Đông Cung - Chương 02 - Phần 02
Tuy ở yên trong vòng tay tôi, song A Độ vẫn khẽ cử động, mũi đao như bông tuyết phớt bay rồi lại xoay chuyển trở về trong lòng bàn tay. Muội ấy ra tay nhanh như chớp, hộp thăm đỏ trên án thư của huyện lệnh đại nhân chợt vang lên một tiếng “bang” rồi nứt toác, không ai kịp trở tay, thăm đỏ trong hộp rơi xuống đất, que nào que nấy nứt làm đôi. Ống thăm cắm ít nhất mười que, tất cả bị chẻ làm đôi chỉ trong chớp mắt bởi nhát đao của A Độ, thậm chí nứt đôi ngay chính giữa. Những người có mặt trên công đường không khỏi trố mắt thảng thốt, dân chúng đứng xem ngoài cửa nha môn bèn ồ lên:
- Xiếc tài quá!
Sai dịch trong nha môn thầm nghĩ, đây là đao pháp tuyệt diệu chứ nào phải “xiếc hay”. Huyện lệnh huyện Vạn Niên sợ tím tái mặt mày nhưng vẫn ra vẻ bình tĩnh, bảo:
- Người... người đâu! Sao lại để bọn nó giở trò đao kiếm trên công đường?
Ngay lập tức có vài gã nha dịch đánh bạo tiến lên toan tịch thu thanh đao trên tay A Độ, tôi nói ngay:
- Các người có giỏi thì cứ xông lên, cô nương này mà muốn cắt tai ai, ta cũng không cản nổi đâu.
Quan huyện gằn giọng, quát:
- Nơi đây đường đường là nha môn huyện Vạn Niên, các ngươi muốn làm loạn hả?
Tôi nói:
- Bẩm đại nhân, oan cho thảo dân quá!
Huyện lệnh nói:
- Không có ý làm loạn thì mau giao nộp thanh đao.
Lời chưa dứt, A Độ đã ném cho lão một cái lườm, lão lập tức đổi giọng:
- Mau thu đao lại!
A Độ dắt đao vào thắt lưng, tôi trộm nghĩ hôm nay đúng là tai bay vạ gió, chẳng biết kết cục rồi sẽ đi về đâu.
Huyện lệnh huyện Vạn Niên thấy A Độ đã thu đao lại, dường như cũng an tâm phần nào, đưa mắt ra hiệu với sư gia. Vị sư gia hiểu ý liền bước xuống công đường, nhẹ nhàng hỏi tôi:
- Thân thủ của hai vị võ sĩ quả là cao cường, không hiểu hai vị là thuộc hạ của đại nhân ở phủ nào?
Tôi nghe chẳng hiểu gì, bèn trợn mắt bảo gã:
- Ngươi nói thẳng ra xem nào!
Sư gia nhún nhường, hạ giọng:
- Ý đại nhân nhà chúng tôi muốn hỏi, thân thủ của hai vị vừa nhìn đã biết người phi phàm, không biết hai vị đang theo hầu vị đại nhân nào ạ?
Tôi mừng quýnh, hóa ra lão huyện lệnh này cũng biết mềm nắn rắn buông, vừa rồi chúng tôi làm náo loạn công đường, lão lại tưởng tôi ỷ mình có sừng có mỏ, hẳn lão đang nghĩ chúng tôi là hiệp khách của phủ quyền quý nào đây mà. Tôi đắn đo một lúc, hay bây giờ mình réo tên Lý Thừa Ngân nhỉ, chỉ e lão không tin. Đầu tôi bỗng lóe lên một cái tên, có rồi!
Tôi thẽ thọt nói với ông ta:
- Đại nhân nhà chúng tôi là Kim ngô tướng quân Bùi Chiếu.
Sắc mặt sư gia như thể đã vỡ lẽ, thậm chí gã còn quay người, ngầm chắp tay với tôi, khẽ thưa:
- Thì ra là Vũ lâm lang dưới quyền Bùi đại nhân, chẳng trách lại phi thường thế!
Tôi mà thèm nhập bọn với lũ Vũ lâm lang khốn kiếp ấy? Cơ mà những lời này tôi chỉ tự nhủ thế thôi, người Trung Nguyên có câu rất hay: Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Sư gia lui về sau án, thủ thỉ bên tai lão huyện lệnh một chặp.
Sắc mặt lão huyện lệnh thoáng tái mét, lão đập thước một cái:
- Đã là người phụng mệnh hành sự của Kim ngô tướng quân, vậy đi mời Bùi Tướng quân đến đây làm chứng!
Tôi choáng váng, có trời mới biết lão huyện lệnh này lại lắm trò đến thế. Bụng bảo dạ, nếu hôm nay tới phiên Bùi Chiếu trực ở Đông cung thì đúng là gay go thật rồi. Nếu gã không đến hay sai một người khác mà chúng tôi không biết, vậy thì tôi chết chắc rồi. Lẽ nào phải đại náo công đường rồi bỏ của chạy lấy người sao?
Sau này nghe Bùi Chiếu kể lại tôi mới rõ, tuy gã huyện thừa này chỉ giữ chức quan thất phẩm nhỏ nhoi, hiềm nỗi hoàng thành ngay sát dưới chân thiên tử, thế mới nói đảm đương chức vị này cũng hóc búa vô cùng. Những kẻ có thể ngồi vững cái ghế ấy rặt loại cáo già lọc lõi. Lão huyện lệnh huyện Vạn Niên ấy gặp phải hai đứa khó chơi như bọn tôi đâm ra không khép được vụ án, nghe bảo tôi là quân của Bùi Chiếu liền nằng nặc sai người đi mời Bùi Chiếu đến. Những chuyện bát nháo chốn quan trường này, dù Bùi Chiếu có giảng giải thế nào thì tôi cũng không tài nào hiểu nổi.
May là hôm nay Bùi Chiếu không phải đi tuần, vừa mời đã đến ngay.
Hôm nay Bùi Chiếu mặc võ phục thay vì giáp trụ như mọi ngày. Xưa nay tôi và gã chỉ chạm mặt nhau đôi lần, đều là lúc Bùi Chiếu đi tuần trong Đông cung với bộ giáp trụ trên người, hôm nay là lần đầu tiên tôi gặp gã ăn vận kiểu này, thành thử gã bước vào mà tôi cũng không nhận ra. Vẻ nho nhã kiểu thư sinh này khiến gã khác hẳn ngày thường.
Thấy tôi và A Độ, gã tỏ ra tỉnh bơ. Huyện lệnh huyện Vạn Niên rời ghế nghênh tiếp, mặt mày tươi rói, thưa:
- Vạn bất đắc dĩ mới nhờ đến Tướng quân, âu cũng là vạn bất đắc dĩ.
- Nghe nói người của tôi vô duyên vô cớ xô một đứa trẻ xuống sông, hiển nhiên tôi cũng phải đến xem thế nào.
- Vâng, vâng! Mời Tướng quân ngồi ghế thượng tọa!
- Nơi đây là nha môn huyện Vạn Niên, xin đại nhân cứ tiếp tục thẩm tra, bản Tướng quân ngồi bên cạnh nghe là được rồi.
- Vâng, vâng!
Huyện lệnh huyện Vạn Niên lại tái diễn màn truy hỏi bị cáo, nguyên cáo từ đầu chí cuối.
Tôi thấy thật là chán ngắt.
Nhất là đoạn lão huyện lệnh nói:
- Con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, ngươi và đứa trẻ vốn không quen biết, ngươi cũng không biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ ư? Nếu bảo ngươi không làm, hà tất phải có tật giật mình? Một khi đã có tật giật mình, vậy chuyện ngươi đẩy nó xuống sông không còn nghi ngờ gì nữa!
Tôi quăng cho lão một cái lườm sắc ngọt.
Cho đến tận cùng, hai đứa trẻ kia vẫn kiên quyết cho rằng tôi đã đẩy thằng anh xuống sông, trong khi tôi một mực phủ nhận.
Lão huyện lệnh cố tình hỏi khó Bùi Chiếu:
- Bùi Tướng quân, ngài xem…
Bùi Chiếu nói:
- Tôi có thể hỏi hai đứa trẻ vài lời không?
Lão huyện lệnh thưa:
- Vâng, mời Tướng quân!
Bùi Chiếu bèn nói:
- Vậy nhờ đại nhân tạm đưa bé gái này lui ra sau, lấy hoa quả, bánh trái cho cô bé ăn, đợi tôi hỏi xong anh trai của cô bé, rồi hãy gọi ra.
Đương nhiên lão huyện lệnh đồng ý ngay lập tức. Đợi đứa bé gái kia đi khuất, Bùi Chiếu mới hỏi đứa trẻ bị rơi xuống nước:
- Cháu vừa mới nói, cháu đang nghịch nước ở ven sông, chính gã này đẩy cháu?
Thằng bé gan lì đáp lại:
- Đúng ạ!
- Gã đẩy cháu từ đằng sau?
- Đúng ạ!
- Gã đẩy cháu từ đằng sau, sau lưng lại không có mắt, sao cháu biết chính hắn đẩy mà không phải là người bên cạnh?
Thằng nhóc líu lưỡi, mắt đảo một vòng:
- Thảo dân nhớ nhầm ạ, thực ra hắn đẩy thảo dân từ phía trước khiến thảo dân ngã ngửa xuống sông.
- À, ra là ngã ngửa. - Bùi Chiếu hỏi xong, đoạn quay sang bảo. - Xin phép huyện lệnh đại nhân dẫn đứa bé này đi thay quần áo, thằng bé ướt sũng, không khéo lại nhiễm lạnh.
Huyện lệnh bèn sai người dẫn thằng bé đi. Bùi Chiếu cho gọi đứa bé gái ban nãy ra công đường, chỉ vào tôi hỏi rằng:
- Cháu nhìn xem đây có phải kẻ đã đẩy ca ca cháu xuống sông không?
- Chính hắn ạ!
- Ca ca cháu đang chơi bên bờ sông, hắn đẩy ca ca cháu kiểu gì?
- Thì cứ đẩy thôi ạ, tại hắn, ca ca cháu mới ngã xuống sông.
Bùi Chiếu hỏi:
- Người ta đẩy vai hay là đẩy lưng anh trai cháu?
Con bé nghĩ một hồi rồi nói chắc nịch rằng:
- Hắn đẩy vai ạ!
- Cháu cứ nghĩ cho kĩ đi, rốt cuộc là vai hay lưng?
Nó do dự một lúc lâu rồi mới nói:
- Không phải vai mà là lưng ạ, hắn bước tới từ đằng sau, đẩy anh cháu lộn cổ xuống sông.
Bùi Chiếu chắp tay hướng lên trên:
- Thưa đại nhân, bản Tướng quân đã hỏi xong, lời khai của hai đứa trẻ này không đồng nhất, câu trước không khớp câu sau, điểm nghi vấn còn nhiều, xin đại nhân phán quyết kĩ càng.
Sắc mặt lão huyện lệnh hết tái lại đỏ bừng, lão luống cuống thưa:
- Tướng quân nói chí phải!
Rồi lão vỗ phách, sai người dẫn thằng bé ra rồi trách cứ nó cớ gì lại nói dối. Thoạt đầu thằng bé còn chối đây đẩy, sau khi huyện lệnh dọa đánh đòn, nó liền bật khóc kể bằng hết, thì ra cha mẹ nó vốn sống ở ven sông, thường xuyên tái diễn thủ đoạn này.
Nó và em gái từ nhỏ đã biết bơi song vẫn cố tình đóng giả chết đuối để lừa người đến cứu. Một khi có người vớt lên, chúng liền lăn đùng ra ăn vạ, kêu người ta đẩy nó xuống sông, cặp vợ chồng họ Giả kia thừa cơ bắt vạ đòi bồi thường. Những người nhảy xuống cứu thường ngậm đắng nuốt cay, bấm bụng trách mình đen đủi rồi bỏ tiền cho qua chuyện. Không ngờ hôm nay gặp phải đứa khó chơi như tôi, đòi kéo nhau lên nha môn bằng được. Đến nha môn mà cặp vợ chồng họ Giả kia cũng không biết sợ, bởi lẽ phần đông người qua đường đều đinh ninh trẻ con biết gì mà nói dối, chứ đừng nói đến việc giở trò lừa gạt trắng trợn đến vậy.
Tôi chết lặng người khi nghe câu chuyện chúng kể, thật không ngờ trên đời lại có loại cha mẹ dã man đến thế, nhưng thủ đoạn lừa đảo mới khiến tôi bất ngờ hơn cả.
Bùi Chiếu nói:
- Bây giờ chân tướng sự việc đã rõ ràng, thuộc hạ của tôi vốn tốt bụng cứu người song lại bị vu cáo, hãm hại, quả thực oan uổng, mong đại nhân có phán quyết rõ ràng, bản Tướng quân xin được đưa người về.
Lão huyện lệnh chắp tay nói bằng vẻ sượng sùng:
- Xin tùy ý Tướng quân!
Tôi liền lên tiếng:
- Thảo dân vẫn có lời muốn thưa.
Bùi Chiếu đưa mắt nhìn tôi, tôi nhanh nhẹn tiến lên nói với lão huyện lệnh:
- Ngài vừa nói, con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, thảo dân và đứa trẻ vốn không quen biết, thảo dân cũng không biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ? Xin thưa, ngài nói sai rồi! Thảo dân liều mình cứu đứa bé, bởi nó nhỏ tuổi hơn thảo dân rất nhiều. Thảo dân cứ đinh ninh nó không may sảy chân rơi xuống sông, quả thực lúc bấy giờ không kịp nghĩ ngợi nhiều. Bảo vệ trẻ nhỏ, cứu người nguy nan vốn là những đạo lý nhân nghĩa ở đời. Thảo dân cũng ham sống sợ chết như ai, nhưng không ngờ trên đời này lại có kẻ thấy người sắp chết ngay trước mắt mà lại ngoảnh mặt làm ngơ, không ra tay cứu giúp. Thoạt đầu đại nhân hồ đồ phán quyết phạt tiền thảo dân, há chẳng phải răn đe những tấm lòng hảo tâm trong thiên hạ chớ nên lo chuyện bao đồng, sau này liệu còn ai dám đứng ra hành hiệp trượng nghĩa, cứu nhân độ thế nữa? Thảo dân không dám nhận mình đã làm chuyện gì lớn lao, nhưng dám nói rằng, thảo dân không thẹn với lòng mình. Nói để ngài rõ, mặc dù lần này không may gặp phải bọn lừa đảo, nhưng nếu lần sau gặp lại chuyện này, thảo dân vẫn ưu tiên cứu người!
Nói rồi tôi liền quay phắt người bước đi, dân chúng đứng ngoài xem xử án nãy giờ vỗ tay rầm rầm, có người còn gọi với theo tôi hoan hô hỉ hả.
Mặt tôi hớn hở, dương dương tự đắc, chắp tay cảm tạ những người vỗ tay cổ vũ mình.
Bùi Chiếu ngoảnh lại nhìn, tôi bèn lè lưỡi, đoạn rảo bước đi theo gã.
Thì ra gã cưỡi ngựa đến, tôi nom con ngựa ấy thần thái sáng sủa, ưa nhìn, không cầm được xao lòng:
- Bùi Tướng quân, cho ta mượn ngựa cưỡi một lúc nhé?
Kể từ lúc ra khỏi công đường, Bùi Chiếu tỏ ra lễ độ hơn hẳn:
- Bẩm công tử, con ngựa này tính tình ương ngạnh, mạt tướng sẽ chọn con ngựa khác để người cưỡi...
Lời chưa dứt, tôi liền tung người nhảy phắt lên yên ngựa, con ngựa vểnh tai khẽ hí, rồi ngoan ngoãn để tôi cưỡi. Bùi Chiếu nói, giọng thảng thốt:
- Công tử thật bản lĩnh, tính khí con ngựa này ương bướng, khó chiều, người bình thường đành bó tay chịu thua. Ngoại trừ mạt tướng ra, nó không để ai lại gần.
- Con ngựa này do người Tây Lương chúng ta tiến cống. - Tôi vỗ vào gáy ngựa, rồi vuốt ve cái bờm dài mướt của nó, thể hiện lòng yêu thương vô hạn. - Hồi ở Tây Lương, ta cũng có một con ngựa nhỏ rất ngoan, bây giờ chắc tầm bảy tuổi.
Bùi Chiếu sai người dắt thêm hai chú ngựa nữa, một nhường cho A Độ, một để mình tự cưỡi. Thấy gã phi thân lên ngựa, tôi không khỏi thốt lên tán thưởng. Đàn ông Tây Lương chúng tôi rất coi trọng bản lĩnh khi ở trên lưng ngựa, nom dáng dấp vừa rồi của Bùi Chiếu, tôi biết gã là kẻ có tài.
Phố phường đông đúc, ngựa không phi nhanh được, tôi đành giữ cương thong dong tiến dần về phía trước. Thượng Kinh phồn hoa, náo nhiệt dưới sắc trời thu trong xanh, người qua người lại đông như mắc cửi, Bùi Chiếu định rong ngựa theo sau tôi và A Độ, nhưng con ngựa tôi đang cưỡi gần gã bấy lâu, không nỡ đi nhanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã đi ngang hàng. Tôi thở vắn than dài:
- Hôm nay ta mới được mở rộng tầm mắt, chẳng ngờ trên đời này lại có loại cha mẹ như vậy, còn lừa đảo trắng trợn thế nữa chứ!
Bùi Chiếu khẽ cười, nói:
- Lòng người nham hiểm khó lường, sau này công tử ắt phải đề cao cảnh giác.
- Nhưng ta không biết phải đề phòng thế nào. - Tôi nói. - Tính cách người Thượng Kinh quá phức tạp, mà con gái Tây Lương ai nấy như một, vui vẻ hay không đều hiển hiện trên mặt, bảo ta phải bắt chước người Thượng Kinh, thà giết ta đi còn hơn.
Bùi Chiếu vẫn cười nhạt nhẽo.
Thấy mình lỡ miệng, tôi liền vồn vã bổ sung:
- Nhưng Bùi Tướng quân thì khác, ngươi là người tốt, ta nhìn là biết.
- Công tử quá khen rồi!
Lúc ấy có cơn gió lùa, quần áo trên người tôi vốn ướt nhẹp, vừa nãy nhùng nhằng ở nha môn cũng khô được phần nào, nhưng áo trong vẫn ẩm. Cơn gió lạnh buốt thổi qua, tôi không kìm được cơn hắt xì.
Bùi Chiếu nói:
- Trước mặt có quán trọ, nếu công tử không chê, mạt tướng xin giúp công tử đi mua vài bộ y phục, thay bộ đồ khô ráo rồi hãy đi tiếp có được không ạ? Tiết trời này mặc đồ ẩm chỉ e sẽ ốm.
Sực nhớ A Độ cũng đang ướt sũng từ trong ra ngoài, tôi liền đồng ý.
Bùi Chiếu đưa chúng tôi đến quán trọ, thuê một gian nhà trên, bẵng đi một lúc, đích thân hắn mang hai bọc quần áo bước vào, nói:
- Mạt tướng đã cho đám người đi theo mình lánh đi chỗ khác, tránh bọn họ nhòm ngó lung tung. Xin hai vị cứ tự nhiên, mạt tướng ở ngay bên ngoài, có gì xin cứ truyền gọi.
Hắn bước ra ngoài, tiện tay khép cửa lại. A Độ cài then cẩn thận xong, chúng tôi mới mở bọc quần áo ra xem, từ áo trong đến áo ngoài, thậm chí giày, tất đều được gấp gọn gàng và mới tinh. Chúng tôi thay bộ đồ khô ráo, A Độ giúp tôi chải lại tóc. Giờ thì thoải mái rồi.
Tôi mở cửa, gọi:
- Bùi Tướng quân!
Bên ngoài là một dãy mái hiên, Bùi Chiếu đứng ở tận đầu hành lang. Mới một lát không gặp, gã đã thay sang một bộ thường phục, tóc vấn gọn gàng, trông càng đậm nét thư sinh. Gã quay mặt về phía cửa sổ, chắc đang lặng ngắm phố phường. Nghe tiếng tôi gọi, Bùi Chiếu liền ngoái lại, nhìn tôi và A Độ thoáng vẻ ngẩn ngơ.
Bụng bảo dạ chắc gã đang thả hồn đi đâu đó, ánh mắt trông có vẻ thất thần, nhưng chỉ một thoáng, gã nhanh chóng nhìn lảng đi nơi khác, mặt hơi cúi xuống:
- Mạt tướng hộ tống công tử trở về.
- Đợi mãi mới có cơ hội lẻn ra ngoài, bây giờ ta chưa muốn về!
Tôi nhoài mình ra cửa sổ, ngắm con phố sầm uất trải dài tăm tắp.
- Chúng ta đi uống rượu đi, ta biết một quán rượu ngon, uống đã lắm.
- Tại hạ còn có nhiệm vụ khác phải làm, mong công tử thứ lỗi, xin công tử mau mau quay về.
- Hôm nay có phải ca trực của ngươi đâu, thế nên hôm nay ngươi không phải là Kim ngô tướng quân, mà ta cũng chẳng phải Phi phi gì cả. Huống hồ, bữa nay ta đen đủ đường, suýt thì chết đuối, lại bị lão quan huyện vu oan giáng họa suýt hại chết ta nữa... Giờ phải đi làm vài chén an ủi, không thì bứt rứt, khó chịu lắm.
Bùi Chiếu thưa:
- Vì sự an toàn của công tử, xin công tử theo mạt tướng quay về.
Tôi hậm hực, rạp mình trên bệ cửa sổ, không thèm để ý hắn nữa. Bụng tự nhiên réo ùng ục, tôi sực nhớ từ sáng tới giờ chưa có gì lót dạ, bụng tôi lép kẹp tưởng như da bụng dán vào da lưng. Mặt Bùi Chiếu thoắt đỏ, chắc cũng biết cái bụng tôi sôi réo rồi đây. Gã đứng cách tôi đến vài bước chân, nhờ ánh sáng lọt qua cửa sổ rọi lên khuôn mặt gã, tôi có thể nhìn rõ mồn một.
Từ bé tới giờ chưa gặp một nam tử đại trượng phu nào đỏ mặt, tự nhiên tôi thấy hay hay, là lạ, liền cười, bảo:
- Nào Bùi Tướng quân, bây giờ ngươi có tình nguyện đưa ta đi ăn không?
Bùi Chiếu thoáng tần ngần rồi thưa:
- Xin vâng!
Giọng điệu khách sáo, xa cách của gã khiến tôi lấy làm khó chịu. Có lẽ vì gã từng cứu tôi hai lần nên thực lòng tôi thấy cảm kích.
Tôi và A Độ dẫn Bùi Chiếu đi băng qua một con ngõ nhỏ hẹp, sau mấy khúc ngoặt mới đến được quán rượu của Mễ La.
Thấy tôi đến, Mễ La niềm nở chạy ra đón tiếp, mắt cá chân đeo chuông vàng ngân nga theo mỗi bước đi, trâm cài chạm hoa tai leng keng đệm nhạc. Mễ La ôm tôi, cười nói:
- Tỷ phần đệ hai hũ rượu ngon rồi đấy!
Mễ La liếc mắt nhìn Bùi Chiếu đứng sau A Độ, người ngoài thoạt nhìn cặp mắt xanh biếc của Mễ La luôn có cảm giác ngần ngại, sợ hãi, thế mà Bùi Chiếu vẫn bình thản như không. Sau này tôi nghĩ, nhà họ Bùi cũng là thế gia vọng tộc ở Thượng Kinh, ắt gặp nhiều biết nhiều. Thượng Kinh vốn sầm uất, trên phố thiếu gì con gái người Hồ[15] bán rượu, Bùi Chiếu hẳn có thấy cũng không lấy làm lạ.
[15] Người Hồ theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á.
Quán rượu này không chỉ có rượu ngon mà món thịt bò cũng đậm đà, vừa miệng. Mễ La sai người thái một cân thịt bò cho chúng tôi nhắm rượu. Chúng tôi vừa vào, ngồi chưa ấm chỗ thì trời bất chợt đổ mưa.
Trời thu trút nước, dai dẳng, đập lên ngói trúc trên mái nhà. Bàn kế bên có vài vị khách là thương nhân Ba Tư, lúc bấy giờ lấy ra một ống sáo bằng sắt, tiếng sáo dìu dặt cất lên, bắt đầu một giai điệu kỳ lạ, hòa cùng tiếng nước vỡ òa trên mái hiên, tạo thành nhịp điệu da diết khó nói thành lời.
Mễ La nghe thấy tiếng sáo liền đặt phịch hũ rượu xuống, nhảy vọt lên bàn, nhón chân trần nhảy múa. Dáng tỷ mềm mại, khêu gợi, buông lơi như cơ thể không xương trong khúc nhạc, yêu kiều không sao tả xiết. Tiếng chuông vàng dưới mắt cá chân, trên cườm tay tựa cơn mưa rào, đắm chìm trong âm điệu của sáo, lại gợi hình ảnh về một con rắn vàng mải mê uốn lượn. Đám thương nhân Ba Tư vỗ tay tán thưởng, Mễ La sẽ sàng trườn xuống bên bàn, bắt đầu những điệu quay tròn đu đưa, vây lấy ba người chúng tôi.
Xa Tây Lương bấy lâu, lúc này tôi mới được cười thoải mái. Động tác của Mễ La uyển chuyển, nhịp nhàng tựa dải lụa đang quấn quýt lấy thân tôi, rồi lại tung tăng, dập dờn vờn quanh như cánh bướm. Tôi bắt chước tỷ ấy, tay cũng hòa với nhạc đệm múa máy kiểu này kiểu nọ, ngặt nỗi cơ thể không dẻo dai bằng tỷ ấy. Mễ La xoay vài vòng, A Độ lấy trong áo ra một cây kèn tất lật[16] đưa cho tôi, tôi mừng quýnh, cũng làm vài điệu góp vui.
[16] Tất lật: loại kèn dăm có ba lỗ, miệng kèn mạ vàng, hay còn gọi là kèn pili.
Lái buôn người Ba Tư thấy tôi thổi kèn liền vỗ tay bắt nhịp. Thổi được một bài, thịt bò trên đĩa dậy mùi thơm phức, tôi liền dúi chiếc kèn vào tay Bùi Chiếu:
- Ngươi thổi đi! Thổi đi!
Thế rồi tôi cầm đũa, mau chóng ngốn đồ ăn.
Chẳng ngờ Bùi Chiếu không những biết thổi kèn mà còn thổi rất hay. Tiếng kèn vốn dìu dặt mà có vẻ đau thương, tiếng sáo kia lại lanh lảnh, mãnh liệt, hai loại nhạc khí hòa quyện rất nhịp nhàng. Mở đầu, tiếng kèn của Bùi Chiếu họa theo tiếng sáo, về sau, tiếng sáo của thương nhân người Ba Tư dần hòa quyện với tiếng kèn. Giai điệu du dương chuyển sang sục sôi, hùng dũng, như thể mây mù đặc quánh trên đại mạc bao la của Ngọc Môn Quan[17], xa xăm có tiếng lục lạc, một đoàn lạc đà xuất hiện trên cồn cát. Tiếng lục lạc đong đưa càng lúc càng gần, gần kề đến mãnh liệt, thế rồi cửa ải hiểm yếu đột nhiên rộng mở, thiên binh vạn mã phất cờ dàn trận, tiếng gào thét, tiếng vó ngựa, khiên giáp va chạm bật thành tiếng, tiếng gió, tiếng thở ra, hít vào... Vô số âm thanh hòa thành chương nhạc ngùn ngụt đất trời, cuồn cuộn kéo đến. Mễ La múa mỗi lúc một nhanh, rong đuổi theo nhịp điệu mỗi lúc một tăng, lượn vòng tựa một cánh thiêu thân lấp lánh ánh vàng, điệu múa xoay tròn của tỷ ấy khiến tôi xây xẩm.
Âm điệu mỗi lúc một thê lương, gợi nhớ cánh diều hâu chao lượn trên tầng không trông xuống thiên binh vạn mã dưới sa mạc, nó càng bay càng cao, bay cao mãi, gió rít gào thốc dậy bụi mù... Bao giờ tôi kễnh bụng vì no, chắc con diều hâu ấy đã bay vút lên đỉnh núi tuyết cao tít rồi cũng nên, tuyết liên[18] trên đỉnh núi bung nở, diều hâu sải cánh vút qua. Có chiếc lông vũ bứt khỏi thân chim, phiêu bồng theo gió, gió đặt chiếc lông chim nằm kề bên bông tuyết liên. Nhánh lông vũ đáp xuống tuyết, bị gió vùi trong tuyết. Cánh tuyết liên mơn mởn khẽ rung rinh. Gió bụi vạn dặm như lắng mình tĩnh lặng nơi đỉnh núi...
[17] Ngọc Môn Quan thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay, là trạm biên giới xa nhất về phía tây của Trung Hoa lúc đó. Tên Ngọc Môn Quan là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hòa Điền, Tân Cương thời xưa đều phải đi qua cửa ải này.
[18] Tuyết liên, hay còn gọi là hoa sen tuyết, một loài sen quý hiếm trong tự nhiên chỉ mọc trên các vách núi đá phủ đầy tuyết.
Tiếng sáo, tiếng kèn bỗng im bặt, trong quán trầm lắng đến nỗi tiếng giọt ranh ngoài hiên vọng vào nghe rõ mồn một. Mễ La nằm mọp trên bàn thở dốc, đôi mắt xanh biếc như chực tuôn trào dòng nước, tỷ ấy bảo:
- Ta không thể tiếp tục được nữa!
Đám thương nhân Ba Tư cười ồ, có người rót chén rượu, đưa cho Mễ La. Lồng ngực vẫn phập phồng, Mễ La uống một hơi cạn chén rượu, đoạn quay sang, cười tươi với Bùi Chiếu:
- Huynh thổi kèn rất hay!
Bùi Chiếu không đáp lời, chậm rãi lau sạch cây kèn bằng rượu, sau đó giao lại cho tôi.
Tôi nói:
- Thật khó tin, hóa ra ngươi cũng biết thổi kèn, chẳng mấy người Thượng Kinh biết trò này đâu.
Bùi Chiếu đáp:
- Cha mạt tướng từng đi sứ đến Tây Vực, trong số nhạc khí đem về có kèn tất lật, hồi nhỏ, mỗi lần rỗi rãi, mạt tướng thường tự học thổi kèn.
Tôi vỗ tay rồi cười, nói:
- À, ta biết, cha ngươi là Đại tướng quân Bùi Huống dũng mãnh. Cha ta và Bùi lão Tướng quân từng giao đấu một phen, cha ta cũng khen tài dụng binh của Bùi lão Tướng quân.
Bùi Chiếu nói:
- Khả hãn quá khen rồi!
Tôi bảo:
- Cha ta không tùy tiện khen người khác bao giờ đâu, cha ta khen cha ngươi là bởi ông ấy biết đánh trận thực sự.
Bùi Chiếu nói:
- Vâng!
Một câu “vâng” của hắn làm tôi tụt hứng ngay tức thì. May mà nhóm người Ba Tư lại bắt đầu ca hát, giai điệu du dương, thăm thẳm như chạm vào nỗi lòng người nghe. Mễ La uống thêm một chén rượu, biết chúng tôi không hiểu ý nghĩa của ca từ, tỷ ấy khẽ hát lại bằng chất giọng phổ thông ngọng líu ngọng lô. Thì ra, đám thương nhân ấy đang hát rằng:
“Trăng kia vằng vặc
Rọi khắp quê ta
Trăng tròn rồi khuyết
Chưa thấy quê nhà.
Sao kia lấp lánh
Chiếu khắp cố hương
Sông Ngân rực rỡ
Khó về quê hương.
Gió kia dìu dịu
Thổi khắp quê ta
Vầng dương lộng lẫy
Tỏa khắp quê nhà.
Nào đâu ai biết
Chôn mình núi nao
Nào đâu ai biết
Chôn ta sông nào.”
Tôi cất lời, hát theo Mễ La, lòng không khỏi bùi ngùi, nghe những người Ba Tư ấy hát mới buồn làm sao, bất giác tôi đưa tay cầm chén rượu uống cạn. Bùi Chiếu gật gù nói:
- Nỗi niềm nhớ quê hương ai mà chẳng có. Những thương nhân người Hồ này đã nhớ nhà đến vậy, cớ sao không quay về?
Tôi thở dài:
- Trên đời này đâu phải ai cũng giống ngươi, từ bé tới lớn không phải xa xứ, bọn họ tha phương cầu thực, âu cũng là bất đắc dĩ thôi.
Bùi Chiếu thoáng đăm chiêu, thấy tôi rót đầy chén rượu, hắn buột miệng bảo:
- Công tử uống nhiều rồi.
Tôi dõng dạc nói:
- Để giải ưu sầu chỉ có Đỗ Khang![19]
Thấy Bùi Chiếu nhìn mình có vẻ kinh ngạc, tôi chìa ba ngón tay, nói:
- Đừng tưởng ta tài giỏi gì, thực ra ta thuộc tổng cộng có ba câu thơ, câu vừa nãy là một trong ba câu đấy.
Nghe xong, hắn bật cười.