Trăng lạnh - Phần II - Chương 32 - Phần 1
CHƯƠNG 32
Gerald Duncan ngồi trên lề đường, bên cạnh Sachs và Sellitto. Gã bị còng tay, bị lột mũ, kính râm, mấy đôi găng tay màu be, ví và một dụng cụ cắt hộp vấy máu.
Khác với Dennis Baker, gã có thái độ dễ chịu, hợp tác – mặc dù gã bị đẩy ngã xuống đất, bị lục soát và còng tay bởi ba sĩ quan cảnh sát, trong đó có Sachs, một cô gái vốn không được đánh giá là có phong cách dịu dàng khi hạ gục các đối tượng, đặc biệt các đối tượng như thế này.
Bằng lái xe cấp tại bang Missouri khẳng định nhân dạng gã và đưa ra một địa chỉ ở St. Louis.
“Lạy Chúa”, Sellitto nói. “Bằng cách quái nào mà anh nhận ra hắn?”
Kết luận của Rhyme về nhân dạng vị khán giả kia chẳng phi thường như nó có vẻ thế. Ý nghĩ rằng Thợ Đồng Hồ chưa chuồn khỏi hiện trường xuất hiện trước khi anh phát hiện ra gã đàn ông trong con hẻm.
Pulaski báo cáo. “Tôi đã tìm thấy anh ta. Nhân viên y tế.”
Rhyme vươn người về phía chiếc điện thoại mà chàng cảnh sát trẻ giơ ra trong bàn tay đeo găng và trao đổi ngắn gọn với bác sĩ. Anh ta cung cấp một số thông tin rất thú vị. Rhyme cảm ơn anh ta và gật đầu, Pulaski ngắt kết nối. Nhà hình sự học di chuyển chiếc xe lăn Storm Arrow đến gần Duncan.
“Ông là Lincoln Rhyme”, tù nhân nói, y như hắn cảm thấy hân hạnh được gặp nhà hình sự học.
“Đúng vậy. Và anh là kẻ tự xưng danh Thợ Đồng Hồ.”
Gã đàn ông bật tiếng cười hiểu biết.
Rhyme quan sát gã thận trọng. Gã xem chừng mệt mỏi nhưng thể hiện một vẻ hài lòng – thậm chí là thanh thản.
Với nụ cười hiếm hoi, Rhyme hỏi đối tượng: “Vậy. Anh ta thực sự là ai? Nạn nhân trong con hẻm ấy. Chúng tôi có thể tìm kiếm thông tin ở hồ sơ lưu trữ công cộng về Theodore Adams, nhưng như thế sẽ lãng phí thời gian đúng không?”
Duncan nghiêng nghiêng đầu. “Ông cũng xác định được điều đó.”
“Adams thì sao?”, Sellitto hỏi. Rồi nhận ra có những câu hỏi bao quát hơn cần hỏi. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây vây, Linc?”
“Tôi đang hỏi kẻ bị tình nghi của chúng ta về người đàn ông chúng ta tìm thấy trong con hẻm sáng hôm qua, cổ bị đè vỡ. Tôi muốn biết anh ta là ai và anh ta đã chết như thế nào?”
“Con lừa này giết anh ta”, Sellitto nói.
“Không, anh ta không giết. Tôi vừa trao đổi với nhân viên y tế. Anh ta chưa mang đến cho chúng ta kết quả cuối cùng của việc mổ khám nghiệm tử thi, nhưng anh ta vừa cung cấp cho tôi kết quả sơ bộ. Nạn nhân chết lúc năm hoặc sáu giờ chiều thứ Hai, không phải lúc mười một giờ khuya. Và anh ta chết ngay lập tức bởi những tổn thương nghiêm trọng bên trong cơ thể phù hợp với một tai nạn ô tô hay một cú ngã. Cái họng bị đè vỡ chẳng liên quan gì. Xác chết đã đóng băng cứng lại khi chúng ta phát hiện ra nó vào buổi sáng hôm sau, nên bác sĩ không thể tiến hành làm thực nghiệm chính xác về nguyên nhân và thời gian tử vong.” Rhyme nhướn một bên mày. “Vậy, ngài Duncan. Ai và tại sao?”
Duncan trình bày: “Chỉ là một tay tội nghiệp bị chết trong một tai nạn ô tô trên mạn Westchester. Tên anh ta là James Pickering.”
Rhyme thúc giục: “Cứ tiếp tục. Và hãy nhớ, chúng tôi thiết tha muốn biết các câu trả lời.”
“Tôi nghe được về vụ tai nạn qua thiết bị dò sóng bộ đàm của cảnh sát. Xe cấp cứu đưa cái xác đến nhà xác bệnh viện của hạt. Tôi đã đánh cắp cái xác tại đó.”
Rhyme nói với Sachs: “Gọi cho bệnh viện đi.”
Cô thực hiện mệnh lệnh. Sau một cuộc trao đổi ngắn gọn, cô báo cáo: “Một người đàn ông ba mươi mốt tuổi chạy xe trên đường cao tốc Sông Bronx khoảng năm giờ chiều thứ Hai. Mất lái vì trượt vào băng. Chết ngay lập tức, tổn thương bên trong. Tên là James Pickering. Xác được đưa đến bệnh viện nhưng rồi đã biến mất. Họ nghĩ chắc nó đã được chuyển sang bệnh viện khác do nhầm lẫn, tuy nhiên không thể tìm thấy. Như anh cũng hình dung ra được, thân nhân người chết chưa nhận được xác.”
“Tôi rất tiếc vì việc đó”, Duncan nói, và trông gã đúng là có vẻ bối rối. “Nhưng tôi chẳng có sự lựa chọn nào. Tôi giữ tất cả tài sản cá nhân của anh ta và tôi sẽ trả lại họ. Bản thân tôi sẽ chịu phí tổn tang lễ.”
“Chứng minh thư và những thứ trong ví mà chúng ta tìm thấy trên cái xác thì sao?”, Sachs hỏi.
“Giấy tờ giả mạo”, Duncan gật đầu. “Sẽ không qua được việc xem xét kĩ lưỡng, nhưng tôi chỉ cần người ta bị lừa trong vài ngày.”
“Anh đánh cắp cái xác, lái xe đưa nó đến con hẻm và bố trí nó với thanh sắt nén xuống cổ, nhằm làm cho người ta tưởng nạn đã chết từ từ.”
Duncan gật đầu.
“Rồi anh cũng để lại chiếc đồng hồ và lời ghi chú.”
“Đúng thế.”
Lon Sellitto hỏi: “Nhưng cái cầu tàu, ở phố Hai mươi hai? Người đàn ông anh giết tại đó thì sao?”
Rhyme liếc nhìn Duncan. “Máu của anh thuộc nhóm AB phải không?”
Duncan cười thành tiếng. “Ông giỏi đấy.”
“Không hề có một nạn nhân trên cầu tàu, Lon ạ. Đó là máu của chính anh ta.” Quan sát kẻ bị tình nghi, Rhyme nói: “Anh để lại lời ghi chú và chiếc đồng hồ trên cầu tàu, đổ máu của anh ra xung quanh đấy và bôi lên chiếc vét tông rồi ném xuống sông. Anh tự tạo nên những vết móng tay cào. Anh lấy máu mình ở đâu? Anh tự lấy ra à?”
“Không, tôi lấy ở một bệnh viện bên New Jersey. Tôi bảo họ là tôi muốn dự trữ nó vì tôi đang có kế hoạch làm phẫu thuật.”
“Đó là lí do tại sao xuất hiện chất chống đông.” Máu để dự trữ thông thường được pha chất làm loãng nhằm ngăn chặn quá trình đặc lại.
Duncan gật đầu. “Tôi tự hỏi liệu ông đã kiểm tra chưa mà biết điều ấy.”
Rhyme hỏi: “Còn cái móng tay?”
Duncan giơ ngón đeo nhẫn lên. Nửa trên móng bị mất. Gã đã tự tước nó ra. Gã nói thêm: “Và tôi chắc chắn rằng Vincent nói với các ông về cậu thanh niên tưởng là bị tôi giết chết gần nhà thờ. Tôi chưa từng động đến cậu ta. Máu trên cái cắt hộp cũng như trên tờ báo nằm trong thùng rác gần đó, nếu nó vẫn còn nằm đó, là của tôi.”
“Việc ấy xảy ra như thế nào?”, Rhyme hỏi.
“Đó là một thời điểm rất bất tiện. Vincent nghĩ cậu thanh niên trông thấy con dao của gã. Bởi vậy tôi phải giả vờ là tôi đã giết cậu ta. Nếu không Vincent có thể ngờ vực tôi. Tôi đi theo cậu ta qua góc phố, rồi rẽ vào một con hẻm, tự cứa cánh tay mình và bôi ít máu của chính mình lên cái cắt hộp.” Duncan chìa ra vết thương còn mới trên cẳng tay. “Các ông có thể xét nghiệm ADN.”
“Ồ, yên tâm. Chúng tôi sẽ làm...” Một ý nghĩ nữa xuất hiện. “Còn vụ cướp xe, anh chưa hề giết ai để đánh cắp chiếc Buick?” Họ chẳng nhận được báo cáo gì về trường hợp sinh viên mất tích ở Chelsea hay về lái xe bị giết để cướp xe ở bất cứ địa điểm nào trong thành phố.
Lon Sellitto không cầm lòng được đành một lần nữa ngắt lời. “Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy?”
“Anh ta không phải là kẻ giết người hàng loạt”, Rhyme đáp. “Anh ta không phải là kẻ giết người thuộc bất cứ thể loại nào. Anh ta dựng lên toàn bộ sự việc để anh ta trông giống như một kẻ giết người mà thôi.”
Sellitto hỏi: “Không có vợ bị chết vì tai nạn à?”
“Chưa từng kết hôn.”
“Làm sao sếp xác định được tình hình?”, Pulaski hỏi Rhyme.
“Vì một điều Lon nói.”
“Tôi ấy à?”
“Thứ nhất, anh nhắc đến tên anh ta, Duncan.”
“Thế thì sao? Chúng ta đã biết cái tên đó.”
“Chính xác. Vì Vincent Reynolds nói cho chúng ta. Nhưng ngài Duncan là người đeo găng tay 24/24 nhằm không để lại dấu vân tay. Cái cung cách quá thận trọng ấy mà lại khai họ tên với một kẻ như Vincent, trừ phi anh ta bất cần chuyện chúng ta có phát hiện ra anh ta là ai hay không. Rồi anh bảo thật may mắn vì anh ta chưa giết thêm nạn nhân nào và chưa giết Amelia. Nghe điều này, đầu tiên tôi cảm thấy bực bội. Nhưng tôi phải suy nghĩ về nó. Anh đã đúng. Chúng ta không thực sự cứu được nạn nhân nào. Cô thợ cắm hoa ấy à? Joanne ấy à? Tôi đồ rằng anh ta có nhằm vào cô ấy, chắc chắn rồi, nhưng cô ấy là người gọi 911 sau khi nghe được một tiếng động trong xưởng, một tiếng động có lẽ anh ta cố ý gây ra.”
“Đúng thế,” Duncan tán thành. “Và tôi để lại cuộn dây kẽm trên sàn nhằm cảnh báo với cô ấy rằng có người đã đột nhập.”
Sachs nói: “Về Lucy, nữ quân nhân ở khu Greenwich Village, chúng ta nhận được cú điện thoại từ một nhân chứng không xưng danh thông báo vụ đột nhập. Nhưng đó hoàn toàn chẳng phải một nhân chứng, đúng không? Chính anh đã thực hiện cú điện thoại ấy.”
“Tôi bảo Vincent là một người nào đấy dưới phố đã gọi 911. Nhưng, không, tôi đã gọi từ máy điện thoại công cộng và tự trình báo mình.”
Rhyme hất đầu chỉ tòa văn phòng đằng sau lưng họ. “Và ở đây, tôi đồ rằng chiếc bình xịt chữa cháy là thứ vô dụng.”
“Vô hại. Tôi tưới một ít cồn lên bên ngoài, còn bên trong đổ đầy nước.”
Sellitto đang gọi điện về đồn cảnh sát khu vực số Sáu, trụ sở của đội tháo bom Sở Cảnh sát New York. Lát sau, ông ta kết thúc cuộc gọi. “Nước máy.”
“Hoàn toàn giống như khẩu súng anh đưa cho Baker, khẩu súng hắn sẽ sử dụng để giết Sachs tại đây.” Rhyme liếc nhìn khẩu súng cỡ ba mươi hai đã được dỡ tung các bộ phận. “Tôi vừa kiểm tra xong, kim hỏa bị bẻ gãy.”
Duncan nói với Sachs: “Tôi cũng bịt cả nòng. Chị có thể kiểm tra. Và tôi biết hắn không sử dụng súng của chính hắn để bắn chị vì như thế hắn sẽ bị ràng buộc vào cái chết của chị.”
“Được rồi”, Sellitto quát. “Thế đấy. Ai nào, hãy nói với tôi.”
Rhyme nhún vai. “Tất cả những gì tôi có thể làm là đưa chúng ta tới cái ga này thôi, Lon ạ. Việc đi trọn chuyến tàu phụ thuộc vào ông Duncan. Tôi ngờ rằng ông ấy đã lên kế hoạch khai sáng cho chúng ta. Đó là lí do tại sao ông ấy thích thú theo dõi buổi biểu diễn từ khán đài bên kia phố.”
Duncan gật đầu và nói với Rhyme: “Ông đã đoán trúng, thám tử Rhyme ạ.”
“Tôi bị tước vũ khí”, nhà hình sự học sửa lại.
“Toàn bộ những gì tôi làm là những gì vừa xảy ra, và, phải, tôi hết sức thích thú, quan sát thằng con hoang Dennis Baker bị bắt và bị kéo lê vào tù.”
“Tiếp tục đi.”
Gương mặt Duncan trở nên phẳng lặng. “Một năm trước, tôi tới đây làm ăn. Tôi sở hữu một công ti cho thuê các thiết bị công nghiệp. Tôi hợp tác với một người bạn, một người bạn thân thiết. Anh ấy cứu sống tôi khi chúng tôi đang trong quân ngũ cách đây hai mươi năm. Suốt ngày chúng tôi thảo các văn bản, rồi trở về khách sạn sắp xếp lại trước bữa tối. Nhưng một hôm chẳng còn thấy anh ấy đâu nữa. Tôi phát hiện ra rằng anh ấy đã bị bắn chết. Cảnh sát nói đó là một vụ cướp. Nhưng có điều xem chừng chẳng hợp lí. Ý tôi là, liệu lũ cướp giật có hay bắn thẳng vào trán nạn nhân, hai phát không?”
“Ồ, những phát súng gây tử vong trong các vụ cướp là cực kì hãn hữu, căn cứ vào...” Giọng Pulaski nhỏ lại, dưới cái nhìn lạnh lẽo của Rhyme.
Duncan tiếp tục: “Lần cuối cùng tôi gặp một người bạn, anh ấy nói với tôi một chuyện rất kì quặc. Anh ấy nói, đêm hôm trước, anh ấy tới một câu lạc bộ ở khu trung tâm. Khi anh ấy bước ra ngoài, hai cảnh sát kéo anh ấy sang bên, bảo rằng đã trông thấy anh ấy mua ma túy. Điều này thật nhảm nhí. Anh ấy không sử dụng ma túy. Tôi biết đấy là sự thực. Anh ấy biết mình bị tống tiền và đòi gặp một sĩ quan giám thị. Anh ấy sắp sửa gọi cho ai đó ở cấp lãnh đạo để trình bày thì đúng lúc có mấy người nữa bước ra ngoài và hai cảnh sát kia để cho anh ấy đi. Ngày hôm sau, anh ấy bị bắn chết. Quá trùng hợp. Tôi quay lại câu lạc bộ ấy nhiều lần, lân la dò hỏi. Tốn năm nghìn đô la, nhưng rốt cuộc tôi tìm thấy một người sẵn sàng kể cho tôi nghe rằng Dennis Baker và một số cảnh sát làm việc cùng hắn vốn vẫn thực hiện những âm mưu tống tiền trong thành phố.”
Duncan trình bày về những âm mưu bí mật bỏ ma túy vào người các doanh nhân hoặc con cái họ, rồi đòi những khoản tiền khổng lồ để lờ đi tội trạng.
“Chỗ ma túy bị mất ở 118”, Pulaski nói.
Sachs gật đầu. “Không đủ để bán, tuy nhiên đủ để dàn dựng chứng cứ, chắc chắn thế rồi.”
Duncan bổ sung: “Tôi nghe nói bọn chúng lấy địa điểm tụ tập tại một quán bar khu Hạ Manhattan.”
“Quán Thánh James?”
“Đúng đấy. Tất cả bọn chúng sẽ gặp nhau sau khi kết thúc các ca trực tại đồn.”
Rhyme hỏi: “Bạn anh. Người bị giết. Anh ta tên gì?”
Duncan khai tên bạn và Sellitto gọi cho bộ phận Án mạng. Anh ta đã không khai man. Người đàn ông kia bị bắn trong trường hợp có vẻ là một vụ cướp và chẳng thấy đối tượng nào bị tóm cổ.
“Tôi sử dụng mối quan hệ mà tôi thiết lập tại câu lạc bộ, phải trả anh ta rất nhiều tiền, để được giới thiệu với những người biết Baker. Tôi đóng vai sát thủ chuyên nghiệp và để nghị làm việc cho hắn. Tôi chẳng thấy động tĩnh gì một thời gian. Tôi nghĩ hắn đã bị giáng cấp hoặc hoàn lương rồi và tôi sẽ không bao giờ nhận được tin tức từ hắn. Thật đáng thất vọng. Nhưng cuối cùng, Baker gọi cho tôi và chúng tôi gặp nhau. Hóa ra hắn đã kiểm tra tôi để xem tôi có tin cậy được không. Rõ ràng là hắn hài lòng. Hắn không nói với tôi chi tiết lắm nhưng nói rằng hắn có một phi vụ đang lâm nguy. Hắn và một cảnh sát nữa đã giải quyết vài ‘vấn đề’ bọn hắn gặp phải.”
Sachs hỏi: “Creeley hay Sarkowski? Hắn có nhắc tới họ không?”
“Hắn không nói với tôi bất cứ cái tên nào, nhưng hiển nhiên là hắn nói đến chuyện giết người.”
Sachs lắc đầu, ánh mắt đầy phiền muộn. “Nghĩ rằng một số cảnh sát ở 118 nhận lại quả từ các băng nhóm tội phạm tôi đã đủ cảm thấy lo lắng rồi. Rốt cuộc thì bọn chúng lại thực sự là những kẻ giết người.”
Rhyme liếc nhìn Sachs. Anh biết cô sẽ nghĩ về Nick Carelli. Sẽ nghĩ về cha cô nữa.
Duncan tiếp tục: “Rồi Baker nói có rắc rối mới. Hắn cần loại bỏ một người khác, một nữ thám tử. Nhưng bọn hắn không thể tự sát hại cô ta, nếu cô ta chết tất cả mọi người sẽ biết nguyên nhân là vì cuộc điều tra cô ta đang tiến hành và sẽ theo đuổi điều tra thậm chí còn quyết liệt hơn. Tôi đi đến cái ý tưởng giả vờ làm một kẻ giết người hàng loạt. Và tôi bịa ra một cái tên, Thợ Đồng Hồ.”
Sellitto nói: “Đó là lí do tại sao không có kết quả gì khi kiểm tra các hiệp hội thợ đồng hồ.” Họ chẳng thu thập được tí thông tin tích cực nào về một người mang tên Gerald Duncan.
“Phải. Toàn bộ nhân vật này là sự sáng tạo của tôi. Và tôi cần ai đó cung cấp thông tin cho các ông, khiến các ông nghĩ rằng thực sự có một kẻ tâm thần, bởi vậy tôi đã tìm thấy Vincent Reynolds. Rồi chúng tôi bắt đầu các vụ tấn công. Tôi làm giả hai trường hợp đầu tiên, khi Vincent chưa xuất hiện. Những trường hợp sau, khi gã đã đi cùng tôi, tôi cố ý để thất bại.”
“Tôi phải làm sao cho các ông chắc chắn phát hiện ra hộp đạn sẽ trở thành mắt xích nối Thợ Đồng Hồ và Baker. Tôi định đánh rơi nó ở chỗ nào đó cho các ông tìm thấy. Nhưng...” Duncan bật cười. “Hóa ra tôi đã chẳng phải làm vậy. Các ông tìm thấy chiếc SUV và suýt bắt được chúng tôi.”
“Đấy là lí do tại sao anh bỏ hộp đạn lại xe.”
“Vâng. Cả cuốn sách nữa.”
Thêm một ý nghĩ khác xuất hiện trong Rhyme. “Và người sĩ quan khám xét ga ra nói thật lạ lùng khi anh đỗ nó khá lộ liễu, không phải ở lối ra vào. Đó là vì anh phải đảm bảo rằng chúng tôi sẽ tìm thấy chiếc Explorer.”
“Chính xác. Và tất cả những vụ được coi như phạm tội kia chỉ để dẫn đến vụ này, để các ông có thể bắt quả tang Baker đang định sát hại cô ấy. Theo tôi tính toán, việc này sẽ cho các ông lí do khám xét xe và nhà hắn, phát hiện ra các bằng chứng tống khứ hắn đi.”
“Còn bài thơ thì sao? Vầng Trăng Lạnh tròn vành vạnh…”
“Tôi tự sáng tác.” Duncan mỉm cười. “Tôi làm kinh doanh giỏi hơn làm thơ. Nhưng có vẻ nó đủ đáng sợ để đạt được những điều tôi cần.”
“Tại sao anh lựa chọn những người ấy làm nạn nhân?”
“Tôi không lựa chọn những người ấy. Tôi lựa chọn địa điểm vì những địa điểm ấy cho phép chúng tôi chạy trốn nhanh chóng. Người cuối cùng này, người phụ nữ ở đây, được lựa chọn vì tôi cần một sự bố trí thích hợp để lôi Baker ra ánh sáng.”
“Để trả thù cho bạn anh?”, Sachs hỏi. “Nhiều người đã có thể bị hắn giết thẳng tay.”
Duncan nói chân thành: “Tôi chưa bao giờ làm hại bất cứ ai. Tôi chẳng thể nào làm được việc đó. Tôi có lẽ đã hơi uốn cong pháp luật một tí, tôi thừa nhận rằng tôi đã phạm tội. Nhưng họ không hề là nạn nhân. Tôi thậm chí cũng không đánh cắp hai chiếc xe, Baker tự lấy chúng, từ một khu vực giam giữ xe của cảnh sát.”
“Người phụ nữ được coi như em gái nạn nhân đầu tiên?”, Sachs hỏi. “Chị ta là ai?”
“Một người bạn tôi nhờ giúp đỡ. Mấy năm trước tôi cho cô ta vay rất nhiều tiền nhưng cô ta không có cách nào trả được. Bởi vậy cô ta đồng ý giúp đỡ tôi.”
“Còn cô bé trong xe chị ta?”, Sachs hỏi.
“Con gái cô ta thật.”
“Người phụ nữ đó tên gì?”
Một cái mỉm cười vẻ lấy làm tiếc. “Tôi sẽ giữ nó cho tôi thôi. Đã hứa với cô ta như thế rồi. Hoàn toàn giống như cái tay tại câu lạc bộ giới thiệu tôi cho Baker. Đó là một phần của thỏa thuận và tôi phải dứt khoát tuân thủ.”
“Còn ai nữa dính líu tới vụ tống tiền ở 118, ngoài Baker?”
Duncan lắc đầu tỏ vẻ lấy làm tiếc. “Tôi ước gì tôi có thể nói với các vị. Tôi cũng muốn bọn chúng bị tống khứ y như Baker. Tôi đã cố gắng tìm hiểu. Hắn không tiết lộ. Nhưng tôi có cảm nhận là còn một người nào đó nữa ngoài những sĩ quan ở cái đồn cảnh sát khu vực ấy.”
“Một người nào đó nữa?”
“Đúng thế. Ở trên cao.”
“Từ Maryland hay nơi nào?”, Sachs hỏi.
“Tôi chưa bao giờ nghe hắn đề cập tới. Hắn tin tưởng tôi nhưng chỉ ở một khía cạnh thôi. Tôi không nghĩ hắn e ngại tôi báo cảnh sát, có vẻ hắn sợ tôi sẽ nổi máu tham và sẽ tự giành lấy số tiền. Xem chừng rất nhiều tiền.”
Một chiếc xe loại để chạy trong thành phố màu sẫm chạm đến dải băng đánh dấu hiện trường của cảnh sát, và một người đàn ông dáng thanh mảnh, hói đầu, mặc áo choàng mỏng bước ra. Ông ta đến chỗ Rhyme và mọi người. Ông ta là trợ lí cao cấp cho ủy viên công tố bang. Rhyme từng làm chứng tại mấy phiên tòa do người đàn ông này đứng ra khởi kiện. Nhà hình sự học gật đầu chào và Sellitto trình bày những diễn biến mới nhất.
Vị công tố viên lắng nghe về chiều hướng kì lạ của vụ án. Hầu hết các đối tượng ông ta vốn vẫn xử lí thuộc loại ngu xuẩn tham gia băng nhóm kiểu Tony Soprano hoặc bọn nghiện ngập, du côn thậm chí còn ngu xuẩn hơn thế. Ông ta xem chừng thích thú thấy mình gặp được một kẻ tội phạm xuất sắc – kẻ gây những tội ác hóa ra còn lâu mới nghiêm trọng như vẻ bề ngoài. Điều khiến ông ta phấn chấn hơn nữa so với một trường hợp giết người hàng loạt là một vụ khởi tố làm nên sự nghiệp liên quan đến đường dây tham nhũng quá nghiêm trọng trong Sở Cảnh sát.
“Chuyện này đã có gì đi qua Sở Nội vụ chưa?”, ông ta hỏi Sachs.
“Chưa. Tôi vẫn đang tự giải quyết.”
“Ai duyệt?”
“Flaherti.”
“Bà thanh tra ấy à? Người phụ trách Phòng Tác chiến?”
“Phải.”
Ông ta bắt đầu đặt các câu hỏi và ghi chép lại. Sau đấy, nắn nót viết, ông ta ngừng hỏi năm phút “Được rồi, chúng ta có tội xâm nhập trái phép... nhưng không phải đột nhập.”
Đột nhập là vào một khu vực với mục đích phạm các tội nặng như đạo tặc hay giết người. Duncan không có mục đích nào khác ngoài việc xâm nhập.
Vị công tố viên tiếp tục: “Tội đánh cắp xác chết...”
“Mượn thôi. Tôi không hề có ý định giữ cái xác”, Duncan nhắc nhở.
“Chà, tùy thuộc vào quyết định ở Westchester. Nhưng ở đây chúng ta cũng gặp một cản trở đối với công lí, sự can thiệp của các thủ tục cảnh sát.”
Duncan cau mày. “Tôi cứ nghĩ ông có thể nói rằng bởi trước không xảy ra vụ án mạng nào, các thủ tục cảnh sát là không cần thiết, nên sự can thiệp về phía họ là vấn đề còn phải bàn bạc.”
Rhyme tủm tỉm cười.
Tuy nhiên, trợ lí ủy viên công tố bang phớt lờ lời bình luận.
“Tội sở hữu một khẩu súng...”
“Nòng đã bị bịt”, Duncan phản bác. “Nó không thể bắn được.”
“Còn những chiếc xe bị đánh cắp thì sao? Xuất xứ của chúng?”