một chiếc cầu gỗ, leo lên núi có những đường hẹp, trải đá, ngang qua một thác nước chảy ầm ầm. Nàng xuống đồng ruộng qua những làng mạc nhỏ trong rừng thông, đi qua những thung lũng nắng ấm, có những bụi trúc, cây cỏ xum xuê. Nàng dừng chân ở một cái chòi của một ẩn sĩ rồi đến một cái vịnh nhỏ của một con sông uốn khúc. Trên mặt sông lẫn vào đám sậy một chiếc thuyền đánh cá rập rình trên mặt nước. Con sông chảy ra biển cả xa tít, màn sương che khuất.

Người thiếu nữ Mai, một hôm đã bảo nàng, tấm tranh này linh động, có tâm hồn nghệ sĩ kết tinh ở đây.

Cuộc đời con người trên trần thế cũng như những cảnh họa sĩ mô tả trong tranh, bao nhiêu quãng cam go, khổ cực phải đấu tranh, thăng trầm, vinh nhục, tương lai mù mịt sau này ra sao?

Sau một ngày buồn tẻ, chiều hôm đó ngài được đức vua vời đến. Vua hỏi:

- Trẫm xem ý quý phi lòng dạ để ở đâu không nghĩ gì đến trẫm. Tuy thân ở đây, tâm ở nơi khác.

Ông vua nắm bàn tay nàng, một bàn tay nõn nà rất đẹp nước da trắng nuốt, mịn màng.

- Phi nhìn coi bàn tay trẫm đây, bàn tay của quý phi không giống bàn tay của một người đàn bà nào.

Nàng thỏ thẻ thưa:

- Suốt ngày hôm nay, thần thiếp buồn quá, thần thiếp không nói chuyện với ai, hôm nay cũng không cho Thái tử về chơi.

Ông vuốt ve bàn tay nàng khẽ nói:

- Có chuyện gì làm quý phi buồn phiền, quý phi ước mong điều gì đều được như ý cả mà.

Nàng muốn giãi bày lòng phiền muộn, lo lắng sợ có âm mưu ám hại nhưng nghĩ lại thấy không nên nói, để ông phải lo sợ, ông trông cậy vào nàng như một nguồn nghị lực của ông. Vì vậy, trước mặt ông, lúc nào cũng phải tỏ ra có nghị lực, quả cảm. Nàng cũng không biết giãi gày tâm sự với ai. Không có ai là người tâm phúc ruột thịt, nàng cảm thấy cô đơn, vui buồn một mình mình biết, một mình mình hay.

Hai mắt nàng ướt đẫm lệ rạt rào tuôn rơi, dưới ánh sáng ngọn bạch lạc, ông vua nom thấy hoảng quá.

- Quý phi có điều gì bất mãn, buồn phiền? Trẫm chưa thấy bao giờ quý phi khóc.

Nàng rút hai bàn tay ở tay ông ra, lấy ống tay áo lụa chùi nước mắt. Dáng điệu chùi nước mắt của nàng nom rất khả ái. Nghẹn ngào, nàng nói:

- Suốt ngày hôm nay, thiếp nghĩ nhớ mẹ thiếp quá, đột nhiên lòng nao nao buồn nghĩ đến mẹ. Thiếp đã không làm tròn chữ hiếu. Từ ngày phụng chỉ Hoàng thượng vào ở trong này, thiếp chưa được thấy mẹ thiếp lần nào. Thiếp không biết mẹ thiếp có được mạnh khỏe không? Có khi mẹ thiếp qua đời rồi, thiếp có linh cảm nghĩ đến mẹ mà khóc.

Ông vua rất chiều nàng, muốn nàng được sung sướng vui vẻ, nom nàng ủ rủ buồn phiền, ông rất khổ tâm. Ông nói:

- Đi thăm mẹ là rất phải. Làm sao quý phi không nói ngay với trẫm. Mai quý phi về chơi thăm nhà. Đến chiều quý phi lại trở về đây, vắng quý phi một đêm trẫm không chịu được.

Thế là Từ Hy được phép chơi nhà một hôm thăm mẹ. Để tỏ lòng tri ân vua đã chiều theo ý nàng, nàng làm ra vẻ rất ân cần đằm thắm với vua. Tuy nhiên, ngày hôm sau nàng cũng chưa về chơi nhà, nàng cho người đến báo trước cho ông chú biết để sửa soạn cửa nhà đón tiếp. Hai thái giám được phái đến nhà ông chú nàng, báo tin ngày mai vào giờ Ngọ, nàng sẽ về thăm nhà. Sáng hôm nàng về chơi, nàng dậy rất sớm, trong lòng khoan khoái, nhẹ nhõm, từ lâu chưa hôm nào nàng được vui vẻ như thế. Nàng mất một giờ suy nghĩ, sửa soạn quần áo, trang điểm sao cho hợp để về chơi nhà. Nàng bảo người a hoàn:

- Ta ăn mặc thường, không muốn lộng lẫy lòe loẹt, thiên hạ cho ta kiêu ngạo, hợm hĩnh.

- Tâu lệnh bà, lệnh bà cũng cần phải ăn mặc lịch sự uy nghi, nếu không thiên hạ đàm tiếu, họ cho là có ý khinh họ.

- Như vậy cũng gọi là thôi không nên cầu kì xa hoa.

Nàng đem hết áo ra để lựa chọn, ngắm nghía, chọn được một chiếc, rồi suy nghĩ bỏ lấy chiếc khác, chiếc sau cũng chưa được như ý. Cuối cùng nàng lấy chiếc áo vóc màu nhã nhặn hoa lan, mặt trong lót lông thú màu xám. Chiếc áo này, nàng không chú trọng vào hai ống tay và đường viền có thêu, nhưng lối áo, kiểu cách dị thường. Nàng rất ưng ý chiếc áo đó, còn đồ nữ trang, nàng chọn thứ bằng ngọc thạch. Để chiều ý a hoàn cố mời mọc, nàng ăn qua loa điểm tâm rồi bước lên song loan, người ta kéo rèm song loan che kín, bọn phu khênh vác đòn lên vai, cuộc du hành bắt đầu. Song loan đi ở trong cấm thành gần hai cây số. Từ Hy ngồi trong song loan, tính nhẩm con đường đi qua, hết cung này đến điện khác, bây giờ nàng đã thuộc đường lối trong nội thành. Hoàng thượng ra đặc ân cho phép nàng ra khỏi cấm thành qua cửa Ngọ môn, cửa này chỉ dành riêng cho vua. Khi song loan ra khỏi cửa Ngọ môn, nàng nghe thấy tiếng hô lính của viên chỉ huy ngự lâm quân “Nghiêm”. Nhận ra tiếng nói quen thuộc, nàng nghiêng đầu về phía trước khẽ vén rèm song loan, nhìn thấy Nhung Lữ đứng gần đó, mặt ngoảnh đi, gươm tuốt trần, người đứng ngay ngắn. Khi nàng đi qua, chàng vẫn đứng yên, không ngoảnh đầu lại, nàng đoán, hai má hắn đỏ bừng vì nàng đi sát gần bên. Nàng buông rèm xuống.

Vào lúc quá Ngọ, khi song loan đến phố Hàng Thiếc, ngồi sau rèm, nàng đoán sắp đến ngôi nhà nàng ở khi còn nhỏ. Nàng ngửi thấy những mùi quen thuộc, mùi mỡ rán bánh, mùi long não, mùi khai nước đái con nít, cát bụi ngột ngạt. Trời rét ngọt, tiếng chân phu giẫm thình thịch xuống nền đất rắn chắc. Nhà cửa san sát, chiếu bóng xuống mặt đường. Nàng nhớ bóng nhà, lúc sáng ngả về phía tây rồi dần dần và quá trưa đổ về phía đông. Giữa trưa, trời nắng chang chang, chiếc song loan vô đến cổng nhà. Từ Hy thấy tất cả nhà đứng chờ ở cổng nhà. Phía trước có mẹ nàng và các anh, chị, em, bà con họ hàng, phía trái có một thiếu nữ người mảnh dẻ, có lẽ em nàng, hai em trai, nàng không nhận ra, bây giờ đã thay đổi khác nhiều, đằng sau, người vú già Lư Mã. Khi chiếc song loan đến, người ở phố kéo ra đường đông nghẹt, đứng xem.

Nàng nhìn nét mặt hân hoan trịnh trọng của mọi người ra đón. Nàng xúc động quá trào nước mắt. Lòng nàng vẫn thế, đối với mọi người như ngày nào còn ở nhà. Nàng muốn nói lên cảm nghĩ đó. Tuy vậy nàng không thể vén tấm rèm ở xe, gọi tên từng người, vì bây giờ nàng là Tây cung Thái hậu, con nàng là Đông cung Thái tử, nàng không được suồng sã, cách thức phải tương xứng với địa vị. Nàng ngồi yên trên xe, bọn thái giám đi trước cho tới cổng nhà. Viên chưởng quản thái giám phải đi kèm song loan theo chỉ thị của Hoàng thượng. Sáu người phu khênh song loan lên mấy bực thềm, đặt song loan xuống sân. Viên chưởng quản thái giám đến kéo bức rèm. Từ Hy bước ra ngoài. Ngôi nhà nàng ở hồi nhỏ, các cửa mở rộng, ánh nắng ngoài chiếu vào chan hòa. Nàng nhìn thấy những gian phòng quen thuộc, một gian phòng lớn, đồ đạc lau chùi bóng lộn, nền nhà rất sạch. Nàng nhớ lại đã bao nhiêu lần nàng quét nhà, lau chùi đồ đạc, bàn ghế... Một chiếc lọ cắm hoa giấy đỏ chói để ở giữa bàn, mấy ngọn nến mới nguyên cắm trên giá đèn. Người ta đã pha sẵn một ấm trà, mấy đĩa bánh ngọt ở trên mâm, có lồng bàn đậy.

Nàng vịn vào cánh tay viên thái giám, gã đưa nàng đến ngồi trên một chiếc ghế cao ở phía tay mặt chiếc bàn, nàng ngồi, đặt hai chân trên một chiếc ghế nhỏ thấp. Viên chưởng quản thái giám lui ra cửa, báo cho mọi người biết có thể vào tiếp kiến Tây cung Thái hậu, nàng ngồi vén xiêm y gọn gàng, hai tay khoanh trước ngực. Tất cả gia đình vào, từng người một, trước tiên ông chú, rồi đến mẹ, các anh em thúc bá sau cùng các em ruột nàng. Lần đầu, Từ Hy ngồi đường bệ theo đúng nghi lễ một vị Hoàng hậu. Nàng uy nghi tiếp nhận mọi người đến bái yết, nhưng khi chú và mẹ đến khấu đầu, nàng ra hiệu cho thái giám nhấc hai người dậy và mời ngồi xuống ghế. Khi cuộc lễ triều kiến hoàn tất, không ai nói gì, lúc đó Từ Hy mới nói, nàng nhìn mặt từng người. Nàng muốn đứng dậy đi xuống nói năng, trò chuyện tự do như khi xưa, chạy, nhảy tung tăng khắp nhà. Nhưng nghĩ không tiện, viên chưởng quản thái giám lúc nào cũng kè kè bên cạnh, để ý từng cử chỉ của nàng. Nàng nghĩ cũng phải có một lúc nào tự do, muốn làm gì tùy ý. Tất cả mọi người trong gia đình quây quần quanh nàng, ngồi theo thứ bực. Các vị trưởng thưởng ngồi trên ghế, người trẻ đứng, mọi người chờ để nghe nàng nói, nhưng có người lạ đứng đó làm sao nàng có thể nói được. Nàng gõ mấy ngón tay trên mặt bàn (những ngón tay có đeo tháp bằng vàng) ra hiệu gọi viên thái giám lại gần. Nàng ghé vào tai viên thái giám nói: