Loạn Thế Anh Hùng - Tập 1 - Chương 03 - Phần 3
Tiểu cô nương thấy có người làm chỗ dựa, dần dần bớt run, bèn kể lại đầu đuôi. Cô bé sớm đã nghe quen ông nội kể chuyện, tự nhiên miệng lưỡi cũng lanh lợi. Lai quản gia nọ không muốn nó nói nhưng cũng không dám tiến lên. Chỉ nghe cô bé kể: “Năm ngoài nhà cháu vẫn ở quê cũ vùng Sơn Đông, vì cha cháu bị người ta đánh chết, mẹ cháu lấy người khác, quan phủ lại muốn đánh chết ông nội nên ông cháu cháu mới trốn đi.”
Người bên cạnh hỏi: “Sao lại muốn đánh chết ông nội cháu?”
Tiểu cô nương khóc nói: “Bọn họ bảo ông nội là “Bát tự quân”! Giống như cha cháu.”
Hai mươi năm trước, Bát tự quân ở một dải Ký Bắc vùng Sơn Đông kháng Kim giết địch, uy danh lẫy lừng, rúng động một thời. Người trong quán không khỏi đều nhìn về phía lão mù, thấy lão bây giờ đói rét, cùng quẫn đáng thương bằng ấy, hóa ra năm xưa cũng là một trang hảo hán, trong lòng không khỏi trào dâng chút tôn kính. Lão mù nghe thấy ba chữ “Bát tự quân”, bất giác lưng dựng thẳng dậy, hình như cũng đang hồi tưởng năm tháng chinh chiến oai hùng khi xưa.
Tiểu cô nương kể tiếp: “Đầu tiên ông và cháu lưu lạc tới Trung Đô, không có cơm ăn, cháu với ông nội bèn dựa vào việc kể chuyện xướng khúc sống tạm. Nhưng cũng thường là một bữa no một bữa đói, hôm đó, lạnh lắm...” Nói rồi, người cô bé run lên, tựa như trở về với ký ức, đủ để thấy ấn tượng với chuyện lúc ấy rất sâu. Trung Đô nằm ở Bắc Quốc, người xung quanh thấy cô bé quần áo mỏng manh, chắc hôm ấy cũng chẳng khá hơn là bao, có thể tưởng tượng được nỗi bi thảm của hai ông cháu cô bé lúc bấy giờ.
“Hôm ấy, hai ông cháu lại một ngày không có cơm ăn, trên phố tuyết vừa đổ, cháu với ông nội đi loanh quanh ngoài tửu lâu, muốn xin người ta chọn một khúc, mong đổi chút canh nóng uống. Cháu chỉ còn một chiếc áo đơn thêu hoa là còn sạch, áo khoác rách quá rồi, cháu không dám mặc, sợ khách nhìn thấy không thích, chỉ đành mặc cái kia. Đáng thương nhất là ông nội cháu, ông vốn bị bệnh thấp khớp từ hồi trong quân, chắc chắn là lạnh hơn cháu nhiều. Ông và cháu tới cửa một tửu lâu lớn, cười nịnh những quản gia sai vặt ra ra vào vào, cười tới mức mặt cứng lại, hy vọng bọn họ dắt tới trước mặt chủ nhân hát một khúc, đợi mãi đợi mãi, trời sắp tối rồi, trong tửu lâu vứt bỏ cơm thừa canh cặn, cháu muốn xin đầu bếp một ít để ăn nhưng bị ông ta quát mắng, liền không dám xin nữa. Ông nội không nói gì nhưng cháu thấy đôi mắt mù lòa của ông ngấn lệ.”
Người trong điếm đa phần xuất thân khổ cực, nghe mà càng cảm thấy thảm thiết, không khỏi có chút cảm động, cô bé tiếp tục kể: “Về sau, có vị nữ chân nhân đội nón lớn gọi hai ông cháu vào. Trong tửu lâu ấm áp lắm nhé, nhóm than đỏ hồng, hai ông cháu tới một phòng nọ, trên tường dưới đất toàn là thảm lông, bên trên còn có hoa, ông nội không nhìn thấy, cháu lại nhớ được hết đấy. Mấy vị ngồi ở thủ tịch toàn là quan lớn, ngồi hai bên đều là quan nhỏ, vào rồi cháu mới biết thì ra còn có mấy vị là quan của nước Tống chúng ta. Cháu cũng không biết bọn họ tới làm gì, có lẽ là sứ thần của triều đình phương Nam mình từng nghe qua rồi. Vị đứng đầu trong đó là một người không có râu, béo múp míp...” Nói rồi sợ hãi liếc gã quản gia kia một cái, mọi người liền biết có liên quan tới gã. “... có lẽ chính là Mặc Kỳ đại nhân. Hôm ấy cháu lạnh cóng rồi, nhưng sợ hát không hay, ông nội lại bị đói một đêm, vừa vào cửa bèn ra sức xoa cổ họng. Hôm đó, người này...” Cô bé chỉ Lai quản gia. “... đứng cạnh vị quan nhà Tống mặt trắng nọ. Hôm đó, cháu hát tiểu khúc của Sơn Đông, không biết tại sao lại nhớ tới núi này, sông này, mùa xuân ấm áp hoa nở ra ngoài chơi này hồi còn ở quê, thật đấy, hôm ấy cháu hát hay lắm cơ, hát tới mức chính cháu còn quên mình đang ở đâu, lúc sực tỉnh thì thấy mấy người đó đều vỗ tay cười reo hào hứng vui vẻ, thế là cháu biết cơm tối nay có rồi. Vị quan nhà Tống mặt trắng, không râu cũng cười nữa. Cháu nghe vị quan nhà Kim nói tiếng Hán cứng đơ rằng: “Tiểu cô nương hát thật hay, thưởng!”, thế là có người thưởng cho cháu một nén bạc nhỏ, cháu mừng lắm. Vị quan nhà Kim mới quay sang vị quan nhà Tống mặt trắng, không râu, nói: “Chúng ta vừa nghe tiểu cô nương phương Nam hát rồi, nghe bảo đàn ông phương Nam hát cũng rất hay, lão già mù này không được, nghe nói Mặc Kỳ đại nhân đa tài đa nghệ, liền mời ngài cũng hát một khúc đi.’ Ông ta nói thế, một vài vị quan nhà Kim bên dưới người vỗ tay cười, nói: “Hoàng thượng của chúng ta năm xưa cũng từng xem hai vị Hoàng đế của các ông nhảy múa rồi, hôm nay chúng nghe Mặc Kỳ đại nhân hát ca thôi.” Cháu thấy mấy vị quan nhà Tống khác cắn răng không nói gì, có người cúi đầu đỏ bừng mặt, chỉ có vị Mặc Kỳ đại nhân kia mặt không đổi sắc, nói: “Nếu hạ quan hát hay, đại nhân cũng phải thường gì đó mới được.” Vị quan nhà Kim nọ cười bảo: “Được, ngài hát, ngài hát đi, hát hay có thưởng”.”
Người ngồi đây vốn đều biết sứ giả đi sứ nước Kim luôn là chịu nhục mà về, chỉ có điều không nghĩ tới có người mặt dày vô sỉ tới trình độ đấy, quả thật còn chẳng bằng nhịn nhục lặng thinh, hòa thượng kia giận hỏi: “Hắn hát à?” Tiểu cô nương gật gật đầu. “Có hát.” Hòa thượng đại nộ, một chưởng vỗ lên bàn, chửi mắng: “Quân rùa đen trứng thối khốn nạn!” Thấy Lai quản gia nọ đứng bên cạnh, hòa thượng động thân, loáng cái đã tới bên cạnh Lai quản gia, một chưởng tát vào mặt Lai Phúc, Lai Phúc tránh không thoát, “ối” một tiếng, đương trường há mồm phun ra ba cái răng bị vả rụng. Hắn là dạng người khi yếu sợ mạnh, lúc này không ai chống lưng, mắt tuy trợn trừng nhưng cũng không dám hé răng phản kháng.
Tiểu cô nương kể tiếp: “Về sau, chúng cháu lui ra. Sau đó, hai ông cháu cháu không sống nổi ở phương Bắc, trời lại lạnh thêm, ông nội mới đưa cháu chạy xuống phương Nam. Ngày qua ngày sống vẫn khổ nhưng cũng không thấy cảnh người Kim đánh người Hán nữa. Hai ông cháu trước ở Dư Hàng một chập, nhưng người Hán lại cũng vẫn đánh người Hán! Hai ông cháu cháu đến đâu cũng bị ức hiếp. Về sau, ông nội nói: “Đi, ông cháu mình vào kinh thành.” Mười mấy ngày trước, chúng cháu mới tới được Lâm An. Thành Lâm An lớn lắm nhé, vừa đẹp vừa phú quý, không ngờ ngày nọ, cháu hát kiếm tiền ở Thính Vân cư, vị Lai quản gia này lại tới dẫn hai ông cháu vào, ông ấy không nhận ra cháu, nhưng cháu nhận ra ông ấy. Đấy là một gian buồng thượng khách, bên trong chỉ có hai vị lão gia tử uống rượu, còn có một vị tỷ tỷ, thị hầu bọn họ. Trong đó có một vị lão gia tử, chính là Mặc Kỳ đại nhân đấy. Hôm trước, ông ấy hát, đèn tửu lâu rất sáng, cháu nhận được ra. Ông ấy thấy cháu vào, hình như sửng sốt, cháu biết ông ấy nhận ra cháu rồi, nhưng ông ấy vờ như không nhận ra cháu vậy. Cháu cũng sợ ông ấy biết cháu nhận ra ông ấy liền không dám nói gì, ông nội cảm thấy cháu run, liền hỏi: “Tiểu Anh Tử, cháu sao thế?” Cháu không dám đáp, vị Mặc Kỳ đại nhân nọ trừng mắt nhìn cháu, cháu biết ông ấy không muốn để cháu nói. Cứ thế hát được mấy khúc, Mặc Kỳ đại nhân liền bảo Lai quản gia đưa cháu ra sau nghỉ ngơi, lấy đồ cho hai ông cháu ăn, hai ông cháu cháu liền tới một gian phòng nhỏ phía sau.”
Lúc này, mọi người đã đoán ra vị Mặc Kỳ đại nhân kia lòng mang ác ý, lão ở Lâm An trước nay bệ vệ như ai, sao chịu để tiểu cô nương kia nói ra trò hề của mình lúc đi sứ được. Tiểu cô nương kể: “Cháu với ông nội đợi trong gian phòng nhỏ đấy, đợi mãi, đợi mãi, bỗng thấy vị tỷ tỷ lúc trước đi tới, tỷ ấy nhìn chúng cháu một lượt, thở dài, chỉ điểm tâm nói: “Hai người ăn thêm chút đi.”, rồi cũng không rời đi, cứ nhìn cháu thở dài, tới mức trong lòng cháu thấy sợ, bèn lén hỏi tỷ ấy làm sao. Tỷ ấy nói: “Rốt cuộc hai người thế nào lại đắc tội với Mặc Kỳ lão gia tử thế, ông ấy vừa tiễn khách về, ta nghe trộm được ông ấy nói với Lai Phúc, sai đem hai người vào Đại Lý Tự giam lại đấy. Chẳng mấy chốc Lai Phúc sẽ tới thôi, hắn giờ đang chong đèn đưa Mặc Kỳ lão gia tử về phủ nha, không tới một tuần trà nữa là tới.” Cháu sợ chết khiếp, cháu với ông nội tới phương Nam tuy chưa lâu nhưng cũng nghe được đã vào Đại Lý Tự rồi rất ít người còn sống mà ra được. Cháu mới nói: “Vậy bọn em phải trốn thôi” Tỷ tỷ kia bảo: “Hai người trốn đi đâu, uổng phí công sức thôi, sao thoát khỏi lòng bàn tay ông ấy? Lại nói ông ấy sai ta tới chính là để trông hai người đấy.”
Cháu với ông nội không biết làm sao, chỉ cầu xin vị tỷ tỷ đó, vị tỷ tỷ đó cũng chỉ than thở, không nói năng gì. Bỗng nhiên tỷ ấy nhìn lên đầu cháu một cái, thần sắc thay đổi, tỷ ấy chỉ cây thoa gỗ trên đầu cháu, hỏi: “Cái này ai đưa cho ngươi? Trên đó có khắc chữ phải không?” Cháu liền gật đầu.”
Mọi người không khỏi dán mắt lên đầu cô bé, trên đầu cô bé quả nhiên có một cây thoa gỗ rất bình thường, không hiểu nổi tự dưng nhắc tới cây thoa là ý gì, chỉ nghe tiểu cô nương kể tiếp: “Vị tỷ tỷ ấy sáng mắt lên. Tỷ ấy nói: “Có thể cho ta xem không?” Giọng tỷ ấy hơi run run. Cháu mới để tỷ ấy rút cây thoa xuống, chỉ thấy tỷ ấy vuốt ve một lúc, hình như rất xúc động, nhìn thật kĩ chữ trên đó, mãi một lúc mới hạ quyết tâm, sắc mặt sáng bừng. Vốn trên mặt tỷ ấy sai phấn nhiều quá, cháu cảm thấy không đẹp, lúc bấy giờ chợt cảm thấy tỷ ấy đẹp rồi, chỉ nghe tỷ ấy thì thầm: “Không nhìn thấy cây Tử Kinh mộc thoa này mười năm rồi, trọn mười năm rồi.” Sau đó mới khe khẽ dạy cháu đọc chữ trên đấy...”
Nói rồi, cô bé học theo khẩu âm của cô gái kia mà đọc: “...Cửa hèn chửa biết mùi nhung lụa, Muốn cậy người mai lại thấy đau, Ai mến phong lưu cao nhã hỡi, Cùng thương nghèo khó nhạt tô trang.[21]” Người biết chữ ngồi đây thì biết đó là bài thơ nổi tiếng của Tần Thao Ngọc gọi làBần Nữ, hóa ra được khắc trên cây thoa gỗ đó, nhưng không biết bến câu ấy rốt cuộc lại mang hàm ý gì? Thẩm Phóng nhìn Tam Nương Tử, lại thấy nàng thần sắc xa xôi, ánh nến trong đôi mắt trở nên mơ hồ.
[21] Nguyên văn: Bồng môn vị thức ỷ la hương, Nghĩ thác lương môi diệc tự thương, Thùy ái phong lưu cao cách điệu, Cộng liên thời thế kiệm sô trang.
Tiểu cô nương nói: “Vị tỷ tỷ ấy đọc xong hình như rất nhẹ nhõm, mở toang cửa sổ sau phòng, hất tung đồ trên bàn, lại chạy ra mở tung cửa sau mở ra mặt phố của tiểu viện. Khi về liền cho cháu với ông nấp lên trên giường. Trên giường có nhiều chăn lụa lắm, cháu sợ làm bẩn, không dám lên, tỷ ấy thì lại không để chúng cháu cởi giày, đem chăn chồng chất thật cao, tỷ tỷ nói: “Nhanh nhanh, nấp vào đi, nếu không thì không kịp mất!” Cháu với ông nội vội trốn đằng sau đống chăn, đợi chúng cháu nấp xong rồi, nghe tỷ ấy vừa sửa chăn vừa nói: ‘Sớm mai trời chưa sáng đoàn xe tiêu ở đối diện phố sẽ rời đi, hai người cầu xin bọn họ đưa mình theo. Bọn họ tốt bụng, nói không chừng sẽ đồng ý đấy, hai người trốn được hay không phải trông vào đó. Một lúc nữa có xảy ra chuyện gì cũng không được lên tiếng, nhớ kĩ, nhớ kĩ đấy.” Sau đó, tỷ răn cháu một câu cuối: “Sau này, nếu ngươi may mắn gặp lại người tặng ngươi cây thoa, thì nói tỷ muội bọn ta đều rất nhớ nàng.” Nói rồi cháu nghe bên ngoài có tiếng bước chân.” Tiểu cô nương chỉ Lai quản gia. “Ông ta tới!”
Cô bé vốn rất sợ người này, lúc này giọng nói lại chợt trở nên sắc nhọn, tựa như có thâm cừu đại hận, sắc mặt Tam Nương Tử khẽ biến. Tiểu cô nương kia chỉ quản gia nọ nói: “Hắn, hắn vừa tới liền ép hỏi tỷ tỷ xem ông cháu cháu đâu, tỷ tỷ nói nàng vừa vào, không thấy đâu cả. Hắn nhíu mày, nhìn cửa sổ sau, lại nhìn ra cửa hậu viện, lầm bầm: “Hai đứa tiện nhân này cũng tinh tường gớm, lại gây phiền toái cho ông đây rồi.” Hắn định đi bỗng chợt quay đầu lại, chỉ tỷ tỷ nói: “Nhất định là ngươi thả đi rồi”, tỷ tỷ nghe thấy thế thì biến giọng nói: “Lai Phúc, lần trước ngươi ép ta không được, ngươi không được hại người như thế chứ.” Hắn cười khặc khặc: “Giờ ngươi mới nghĩ ra cũng không kịp rồi, ta nói với lão gia tử, chỉ sợ lão gia tử nhà chúng ta liền có lừa gỗ cho ngươi cưỡi”.”
Chúng nhân vừa nghe thấy hai chữ lừa gỗ thần sắc đều cứng lại, đấy là một thứ cực hình tàn hại phụ nữ thời cổ, quả thật không phải là thứ người thường nghĩ ra được. Tiểu cô nương kia rõ ràng không biết lừa gỗ là ý gì, kể tiếp: “Cháu thấy tỷ tỷ sợ tới mức mặt mũi trắng bệch. Lai Phúc lại nói: “Vậy thì hôm nay ngươi thế nào đây?”, tỷ tỷ định cười nhưng cười không nổi, cháu biết tỷ vẫn là người trong sạch chỉ bán nghệ. Chỉ thấy tỷ chợt nói: “Ngươi xem, chẳng phải nó kia sao”, cháu sợ run người, cho rằng tỷ sợ rồi, chỉ chỗ bọn cháu, nhưng lại thấy tỷ chỉ ra ngoài cửa, Lai Phúc vừa quay đầu, cháu thấy tỷ tỷ bên kia đống chăn cất tiếng cười, tay cầm một cây kéo đâm vào ngực mình, nói: “Ta có chết cũng không chịu vấy bẩn trong tay loại nô tài ngươi.” Cháu sợ hãi thiếu chút nữa kêu lên rồi, đành cắn chăn, cái chăn đó chắc chắn bị cháu cắn rách rồi. Cháu thấy tỷ tỷ vẫn đang co ro dưới đất, máu chảy rất nhiều, rất nhiều. Hắn, hắn lại nhổ vào mặt tỷ tỷ, chửi: “Con điếm chết toi, xúi quẩy!”, rồi đá vào người tỷ tỷ một cái mới vội vàng chạy, cháu biết đấy là muốn đá đi xúi quẩy.”
Lệ trong mắt Tam Nương Tử rơi lã chã, cây đũa trong tay cũng đang run rẩy. Răng cắn chặt, mặt vừa ngẩng, nước mắt cứ thế rơi xuống. Thẩm Phóng thấy mi mày nàng nhíu lại, ánh mắt lạnh lẽo nhìn Lai Phúc, liền biết bất kể trên trời dưới đất thế nào, thằng tiểu nhân này khó thoát một đao đoạt mạng của Kinh Tam Nương rồi.
Một đoạn chuyện cũ này kể tới mức người ta nghe mà kinh tâm động phách. Cơn giận của hòa thượng nọ so với người xung quanh lại càng đậm, vừa đứng dậy đã vả thẳng một chưởng vào mặt gã quản gia kia, lần này đánh rất nặng, mặt gã quản gia sưng vù một mảng, miệng nhổ ra mấy cái răng, hòa thượng kia giận dữ nói: “Cô nương kia thế nào mà lại là điếm, dẫu có là thì con mẹ mày cũng không bằng được, cái ả sinh ra thằng Mặc Kỳ kia mới đúng là đĩ điếm, nếu không sao lại sinh ra hạng tạp chủng ấy!” Mọi người chỉ cảm thấy cú đánh của hòa thượng đúng là đã giải hận trong lòng người, tới cả người trong tiêu cục cũng ngầm khen hay. Bỗng có người cất tiếng lạnh băng, nói: “Kim hòa thượng, ngươi uy phong gớm!”
Người lên tiếng ngồi ở trong góc, cái bàn ấy tổng cộng có sáu người, người kia vừa nói xong liền cởi áo ngoài, lộ ra một thân sắc phục công sai, là trang phục của bổ khoái. Ngay sau đó, bốn người sau gã cũng đứng dậy, cởi áo ngoài, đều trang phục công sai. Bốn người vừa đứng lên vừa cởi áo khoác rồi nhảy ngay ra, vây lấy bốn góc xung quanh Kim hòa thượng. Người lúc nãy vừa lên tiếng lạnh lùng nói: “Kim hòa thượng, tìm ngươi quả không dễ chút nào!”
Kim hòa thượng bật cười quái dị: “Ta đang bảo kẻ nào rụt cổ rùa ở đấy, thì ra là Hà đại bổ khoái, ngươi không cần nói lão tử phạm tội gì, một câu thôi, thằng nhãi nhà họ Lưu là ta thịt đấy!”
Hà bổ khoái cười lạnh: “Đúng là hảo hán, rất sảng khoái!” Nói rồi nhìn về cái bàn mình vừa ngồi. Chỗ đó vẫn còn một người nữa đang ngồi, gã ngồi trong phòng mà vẫn đội nón, vành nón kéo rất thấp, lại thêm ánh đèn ảm đạm, căn bản nhìn không ra mặt mũi. Tam Nương Tử không nhìn Kim hòa thượng, không nhìn Hà bổ khoái nhưng nhìn chằm chằm gã này, nhỏ giọng nói với Thẩm Phóng: “Ngạo Chi, kẻ này là cao thủ.”
Thẩm Phóng ngạc nhiên, lại thấy gã đội nón nghe lời Kim hòa thượng nói xong, chợt mở miệng nói: “Ngươi giết? Tóm lại là có nguyên do chứ, chớ ép ta ra tay... Ngươi nghĩ kĩ rồi hẵng nói!” Trong lời nói tựa như vẫn lưu cho Kim hòa thượng một đường lui.
Hắn nói không nhanh không chậm, khí phách như của kẻ ra vào trốn thiên quân vạn mã, tới khí thế như của Kim hòa thượng mà cũng bị hắn đè ép xuống. Nhưng trong lời kẻ này, sắc thái quan cách quá nặng, hòa thượng cười ha ha: “Nguyên do? Hòa thượng giết người trước giờ chẳng có nguyên do, mà có vì nguyên do gì thì cũng không nói với lũ ưng trảo các người, mình làm mình chịu, các ngươi có bản lĩnh thì tới bắt ta, không đủ bản lĩnh thì mau cút xéo.”
Kẻ đội nón cũng không nhiều lời nữa. Hà bổ khoái nhìn về phía gã như dò hỏi, gã trầm ngâm, không biểu thị gì. Hà bổ khoái cắn răng, phất tay, bốn thủ hạ kia lập tức rút đơn đao ép tới. Người xung quanh thấy có chuyện đã sớm nhường chỗ, lập tức dư ra một khoảng trống, Kim hòa thượng lầm lẫm đứng giữa. Chúng nhân bấy giờ đã cảm thấy hòa thượng kia là một hán tử ngay thẳng, kể có giết người thật cũng chưa chắc là việc xấu, tuy nhiên công sai làm việc, ai dám nhiều lời, chỉ mong tai ương không dây tới mình là xem như vạn hạnh rồi.
Hà bổ khoái cười lạnh: “Cháu trai của Lưu Kỳ Lưu đại soái mà ngươi cũng dám giết, thật đúng là không còn vương pháp, Kim hòa thượng, lần này ngươi phiền phức to rồi... còn chưa bắt lại!”
Vừa dứt lời, bốn gã bổ khoái lập tức xuất thủ, họ nhanh, hòa thượng càng nhanh, thiết trượng trong tay khua lên, hất một cái đĩa đánh thẳng vào đầu một gã công sai, miệng cười nói: “Lão tử bình sinh giết người chính là phường quan to rỗng tuếch, công tử thiếu gia, đấy là tính khí trời sinh của lão tử, thấy bọn nó ức hiếp người tốt thì ta bực mình, giết một đứa ít đi một đứa, giết hai đứa bớt hai đứa.” Lúc đang nói, mấy người đã quần đấu một chỗ, chỉ khổ mấy thứ bàn ghế chén bát kia, bị người ta tung đi hất lại, chẳng mấy chốc đã loảng xoảng vỡ tan.
Hòa thượng kia tuy không đánh thoát ra được nhưng một cây thiền trượng vẫn vung vù vù. Món binh khí này của hòa thượng ở trong phòng có chút không triển khai được, bốn công sai kia thì chỉ lấy khéo chế mạnh, quấn lấy khiến cho hắn chẳng động đậy được. Hòa thượng càng đánh càng buồn bực, miệng mắng tới rung trời lệch đất, nhưng ra tay lại chẳng thấy hiệu quả, thấy cứ quần chiến thế này không biết bao giờ mới xong, trong lòng đã có chủ ý, thấy có kẻ một đao chém tới liền không tránh nữa, một trượng đánh lên mình kẻ khác, tuy chân hòa thượng bị chém chảy máu nhưng kẻ bị hắn đánh trúng lại càng bị thương nặng hơn, một chân lập tức gập xuống, không thể tái chiến. Hòa thượng cười nói: “Thống khoái, thống khoái, thứ lão tử thích giết nhất chính là công sai.” Nói rồi, chớp mắt chiếm được ưu thế, càng cười mắng chửi không thôi.
Hà bổ khoái trước vẫn lạnh lùng đứng cạnh tụ thủ bàng quan, bây giờ chợt một đao đánh tới, đao như độc xà thổ tín, trên vai hòa thượng liền thấy có máu, nhoàng một cái, Hà bổ khoái lại lui ra lạnh lùng quan chiến, hòa thượng giận dữ mắng: “Ngấm ngầm đánh lén, cái thứ hảo hán ở đâu thế!”
Hà bổ khoái kia lạnh lùng nói: “Ta là bổ khoái, chẳng phải hảo hán, ngươi là cường đại, tự nhiên càng không phải hảo hán.” Rồi nắm cơ hội, bày thế như định hành động, hòa thượng lần này đã đề phòng, vội vàng che kín chỗ hở.
Hà Trừu Đầu lại chẳng động nữa, trên eo hòa thượng đã lộ ra chỗ hở, bị người khác lại một đao vạch phá áo, thiếu chút nữa rách bụng lòi ruột.
Người bên ngoài tuy không biết võ nghệ nhưng cũng hiểu cứ đánh thế này, hòa thượng tất bại vô nghi. Người ngồi bàn nọ chợt nói: “Kim hòa thượng, niệm tình ngươi là trang hán tử, mau mau bỏ vũ khí xuống theo ta đi, miễn phải chịu nhục.”
Hòa thượng giận nói: “Ngươi lại ở đó mỉa mai gì đấy, theo ngươi đi chính là nhục, cái gì mà miễn phải chịu nhục! Hòa thượng ông đây chính là chiến tử cũng không muốn nhìn nhà ngươi giả nhân giả nghĩa mèo khóc chuột kiểu đó.” Lúc nói, tăng bào lại bị rách thêm hai miếng, may mà chưa bị thương, chỉ thấy hòa thương mặt mày hung ác, áo rách tung bay, trở thành nhà sư điên chính cống.