Ván bài lật ngửa - Phần I - Chương 09 - 10

P1 - Chương 9

Xe ôm theo “rond point”(1) rẽ về phía mặt thì một toán cảnh sát thổi còi ra hiệu bắt xe ngừng. Đằng sau toán cảnh sát, lố nhố một số người mặc thường phục.

(1) Điểm tròn giữa giao lộ.

Luân biết ngay đây không phải là cuộc khám xét bình thường. Chính ông linh mục và tài xế cho Luân triệu chứng: rõ ràng họ chờ đợi cảnh nầy, qua cái liếc trao đổi khá nhanh, giấu kĩ của hai người, trước khi cảnh sát thổi còi.

- Việc chi, hỉ?

Ông linh mục lầu bầu, mở cửa xe. Ông bước đến toán cảnh sát, chìa giấy. Nhưng viên sĩ quan lắc đầu, vẹt ông sang một bên, xán lại xe. Ông linh mục nhún vai, ý muốn nói với Luân: tôi làm hết sức mình, song họ không nghe.

Tay tài xế ngả người, duỗi chân thoải mái, không nói không rằng.

- Xin lỗi, ông cho xem giấy tờ.

Viên sĩ quan cảnh sát lễ độ đưa tay lên kêpi chào Luân truớc khi ra lệnh bằng một giọng cộc lốc.

Luân điềm tĩnh rút trong túi ra tờ giấy to, chữ đánh máy, đóng mộc đỏ, đính kèm ảnh Luân trên góc. Ảnh đóng mộc nổi, khác thẻ căn cước mà Luân trình với trạm kiểm soát sáng nay.

Luân nhận rõ vẻ chưng hửng của viên sĩ quan – và cả ông linh mục, tay tài xế.

Không đọc tờ giấy, viên sĩ quan sừng sộ:

- Ông cho tôi xem thẻ kiểm tra.

- Tôi không có thẻ kiểm tra, chỉ có giấy tờ này. - Luân trả lời nhỏ nhẹ.

Viên sĩ quan bây giờ mới đọc tờ giấy. Bên trên, tờ giấy ghi hai dòng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc. Bên góc trái: Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Rạch Giá – quận Hồng Dân. Bên dưới: Giấy đi đường. Và bắt đầu những dòng chữ: Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh quận Hồng Dân, chiếu điều 14, tiết d, chương II của Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam kí kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Genève, căn cứ vào điều 14 tiết c, chương II của hiệp định nói trên, nay cho phép Nguyễn Thành Luân, nguyên Trung đoàn phó Quân đội nhân dân Việt Nam, sinh năm 1921, được trở về sinh sống ở Sài Gòn theo nguyện vọng của ông. Mong nhà chức trách địa phương giúp đỡ ông Nguyễn Thành Luân. Hồng Dân ngày 5 tháng 12 năm 1954. Chủ tịch Hà Văn Bính.

Viên sĩ quan lúng túng.

- Giấy này không có giá trị…

Hắn trả tờ giấy lại cho Luân.

- Tôi là công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hơn nữa, là sĩ quan của quân đội kháng chiến. Tôi dùng giấy này là hợp pháp…

Luân vừa xếp tờ giấy, vừa nói.

- Chúng tôi không biết quận Hồng Dân.

Viên sĩ quan hình như không được chuẩn bị trước đối phó với tình thế này nên nói liều.

- Vậy ông cho phép tôi hỏi: Ông là ai, ông có quyền gì kiểm tra giấy tờ của tôi? - Luân vẫn từ tốn.

- À, ông muốn giở luật ra, phải không? Đây, tôi là trung úy Lê Văn Thu, đội trưởng cảnh sát thuộc Ty công an Vĩnh Long.

Hắn chìa cho Luân tấm thẻ bọc ni lông, mang chữ kí của trưởng ty công an.

Luân cười mỉm:

- Rất tiếc, tôi không biết ông trưởng ty này. Vả lại, với chúng tôi, tỉnh này tên là Vĩnh Trà, chớ không phải Vĩnh Long. Cho nên, tôi không thể bằng lòng để ông xét…

Luân nói như vậy nhưng lại mở cửa xe bước ra. Số tò mò kéo đến càng lúc càng đông. Xe cộ dồn chật ngã tư, bóp còi inh ỏi.

- Nhưng – Luân nói to – nếu các ông muốn bắt tôi thì tôi sẵn sàng theo các ông về khám. Các ông vô cớ bắt một người kháng chiến, điều đó các ông sẽ trả lời vơi Ban liên hiệp đình chiến và Ủy ban quốc tế. Bây giờ, tôi về đâu? Có cần còng tay tôi không?

Viên sĩ quan chẳng biết phải làm gì. Hắn liếc ông linh mục, ông này khẽ lắc đầu. Viên sĩ quan bỗng sừng sộ:

- Ai mà bắt ông? Chúng tôi chỉ hỏi giấy tờ, ông có đủ giấy từ thì mới ông đi!

Hắn quay lưng, đưa tay xua số người bu quanh xe:

- Cái gì mà kéo tới đông dữ vậy? Tản ngay! Muốn vô bót nằm hả?

Ông linh mục mời Luân lên xe.

- Mần ăn chi mà lạ rứa? - Ông ta càu nhàu. Chẳng biết ông càu nhàu cảnh sát xét hỏi ẩu hay càu nhàu ty công an quá dở. Xe lăn bánh, Luân vẫy vẫy đám đông…

*

Ngô Đình Nhu, quần trôpican cũ, sơ mi ngắn tay, chân nhịp nhịp đôi xăng đan lâu ngày không đánh xi, ngồi trên chiếc ghế nệm đặt trong phòng làm việc của giám mục. Giám mục Ngô Đình Thục, lúc nào cũng đường bệ ngồi sau chiếc bàn gỗ đen. Hai anh em yên lặng.

Nhu có mặt ở Tòa giám mục từ sáng sớm. Anh ta muốn đích thân chứng kiến màn kịch do mình đạo diễn. Nhu không tin ở tài ứng biến của giám mục.

Gia đình họ Ngô vốn thâm căn nhiễm tôn ti phong kiến của một đại vọng tộc. Ngô Đình Khả, phụ chính thân thần. Hai trai của Khả leo đến cực phẩm: Ngô Đình Khôi, tổng đốc, Ngô Đình Diệm từ Tri huyện thoắt Tuần vũ và sau đó, Thượng thơ bộ Lại, đầu triều. Một trai cũng cực phẩm về lĩnh vực khác: Ngô Đình Thục, hai mươi tám tuổi, lãnh chức linh mục và mười ba năm sau, thụ phong Giám mục.

Khi Thục lãnh chức linh mục, Nhu lên tám và khi Nhu vừa học xong trung học thì Thục đã là giám mục. Khoảng cách giữa hai người là khoảng cách của một thế hệ - Thục ra đời vào những năm cuối của thế kỉ trước, còn Nhu sau Thế chiến thứ nhất.

Có lẽ sự dun dủi sau đây đã phần nào đảo lộn cái tôn ti nghiêm ngặt ấy. Nhu bay nhảy đúng vào lúc nhà họ Ngô sa sút. Ngô Đình Khôi bị cách mạng trừng trị, đáng lẽ Ngô Đình Diệm cũng phải trả nhiều món nợ máu với nhân dân, nhưng chính sách khoan hồng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cứu ông ta. Trong một tình hình xấu như vậy, chức giám mục không tỏ ra một chút uy thế nào. Người xốc vác nhà họ Ngô lại là Ngô Đình Nhu – một công chức hạng thường. Công lao “trung hưng” đó được đền bù ngay khi Diệm nắm quyền. Với thiên hạ, Nhu chỉ là một cố vấn, bào đệ của Thủ tướng. Nhưng chính Nhu vạch kế hoạch giúp Diệm phục thù Bảo Đại và Pháp – trước kia đã thay Diệm bằng Phạm Quỳnh – chính Nhu đang lèo lái chế độ miền Nam.

Quyền hạn – và cả thành tựu – đã tạo cho Nhu có cái nhìn kẻ cả, ngấm ngầm đối với hai người anh của mình. Dĩ nhiên, Nhu chẳng coi Luyện và Cẩn ra gì.

Thục là anh, là giám mục – đó là giới hạn mà Nhu tuân phục.

*

Nhu đặc biệt chú ý đến trường hợp Nguyễn Thành Luân. Hai gia đình đã quan hệ thân mật từ lâu, khi Ngô Đình Thục nhận chức Giám mục địa phận Vĩnh Long. Nói chính xác, Giám mục Thục nhờ vả nhà Nguyễn Thành Luân: ông ta từ xa đến coi sóc cả một địa phận, nếu không tạo ra mối giao hảo với một vọng tộc sở tại thì rất khó chu toàn phận sự. Tín đồ đạo Thiên Chúa Vĩnh Long – và đồng bằng sông Cửu Long nói chung – không nhiều, song thuộc hạng tai mắt, hầu hết là trí thức. Trong thâm tâm, Thục rất cảm ơn sự giúp đỡ hào phóng của kĩ sư điện René Nguyễn Thành Luân.

Bắt tay vào xếp đặt bàn cờ mới, Nhu hiểu rất rõ cái lỗ hổng cực lớn mà gia đình họ Ngô, bất cứ giá nào cũng phải lấp: cần một chút hơi hướng của cuộc kháng chiến để trang sức cho cái khẩu hiệu “đả Thực.” Bọn đầu hàng, đầu thú không thiếu gì, song chẳng một ai đáng giá. Trịnh Khánh Vàng từng làm đến Phó tư lệnh khu, song gã chỉ là một tên ba hoa và ăn chơi.

Vả lại, Trịnh Khánh Vàng sát cánh với Bình Xuyên ngay từ khi vừa đào ngũ. Xem đi xét lại Robert Nguyễn Thành Luân là món hàng quý hơn hết. Do đó, Nhu bày cho Thục viết thư. Nhu nóng lòng đón Luân vê trước khi Hiệp định Genève kí kết. Nhưng Luân không làm theo ý Nhu. Lần đầu, Nhu tự rút ra kết luận là với Nguyễn Thành Luân, không thể chơi cái trò dụ hàng được.

Biết tin Nguyễn Thành Luân về thành, dù sau Hiệp định Genève, Nhu mừng rơn. Đằng nào Luân cũng không thoát khỏi Nhu. Nhu bố trí đón Luân với cú dằn mặt là bắt Luân phải trình diện trong tư thế một kẻ sử dụng giấy tờ giả. Từ đó Nhu sẽ ban ơn…

*

Điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe. Giám mục nhìn Nhu chăm chú. “Tôi đây…,” Nhu nói. “Sao? Không thành công? Nói rõ một chút…”

Nhu gác máy, mặt cau có.

Tiếng gõ cửa nhẹ.

- Mời vào! - Giám mục bảo.

Cửa phòng mở, ông linh mục đi đón Luân cúi chào, giọng như người có lỗi:

- Kính thưa Đức cha và ông cố vấn, y đã tới!

Giám mục đưa mắt dò hỏi Nhu.

- Đức cha ra tiếp y!

Giám mục rời bàn viết bước ra.

Nhu bật dậy, mở cửa sổ. Từ phòng làm việc của giám mục, Nhu trông rõ Luân đang rời xe để ở vệ đường, bước qua cổng. Luân đi chững chạc, trong bộ quần áo rõ ràng không được may đo cẩn thận, ung dung liếc những chậu hoa bày trong khuôn viên Tòa giám mục.

- Thằng này kiêu kì dữ đây!

Nhu lầu bầu. Nhu chỉ biết Luân qua ảnh. Đây là lần đầu, anh ta trông rõ người thật của Luân.

Nhu ngả mình lên ghế, đưa tay bóp trán.

P1 - Chương 10

Phòng khách của Tòa giám mục thiếu ánh sáng. Luân phải dừng lại một lúc ở ngưỡng cửa mới có thể nhìn rõ giám mục đang tươi cười đón anh tại giữa phòng. Luân bước lên tấm thảm len và tiến đến giám mục. Giám mục ôm choàng anh. Khi giám mục buông anh ra, Luân quỳ xuống, giám mục đưa chiếc nhẫn trước mặt Luân và Luân kính cẩn hôn lên.

- Xa Đức cha rất lâu, nay gặp lại, thấy Đức cha khỏe mạnh con rất mừng – Luân nói, trước khi ngồi vào ghế mà giám mục mời.

- Anh cũng vậy. Anh chẳng khác tí nào! – Giám mục cười xởi lởi.

- Con cám ơn Đức cha đã cho người đón con.

- Ồ! Chỗ nhà anh với tôi, anh đừng nói thế! – Giám mục ngăn Luân – Thế nào, ông Jean khỏe chứ?

- Cám ơn Đức cha, anh con khỏe.

- Chị Trần cũng khỏe?

- Cám ơn…

- Hai ông bà có được mấy con?

- Thưa, anh chị con chưa có cháu nào.

Giám mục tặc lưỡi:

- Tội thì thôi… Cả hai anh chị đều tập kết, hở?

- Thưa, phải.

- Cụ René mất, thấm thoát đã gần ba năm… - Giám mục lại tặc lưỡi.

- Kính thưa Đức cha – Luân sửa cách ngồi, trịnh trọng – Hôm nay, sau khi hoàn thành nghĩa vụ công dân và nghĩa vụ dân Chúa trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, trước khi trở lại đời sống bình thường, con tự coi có bổn phận trước tiên phải đến trình diện với Đức cha, vị chủ chăn của giáo phận mà con là con chiên, để chúc sức khỏe Đức cha và để xin Đức cha ban cho lời cầu nguyện…

Giám mục nở nụ cười thỏa mãn, đưa tay làm dấu thánh và miệng lầm bầm một câu kinh…

*

Nhu quyết định tiếp xúc Luân tại Tòa giám mục. Anh ta cần phải đi đến một kết luận dứt khoát. Do đó, bữa ăn trưa đáng lẽ chỉ là bữa ăn giữa giám mục và Luân, nó biến thành bữa tiệc của bộ ba.

Không đợi giám mục giới thiệu, Luân đã chào Nhu:

- Xin chào ông cố vấn!

Sự xuất hiện của Nhu xác định những điều Luân suy đoán. Nhu không thể chờ đợi lâu hơn. Bữa ăn hôm nay sẽ có ý nghĩa như một thánh lễ “bắp têm” với Luân hoặc sẽ là lần khảo sát chót trước khi giao anh cho công an. Luân nhớ rành rọt lời anh Tư trong bữa làm việc sau cùng với Luân:

“Anh sẽ chơi với địch một ván bài mà mọi con bài đều lật ngửa…”

Luân hiểu, ván bài bắt đầu từ sáng nay.

Giám mục ngồi đầu bàn, Nhu và Luân đối diện. Nghe tiếng Ngô Đình Nhu đã lâu, hôm nay Luân mới có dịp quan sát kĩ anh ta: gầy, môi thâm, da tái, trán cao. Với chừng đó phát tiết, nếu Nhu chỉ làm việc bằng cái đầu thì quả đây là một đối thủ có hạng. Song, trong một thoáng, Luân tìm ra sơ hở của Nhu: anh ta thích “maniéré”(1) – một tập sự lãnh tụ bao giờ cũng mang nhược điểm đó. Nhu kênh kiệu khi bắt tay Luân: buông thõng cả năm ngón tay, như là ban ơn cho kẻ khác. Nhu vừa ngồi vào ghế, liền ngả lưng, soải chân. Nhất là cái hất hàm trịch thượng:

- Sao, khỏe chứ?

(1) Làm bộ, làm điệu.

Nhu cũng “đo đạc” Luân: thằng cha lầm lì, nhưng khả ái, đôi mắt rất sáng, thằng cha trí thức, con nhà giàu, chịu cực đủ chín năm…

Giám mục nâng cốc Martel khai vị:

- Mời các vị chạm cốc chúc mừng giáo dân Robert Nguyễn Thành Luân, con trai của người bạn khả kính của chúng tôi, chúc mừng buổi gặp mặt gia đình hôm nay.

Luân chạm cốc. Anh ngó thẳng vào mắt Nhu và uống cạn.

Đến tuần rượu thứ hai, Nhu nâng cốc:

- Hôm nay Đức cha và tôi mừng ông Luân. Như Đức cha vừa nói, chúng ta gặp nhau trong thân tình. Tôi mong là buổi nói chuyện sẽ thẳng thắn, bổ ích. Trước hết, xin mới Đức cha, xin mời ông Luân. Xin chúc ông Luân, người trở về, dồi dào sức khỏe.

Tuần rượu thứ ba, Luân nâng cốc.

Sau món gỏi tôm, Nhu xoay tròn li vang trắng:

- Ông Luân có thể nói cho chúng tôi biết, ông quay về với ý định như thế nào?

Luân cười thật tươi, đủng đỉnh gắp miếng cá hấp, im lặng thưởng thức mùi vị của nó, rồi mới nói:

- Tôi chú ý ông Nhu hai lần dùng từ “trở về,” “quay về” chỉ trường hợp của tôi. Tôi không đi Pháp, không đi Mỹ, tôi ở nước Việt Nam của chúng ta, sao gọi là “trở về,” “quay về” được?

Giám mục sẽ liếc Nhu.

- Ông khó tính quá! Thì trước đây ông ở thành nay trở về thành… Tôi nói theo nghĩa đó. – Nhu cười vả lả.

- Nếu câu hỏi của ông Nhu không ẩn ý, tôi rất vui lòng về bữa gặp mặt hôm nay. Tôi không phải và không bao giờ có thể là một thứ “hàng thần lơ láo,” dù cho như Từ Hải!

Luân nói đĩnh đạc. Cuối cùng, anh pha chút hài hước và cười. Nhu cười theo:

- Nếu ông là Từ Hải, ắt phải có một nàng Kiều. Tiếc là chúng tôi chưa tìm ra một nàng Kiều. Vả lại, tôi đâu phải là Hồ Tôn Hiến!

- Vậy thì tốt lắm! – Luân nâng li vang.

- Tôi hỏi nghiêm chỉnh: Ông định làm gì?

- Đó là một câu hỏi hòa bình. Tôi là một người lính, vì là lính, tôi quý trọng hòa bình. Nói cho cùng, chúng tôi đổ máu để vĩnh viễn chấm dứt đổ máu. Tôi sẽ làm tất cả những gì vì nền hòa bình bền vững sau khi đã làm tất cả những gì vì nền độc lập mà tất cả chúng ta đang hưởng…

Nhu nhìn Luân soi mói:

- Ông xác tín rằng việc của ông làm trong chín năm là đúng đắn?

- Có lẽ ông Nhu còn biết rõ hơn tôi là điều tin tưởng đó không chỉ của riêng tôi, của những người kháng chiến chúng tôi. Chẳng lẽ ông không tin như vậy?

- Cuộc kháng chiến lúc đầu phù hợp với ý nguyện toàn dân, song càng về sau, Cộng sản cướp công, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc biến thành cuộc đấu tranh ý thức hệ.

Luân vụt cười to. Giám mục không biết phải làm gì, đành sớt những miếng thịt bò bít tết thơm lừng vào đĩa Nhu và Luân:

- Mời các vị…

Nhu châm quẹt đốt một điếu thuốc, nén bực bội.

- Tôi xin lỗi đã cười – Luân dằn từng tiếng – Ông Nhu có thể cho tôi khiếm nhã. Song, câu hỏi của ông Nhu thật đáng tức cười. Tôi không nghĩ ông Nhu sẽ hỏi như vậy. Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Tường Tam, Bảy Viễn và những người tương tự, không phải là học giả, họ không biết phải tự bào chữa cho thái độ ươn hèn của họ không dám theo đuổi sự nghiệp kháng chiến đến cùng bằng cách nào, nên dùng câu hỏi đó. Còn ông, một người học cao, đọc nhiều sách, nổi tiếng là một nhà tư tưởng lớn, không nên lầm lẫn như vậy…

Nhu rít một hơi thuốc thật dài.

- Tôi lầm lẫn ở chỗ nào?

- Ông có nhận ra cuộc kháng chiến mang lợi ích rõ ràng nhất về cho ông Ngô Đình Diệm hay không? Hay là ông nghĩ sự quay 180 độ của người Pháp – từ sa thải đến trọng dụng ông Diệm – là hảo tâm của họ? Ông có thấy nêu không có cuộc kháng chiến, nếu cuộc kháng chiến không đi đến thắng lợi – thì ông Diệm phải lưu vong suốt đời hay không? Hiển nhiên là Phạm Quỳnh sẽ giữ ngôi vị của ông ta. Ngay ông, ông Nhu, chắc còn phải chôn vùi tháng ngày ở thư viện… Những người kháng chiến chẳng những không cướp công mà đã chia công, thậm chí, trên một nghĩa nào, đã chia công cả cho những người chẳng có một chút công, nếu không nói là có tội! Thế mà, bỗng nhiên vang lên điệp khúc: Cộng sản cướp công… Chuyện của Laurel, Hardy, chuyện của Fernandel(2)… sao lại chen vào đây?

(2) Những danh hài giữa thế kỉ XX.

Giám mục lo lắng. Ông thấy mặt Nhu như dài hẳn ra. Luân đã bổ một cú “nốc ao” vào tính tự phụ của anh ta.

- Người khác hô hoán về “Cộng sản cướp công” thì khả dĩ còn hiểu được. Đến ông Diệm, ông Nhu mà cũng phụ họa theo, thật kì quặc. Những người kháng chiến ròng rã chín năm chịu cực chịu khổ đủ điều, hi sinh mạng sống, bỗng bị lên án là kẻ cướp công! Ông Nhu không thấy tính cách khôi hài trong lập luận này sao? Ông còn nói đến cuộc đấu tranh ý thức hệ. Tôi nghĩ rằng một số người quen miệng nói mãi rồi tự kỉ ám thị mình nói đúng. Quả có sự tranh chấp ý thức hệ thật: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh ngoài Bắc, Bảy Viễn, Nguyễn Hòa Hiệp trong Nam, chưa đánh Pháp đã đầu hàng Pháp, họ muốn cả dân tộc hạ vũ khí, trở lại thân nô lệ. Tuyệt đại đa số người kháng chiến không chấp nhận sự phản bội, quyết kháng chiến đến thắng lợi. Đó là cuộc đấu tranh ý thức hệ…

- Ông cuồng tín quá! - Nhu vớt vát.

- Hình như ông Nhu muốn ám chỉ sự cuồng tín của những người Cộng sản. Tại sao lòng yêu nước nồng nhiệt không thể có ở người Quốc gia? Vô tình, ông Nhu đẩy người Quốc gia về phía những kẻ đầu óc trống rỗng.

- Không! – Nhu cải chính – Tôi không nói như vậy. Dù sao, người Quốc gia trong kháng chiến cũng không có quyền…

- Tôi chờ câu nầy của ông. Lại một giả định mà như có thật. Ông nói quyền gì? Tôi là một người kháng chiến không thiếu một ngày, tôi có quyền không? – Luân bỗng cười: - Tiếc rằng đây là thị xã Vĩnh Long, nơi các ông quản lí, tôi không có cách gì chứng tỏ một người Quốc gia kháng chiến có quyền tới đâu. Tôi là một chỉ huy, tôi có quyền đánh giặc. Và, không phải để khoe khoang, tôi cần thưa: tôi đánh giặc không kém lắm, được khá nhiều huân chương quân công. Anh tôi, một phó chủ tịch, anh ấy có quyền, như luật pháp Chính phủ quy định cho một phó chủ tịch. Tôi muốn nói thẳng với ông Nhu điều nầy: các ông phạm một thiếu sót lớn, ông cho phép tôi gọi như vậy, đó là các ông đối địch với cuộc kháng chiến. Nhất là đối địch khi kháng chiến đã đánh bại Pháp, kẻ chiếm nước ta ngót trăm năm, thậm chí không sánh nổi Bảy Viễn, Năm Lửa. Người Mỹ cung cấp cho các ông nhiều thứ, song họ không thể cung cấp cái chất dân tộc dữ dội nầy, tất nhiên, trừ thứ giả…

Nhu húng hắng ho. Anh ta bắt đầu nhìn Luân bằng những tia mắt khang khác.

- Anh hùng biện quá!

- Tôi nổi tiếng là người nói dở. Chẳng qua, tôi bảo vệ sự thật.

- Thôi, ta hãy cạn li. Rồi còn thưởng thức món súp nữa.

Giám mục cảm thấy nhẹ nhàng. Ông ta nâng cốc vang Bordeaux óng ánh. Luân nghiêng đầu cảm ơn giám mục, uống một hớp, anh nói:

- Thưa Đức cha, con cho rằng cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là thắng lợi của tất cả người Việt Nam, kể cả những người không đồng tình về một hay nhiều mặt với Đảng Cộng sản. Rồi đây, giả tỉ như người Mỹ sẽ ở với chúng ta, cái mà chúng ta có thể kềm chế thái độ nước lớn của họ là chính những năm kháng chiến.

Giám mục gật đầu. Nhu cũng gật đầu. Luân bỗng nói như vô tình:

- Cuộc kháng chiến lớn lao đó sẽ mang về cho giáo hội Việt Nam chiếc mũ hồng y nữa kia!

Có lẽ để che giấu niềm xúc động mà giám mục ra hiệu cho linh mục phục vụ khui chai rượu digest(3) nhãn hiệu Le Cardinal(4).

(3) Tiêu hóa.

(4) Hồng y.

- Ông có cần chúng tôi giúp đỡ gì không?

Nhu hỏi Luân, giọng đã dịu dàng.

- Hiện nay tôi chưa thấy cần… Dù sao cũng xin cám ơn ông.

- Cửa văn phòng riêng của tôi, cửa phủ Thủ tướng lúc nào cũng rộng mở. Ông đừng ngại.

Nhu chạm cốc với Luân và uống cạn.

- Cửa Tòa giám mục còn mở trước cửa văn phòng của chú nữa! – Giám mục cười hả hê.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3