Đông Cung - Chương 04 - Phần 02

Lý Thừa Ngân là chồng tôi, chẳng lẽ lại không được hôn? Thực ra tôi rất sợ Cố Kiếm, sợ gã tức lên sẽ đi giết Lý Thừa Ngân. Gã gồng mình, chỉ e sẽ phát điên bất cứ lúc nào, sắc mặt cực kỳ khó coi, ánh mắt bám xoáy vào tôi.

Tôi cáu tiết, gắt lên:

- Chính huynh cũng nói rồi đấy thôi, xưa kia tôi đợi huynh ba ngày ba đêm, là do huynh không đến đấy chứ! Bây giờ thôi thì không nói tới việc tôi đã quên sạch mọi chuyện, nhưng giả sử tôi vẫn nhớ thì chúng ta cũng đâu thể ở bên nhau, tôi đã lấy người khác rồi. Nếu huynh tình nguyện cứu A Độ rồi thì mau cứu đi, còn không thì thôi, tôi cũng chẳng ép huynh, ngoài ra không bao giờ có chuyện tôi phản bội phu quân của mình. Con gái Tây Lương chúng tôi tuy không giống con gái Trung Nguyên đề cao trung trinh tiết liệt, nhưng tôi đã lấy Lý Thừa Ngân rồi thì chàng chính là chồng tôi, không cần biết chúng ta trước đây thế nào, bây giờ giữa tôi và huynh không còn gì nữa.

Cố Kiếm nghe xong liền giật lùi một bước, tôi có cảm giác trong đôi mắt ấy chứa đầy vẻ phẫn nộ và xót xa nào đó không nói nên lời chăng?

Song tôi bấm bụng mặc kệ tất thảy. Từ lâu tôi đã muốn nói để Cố Kiếm hiểu. Lý Thừa Ngân tử tế hay không, với tôi cũng thế cả thôi, tôi lấy hắn vì Tây Lương, hắn cứu tôi thoát chết trong gang tấc, thực lòng tôi không nên phản bội hắn.

Tôi nói:

- Thôi huynh đi đi, tôi không cần huynh cứu A Độ nữa.

Bất thình lình, gã buông tiếng cười:

- Tiểu Phong... Thì ra đây là báo ứng.

Gã đỡ A Độ dậy, áp lòng bàn tay lên lưng A Độ, bắt đầu trị thương.

Trời sập tối rồi mà Cố Kiếm vẫn mải chữa trị cho A Độ. Tôi ngồi án ngữ trước cửa, chỉ sợ có người xông vào quấy rầy bọn họ. Chỉ có điều mấy ngày rồi tôi không được một giấc ngủ ngon, tôi tựa vào cột trụ, mơ màng ngủ gật, may mà chỉ chợp mắt được chốc lát, sau cái cộc đầu vào cột thì tỉnh luôn. Thấy Cố Kiếm bước ra, tôi hỏi:

- Sao rồi?

Gã đáp một câu nhạt nhẽo:

- Chết sao được!

Tôi chạy vào xem A Độ đang nằm trên giường, sắc mặt muội ấy đã khá hơn, tôi bèn thở phào nhẹ nhõm.

Tôi luôn miệng cảm ơn Cố Kiếm, gã vẫn lầm lì không nói gì, sau đó rút từ trong ngực áo ra một bình thuốc rồi đưa tôi:

- Muội nói Lý Thừa Ngân bị thương rất nặng đúng không, thuốc này trị thương ngoài rất hiệu nghiệm, cho hắn dùng xem sao.

Chẳng hiểu sao bỗng nhiên gã lại tốt bụng đến thế. Chắc bởi mặt tôi thoáng vẻ ngờ vực, gã liền cười khẩy:

- Sao thế, sợ ta hạ độc hắn à? Vậy trả đây.

Tôi cuống quýt giấu bình thuốc vào ngực áo:

- Đợi hắn khỏe lại, tôi sẽ trả ơn huynh sau.

Cố Kiếm cười gằn, nói:

- Không cần cảm ơn ta, ta chưa định dừng lại đâu. Đợi hắn khỏe lại, ta mới đi giết hắn. Xưa nay ta không quen xuống tay với kẻ yếu thế, lúc hắn khỏi mới là lúc hắn mất mạng.

Tôi lè lưỡi với gã:

- Tôi biết huynh không làm thế đâu, đợi vết thương của hắn đỡ hơn, tôi sẽ mời huynh uống rượu.

Cố Kiếm không nhùng nhằng với tôi thêm nữa, phẩy tay một cái đã biến mất.

Mặc dù nói thế nhưng tôi vẫn đưa bình thuốc cho ngự y kiểm tra. Bọn họ lấy thuốc ra ngửi thử, ngắm thử, mãi vẫn không hiểu đó là thứ gì, cũng không dám cho Lý Thừa Ngân dùng bừa. Tôi do dự hồi lâu, sau mới trốn ra chỗ vắng, lấy một ít thuốc bôi thử lên cánh tay mình, ngoài cảm giác mát mát ra, tôi cũng chẳng thấy có gì khác thường, hôm sau thức giấc liền rửa sạch, da chỗ đó trơn láng, không vấn đề gì cả. Tôi thấy yên tâm phần nào, võ công của gã Cố Kiếm này rất cao cường, mấy kẻ cái thế chắc hẳn phải có một ít linh đơn thần dược, chưa biết chừng bình thuốc này là của hiếm. Sang ngày hôm sau, nhân lúc không ai để ý, tôi lén bôi ít thuốc lên vết thương của Lý Thừa Ngân.

Cũng không rõ vì thuốc này hiệu nghiệm hay thuốc do Thái y viện kê đã phát huy công hiệu, dẫu sao, đến xế chiều ngày thứ tư, Lý Thừa Ngân đã có dấu hiệu hạ sốt.

Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm khi biết tin hắn hạ sốt. Có người khuyên tôi về chợp mắt một lúc. Tôi mơ màng chưa được bao lâu, Vĩnh Nương đã hốt hoảng gọi tôi dậy, bà ấy nói:

- Thái tử Điện hạ có chuyện rồi.

Tôi vội vàng qua tẩm điện của Lý Thừa Ngân, bên đó đã có không ít người. Thái y thấy tôi vào thì vội vã nhường đường, tôi bước đến bên giường, chỉ thấy sắc mặt Lý Thừa Ngân trắng nhợt, thở dồn dập từng cơn, miệng vết thương rỉ ra nhiều mủ, mà hắn vẫn hôn mê bất tỉnh, tuy cơn sốt đã thuyên giảm nhưng sao hơi thở càng lúc càng yếu ớt…

Thái y chẩn đoán:

- Phế[36] của Điện hạ bị thương, bây giờ phong tà phạm vào mạch, vô cùng nguy hiểm.

[36] Phế: phổi.

Bấy giờ, những người có mặt trong điện đều tỏ ra hoang mang, sợ hãi. Tôi không hiểu lắm, hay do thuốc trị thương có vấn đề? Hoàng thượng cũng phái người đến, song tất cả các thái y đều lực bất tòng tâm, chẳng còn cách nào khác. Thế mà lòng tôi lại yên ổn trở lại, tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường, nắm chặt tay Lý Thừa Ngân, bàn tay ấy lạnh lẽo, tôi dùng đôi tay mình ủ ấm tay hắn.

Thái y đang nói gì đó, tôi cũng chẳng để tâm. Đêm về khuya, trong điện thưa dần bóng người. Vĩnh Nương choàng thêm cho tôi một tấm áo khoác, lúc ấy tôi đang nhoài người bên giường Lý Thừa Ngân, ngắm nhìn hắn không hề chớp mắt.

Hắn cũng đẹp trai thật đấy, lần đầu tiên gặp Lý Thừa Ngân, tôi đã thấy hắn khá ưa nhìn. Cặp lông mày đen, rậm, sống mũi thẳng tắp, da mặt còn trắng trẻo như ngọc Hòa Điền, tuy trắng bóc nhưng không hề giống con gái, hắn trắng kiểu thư sinh, không thô sạm như da đàn ông Tây Lương của tôi. Khuôn mặt hắn có khí chất ôn hòa của sông núi Trung Nguyên, mang nét đặc trưng của đất Thượng Kinh…

Đột nhiên tôi nhớ tới một chuyện, liền bảo Vĩnh Nương:

- Sai người thả Triệu Lương đệ ra, bảo ả đến thăm Thái tử Điện hạ.

Tuy Triệu Sắt Sắt đã bị phế thành thứ dân nhưng tôi vẫn quen miệng gọi là Triệu Lương đệ. Vĩnh Nương chau mày, bối rối thưa:

- Bây giờ Đông cung đang náo loạn thế này, ả họ Triệu kia lại có liên quan tới Hoàng hậu... Nô tì thấy, chưa có chỉ thị của Bệ hạ, Thái tử phi không nên...

Rất ít khi tôi gắt lên với Vĩnh Nương:

- Bây giờ Lý Thừa Ngân đã ra nông nỗi này rồi, hằng ngày hắn yêu quý Triệu Lương đệ nhất, sao không để Triệu Lương đệ đến thăm hắn một lần? Vả lại Triệu Lương đệ bị vu oan cơ mà? Đã là vu oan, cớ sao không để ả đến thăm Lý Thừa Ngân?

Vĩnh Nương đã quen kiểu tôi lôi cả họ tên Lý Thừa Ngân này Lý Thừa Ngân nọ ra mà gọi, song vẫn còn bỡ ngỡ với thái độ gắt gỏng ra oai kiểu Thái tử phi của tôi, không khỏi lưỡng lự. Tôi đanh mặt tỏ vẻ kiên quyết, bà ấy bèn sai người đi.

Mấy ngày không gặp, Triệu Lương đệ gầy rộc đi. Trước đây ả vốn đầy đặn, nở nang, giờ đây héo hon đi nhiều. Ả mang thân phận thứ dân nên chỉ ăn mặc đơn giản, nom liễu yếu đào tơ. Ả quỳ xuống bái chào tôi xong, tôi nói:

- Điện hạ lâm trọng bệnh, gọi muội đến là để vấn an người.

Triệu Lương đệ ngẩng phắt lên nhìn tôi, nước mắt lưng tròng. Thấy ả khóc, cổ họng tôi cũng nghẹn ngào khó chịu, tôi nói:

- Muội vào đi, nhưng cũng đừng có khóc.

Triệu Lương đệ quệt nước mắt, lí nhí thưa:

- Vâng!

Ả vào một lúc lâu, quỳ trước giường bệnh của Lý Thừa Ngân, về sau vẫn bật khóc nức nở, nước mắt ả rơi làm tôi thêm ngán ngẩm. Tôi ra bậc tam cấp ngoài cửa ngồi, ngước nhìn bầu trời.

Trời đêm đen tựa một màn nhung dát nạm đầy những vì tinh tú.

Tôi nghĩ mình thật đáng thương, như một kẻ thừa thãi.

Lúc ấy có người bước lại gần, khom mình vái lạy:

- Bẩm Thái tử phi!

Áo giáp trên người gã phát ra tiếng lanh lảnh êm tai. Thực ra lúc ấy tôi không muốn gặp bất kỳ ai, nhưng Bùi Chiếu từng cứu tôi mấy lần, tôi không nỡ phớt lờ, bèn cố nặn ra một nụ cười:

- Bùi Tướng quân đấy à?

- Gió đêm rất lạnh, xin Thái tử phi chớ ngồi ở nơi có gió lùa.

Nơi đây lạnh thật, tôi buộc lại áo khoác trên người, hỏi Bùi Chiếu:

- Ngươi đã có phu nhân chưa?

Bùi Chiếu thoáng ngẩn người:

- Tại hạ vẫn chưa thành thân.

- Trung Nguyên các ngươi luôn đề cao cái gọi là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra như thế chẳng hay ho gì, người Tây Lương chúng ta, nếu đã tâm đầu ý hợp, chỉ cần bắt một đôi chim nhạn, lấy vải bố gói gọn, gửi sang nhà gái coi như dạm hỏi, chỉ cần con gái mình bằng lòng, cha mẹ cũng không nỡ ngăn cản. Bùi Tướng quân này, mai kia ngươi thành thân, nhất định phải lấy người mình yêu, không thì mình khổ, mà người kia cũng chẳng vui vẻ gì.

Bùi Chiếu nín lặng không đáp.

Tôi ngẩng đầu nhìn bầu trời đầy sao, ngậm ngùi thở dài:

- Ta thấy nhớ Tây Lương.

Thực ra tôi biết, không hẳn vì nhớ Tây Lương, mà do nỗi buồn đong đầy trong tim. Mỗi lúc buồn tôi lại nhớ về Tây Lương.

Bùi Chiếu cất tiếng ôn tồn:

- Nơi này gió lạnh, hay là Thái tử phi vào điện ngồi…

Tôi ỉu xìu:

- Thôi, tốt nhất đừng vào, Triệu Lương đệ đang ở trong đó. Nếu Điện hạ tỉnh lại, thấy ta vào phá đám, hẳn sẽ không vui. Bây giờ Điện hạ đang hôn mê bất tỉnh, cứ để Triệu Lương đệ ở bên người một lúc, nếu người biết, có lẽ sức khỏe sẽ khá hơn.

Bùi Chiếu thôi không nói gì nữa, lùi lại mấy bước, đứng kế bên tôi. Tôi không nói chuyện với Bùi Chiếu nữa mà chống cằm suy nghĩ, giả sử Lý Thừa Ngân tỉnh lại, biết Triệu Lương đệ bị oan, ắt hẳn sẽ vui mừng lắm. Lúc ấy Triệu Lương đệ được khôi phục thân phận, lúc ấy tôi lại trở thành kẻ “chướng tai, gai mắt” trong Đông cung.

Ít nhất tôi cũng khiến Lý Thừa Ngân thấy chướng mắt.

Lòng dạ tôi bồn chồn không yên, mũi chân di loạn xạ trên mặt đất. Không rõ bao lâu sau thì Vĩnh Nương đi ra, khẽ bẩm:

- Để Triệu Sắt Sắt nán lại lâu cũng bất tiện, nô tì sai người đưa thị về rồi ạ!

Tôi thở dài.

Vĩnh Nương đoán được ý tôi, lại rỉ tai tôi nói nhỏ:

- Xin Thái tử phi yên tâm, vừa nãy nô tì túc trực bên cạnh Điện hạ, ả họ Triệu kia sụt sùi từ đấu chí cuối, không nói năng gì.

Đâu phải tôi bận tâm chuyện ả nói gì với Lý Thừa Ngân, dù ả không nói năng gì thì Lý Thừa Ngân vẫn yêu quý ả kia mà.

Bùi Chiếu khom người hành lễ với tôi:

- Hôm nay Thái tử phi đã vất vả nhiều rồi, xin người giữ gìn sức khỏe!

Tôi uể oải đứng dậy, nói:

- Vậy ta vào đây!

Tôi quay người bước vào điện sau cái vái chào của Bùi Chiếu. Chợt có cơn gió tạt ngang mang theo hơi lạnh buốt, vừa nãy có thế đâu nhỉ? Tôi chợt nghĩ, chắc lúc nãy nhờ có Bùi Chiếu đứng chắn ở đầu hướng gió.

Bất giác tôi ngoái lại nhìn, thấy Bùi Chiếu đã lui xuống bậc tam cấp, ánh mắt mải ngóng theo bóng lưng mình. Chắc gã bất ngờ vì tôi bỗng ngoảnh lại, bốn mắt nhìn nhau khiến gã có vẻ bối rối, vội nhìn lảng đi nơi khác, như thể vừa làm chuyện gì sai trái.

Song tôi chẳng bận tâm vì sao Bùi Chiếu lại kỳ quặc thế. Tôi bước vào điện, thấy mặt mày ai nấy đăm chiêu, ủ dột, tôi cũng không khỏi rầu rĩ.

Lý Thừa Ngân vẫn đang hôn mê bất tỉnh. Ngự y nói vòng vo mấy câu, tôi cũng hiểu ra phần nào, hắn cứ nằm im không tỉnh thế này, chỉ e khó mà qua khỏi.

Tôi cũng hết cách, không biết phải làm sao. Cánh tay Lý Thừa ngân đặt ngoài lớp chăn bông, cánh tay xanh xao, nhợt nhạt. Tôi xoa bàn tay hắn, vậy mà vẫn lạnh ngắt.

Đã mấy ngày chưa được chợp mắt, người mệt mỏi, bải hoải, tôi ngồi xuống ghế gác chân, bắt đầu lải nhải tâm sự với Lý Thừa Ngân. Trước đây, chưa bao giờ chúng tôi trò chuyện, giữa hai người chỉ toàn lục đục và cãi vã. Lần đầu tiên mình gặp hắn là khi nào ấy nhỉ? Đêm tân hôn, hắn nhấc bỏ chiếc khăn trên đầu tôi, tôi trùm khăn suốt một buổi tối, bí bách đến khó chịu. Khăn voan được nhấc lên, trước mắt sáng lóa, ánh nến lung linh soi rọi khắp phòng, chảy tràn trên khuôn mặt, trên thân người hắn. Hắn mặc áo bào đen thêu rất nhiều hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu quyển Điển lễ, giờ đã hiểu đấy là chín chương[37] thêu trên áo đen và xiêm[38] cam. Năm chương trên áo gồm rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn di[39]; rau tảo, gạo trắng, phủ[40], phất[41] hợp thành bốn chương trên xiêm. Áo trung đơn[42] bằng sa trắng, cổ phủ[43], viền xanh đen, có soạn[44] và tà áo. Thắt đai da, móc vàng sáng chói, dây đai bản to, màu trắng không lót đỏ, viền đỏ xanh, khuy đan bện. Áo tế đồng màu với xiêm, gồm hai chương là núi và lửa.

[37] Trên trang phục và mũ miện của vua quan đều có vẽ hình nhật nguyệt, rồng, núi, chim trĩ... được gọi là chương.

[38] Y phục thời xưa chia ra thành hai phần: trên là áo, dưới là xiêm. Xiêm tức là váy.

[39] Tôn di là một loài thú hình dáng nửa khỉ nửa hổ có đuôi dài, thường được thêu trên y phục của thiên tử thời xưa, tượng trưng cho chữ Hiếu.

[40]Phủ: áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng (thời xưa).

[41]Phất: hoa văn nửa đen nửa xanh (thêu trên lễ phục thời xưa).

[42] Trung đơn là lớp áo mặc trong lớp áo thụng thời xưa.

[43] Cổ phủ là cổ áo có hoa văn màu trắng, đen tương phản.

[44] Soạn là viền dát nạm trên y phục.

Hắn mặc áo cổn, mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng rủ chín chuỗi, kết thành tua, màu như lụa, bông tơ xanh che tai, trâm cài sừng tê… tôn lên vẻ khôi ngô, tuấn tú, dáng vẻ đường hoàng.

Cân đai mũ mão của Thái tử Trung Nguyên cũng thật phức tạp, tôi nhớ hồi học Điển lễ, phải đọc đi đọc lại mới nhớ được đoạn này, thậm chí có nhiều chữ tôi cũng chẳng biết là gì.

Ngẫm lại hồi đó tôi thích hắn, vậy mà hắn chẳng hề thích tôi. Hắn nhấc khăn đội đầu xong, không thèm uống với tôi một ly rượu hợp cẩn[45] mà cứ thế quay gót bỏ đi.

[45] Rượu hợp cẩn là chén rượu vợ chồng uống chung trong đêm tân hôn.

Thú thực, hắn bỏ đi làm tôi nhẹ cả người, lúc đó tôi thầm nghĩ, không biết mình có quen ngủ cạnh một người đàn ông xa lạ không.

Vĩnh Nương ngồi với tôi suốt cả buổi tối hôm đó, bà ấy sợ tôi nhớ nhà, lại sợ tôi giận, mấy lần phân trần bảo gần đây Thái tử Điện hạ bị cảm, chắc Điện hạ sợ lây bệnh cho Thái tử phi.

Thế mà hắn cảm suốt ba năm.

Ở Đông cung này, mình tôi trơ trọi trong nỗi cô đơn.

Tôi một thân một mình từ nơi xa xôi nghìn trùng đến được đây, tuy có A Độ đi cùng nhưng muội ấy không biết nói, nếu không có những cuộc cãi vã với Lý Thừa Ngân, chắc tôi sẽ càng cô đơn.

Giờ hắn sắp về chầu trời, tôi mới nhớ đến những mặt tốt của hắn. Tôi vắt óc để nhớ rồi kể hết những chuyện trước kia. Tôi chỉ sợ bây giờ hắn chết đi, sau này tôi không còn cơ hội nói với hắn nữa. Có nhiều thứ tôi tưởng mình đã quên nhưng thực ra vẫn còn nhớ. Thậm chí tôi còn nhớ nguyên mấy câu cãi vã mỗi lần tôi và hắn hục hặc, tôi kể hết cho hắn nghe, nói cho hắn biết lúc ấy tôi tức thế nào, tức muốn chết, song tôi toàn cố tình giả lơ, tôi biết cứ giả vờ như không để bụng là sẽ thắng được hắn, lần nào Lý Thừa Ngân cũng tức đến nghẹn họng.

Lại nói chuyện dải lụa uyên ương, vụ đó khiến tôi muối mặt, Hoàng hậu còn giáo huấn tôi một trận.

Tôi cứ huyên thuyên một hồi, chẳng biết vì sao mình phải thế, biết đâu là vì sợ, có lẽ tôi sợ Lý Thừa Ngân không còn trên đời này nữa. Đêm thâu vắng lặng, ánh nến đằng xa hắt lên màn, nội điện quạnh quẽ, có thứ gì đó ngăn cách tất cả, là màn đêm mịt mùng hay tiếng khắc lậu[46] lẻ loi, để tôi ngồi đây lảm nhảm tự nói tự nghe?

[46] Khắc lậu là đồng hồ nước ngày xưa dùng để đo thời gian (chỉ giờ), thân đồng hồ có khắc độ để tính.

Thú thực tôi rất sợ lâm vào cảnh góa bụa. Ở Tây Lương, phụ nữ góa chồng buộc phải tái hôn với em chồng, như Công chúa Minh Viễn của Trung Nguyên thoạt đầu được gả cho bá phụ tôi, sau này mới tái giá với cha tôi. Mặc dù Trung Nguyên không có tập tục ấy, nhưng cứ nghĩ đến chuyện Lý Thừa Ngân sắp vĩnh viễn ra đi là tôi lại run lên. Hắn mà ra đi thật, nhất định tôi sẽ buồn hơn rất nhiều. Tôi lập tức ngăn mình thôi không nghĩ linh tinh nữa, rồi tranh thủ kể thêm mấy câu chuyện vô thưởng vô phạt.

Tôi cũng chẳng ngờ, hóa ra tôi không ghét Lý Thừa Ngân như tôi vẫn tưởng. Dù hắn hay chọc tôi tức điên thật đấy, nhưng ba năm qua, số lần chúng tôi gặp nhau có thể đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ mấy lần hắn giận cá chém thớt với tôi vì Triệu Lương đệ thì trước đây, chúng tôi cũng không thường xuyên cãi vã. Có khi không hằm hè nhau, tôi lại thấy không quen...

Còn vụ chép sách nữa, tuy tôi ghét chép sách nhất trần đời, nhưng cũng nhờ mấy lần bị phạt chép quá nhiều sách mà vốn từ Trung Nguyên của tôi bây giờ đã khá hơn nhiều. Nhờ bị phạt chép sách cả đấy, nào là Nữ huấn, Nữ giới, chép nhiều quá nên tôi thuộc làu. Còn nữa, chuyện này tôi chưa kể cho ai biết đâu, ấy là trong sách có nhiều chữ tôi không biết, cũng không biết đọc thế nào, nhưng tôi vẽ lại y nguyên từng nét một, thế là chẳng ai biết thực ra tôi không biết chữ ấy.

Nhắc mới nhớ chữ “Ngân” trong “Lý Thừa Ngân”, chữ này cũng kỳ lạ chẳng kém, hồi đầu thấy nó, tôi cứ tưởng đó là chữ “Cần”... Tôi tự hỏi rốt cuộc chữ này là sao nhỉ? Nghe nói người Trung Nguyên rất coi trọng chuyện đặt tên, sao hắn lại có cái tên đó nhỉ?

- Ngân Châu...

Tôi độc thoại từ bấy đến giờ, tự nhiên có người lên tiếng đáp lời, tôi mới buột miệng hỏi:

- Hả? Ngân Châu nào?

- Thái tổ Hoàng đế nguyên gốc Ngân Châu... phía đông Trung Châu, phía nam Lương Châu... địa thế rồng chầu hổ phục... cho nên... ta mới tên là Thừa Ngân...

Tôi há hốc miệng nhìn kẻ đang nằm thoi thóp trên giường, giọng hắn rất nhỏ nhưng câu chữ rành rọt, tinh thần cũng có vẻ tỉnh táo. Tuy mắt hắn khép hờ nhưng vẫn nhìn thẳng vào tôi.

Tôi nghệt mặt một lúc lâu, rồi giật nảy mình, hét toáng lên:

- Á!

Giọng tôi hẳn phải kinh khủng lắm nên ngay sau đó mọi người xồng xộc xông vào. Thái y tưởng tình trạng của Lý Thừa Ngân chuyển biến xấu liền quáng quàng lao tới:

- Điện hạ sao rồi? Điện hạ sao rồi?

Tôi chỉ vào Lý Thừa Ngân, líu lưỡi nói:

- Điện hạ... Điện hạ...

Lý Thừa Ngân nằm trên giường, mặt mày vô cảm nhìn xoáy vào tôi. Thái y cả mừng, sụt sùi nói:

- Điện hạ tỉnh rồi! Điện hạ tỉnh rồi! Mau, mau sai người vào cung bẩm báo Bệ hạ! Thái tử Điện hạ tỉnh lại rồi...

Đông cung nháo nhác cả lên, ai cũng phấn chấn, hồ hởi. Ngự y nói, chỉ cần Lý Thừa Ngân có thể tỉnh lại, vết thương không đáng ngại nữa. Đám người của Thái y viện người nào người nấy rạng rỡ cười vui, bọn cung nữ mặt tươi như Tết, náo nức loan báo khắp nơi. Ngự y bắt mạch lần nữa, cân nhắc kê đơn thuốc mới. Nửa đêm nửa hôm họ tất bật chạy tới chạy lui, nhao nhao như bầy ong vỡ tổ, còn tôi chỉ muốn lăn ra ngủ.

Tôi không rõ mình thiếp đi từ lúc nào, chỉ nhớ lúc ấy ngự y vẫn rì rầm to nhỏ gì đó bên tai. Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm sấp gần mép giường, trên người đắp ngay ngắn một tấm chăn bông. Chân tôi tê rần do nằm lâu, không tài nào thu lại được, khẽ cựa mình một cái, xương cốt toàn thân kêu răng rắc... Tôi đánh một giấc ngon lành, thậm chí còn nhỏ nước miếng lên tay áo Lý Thừa Ngân, ấy... tay áo của Lý Thừa Ngân!

Hóa ra tôi đang nằm bò bên mép giường của hắn, gác cằm lên tay hắn, ngủ suốt đêm. Trong nội điện lặng ngắt như tờ, không một bóng người, Lý Thừa Ngân đang nằm bên, cười mà như không nhìn tôi.

Nom mặt hắn là biết hắn đã tai qua nạn khỏi. Đến lượt tôi trầy trật toan gập cái chân tê rần lại, thử rồi mới biết chỉ tốn công, vật lộn mãi mà không đứng lên được, lại còn phần eo... Trời đã sáng rõ, chỗ thắt lưng tôi vừa mỏi vừa đau nhức, giống như bị xe ngựa nghiền xéo cả đêm qua. Sau này tôi sẽ không bao giờ ngủ kiểu này nữa.

Cố mãi không được, cuối cùng tôi đành chống tay xuống giường ngồi dậy, tính duỗi chân thử xem, đang phân vân không biết nên gọi người vào đỡ mình, hay ngồi nghỉ một lúc cho chân bớt tê rồi hãy duỗi thử thì chợt nghe Lý Thừa Ngân hỏi:

- Nàng định đi đâu?

- Về ngủ tiếp...

Đến lưỡi tôi cũng tê, mở miệng nói suýt nữa cắn phải lưỡi, thật nguy hiểm!

- Ai bảo nàng bạ đâu ngủ đấy, nằm sấp mà cũng ngủ được, gọi mãi không dậy.

Tôi kìm nén không ném cho hắn một cái lườm, tên này vừa mới tỉnh lại mà đã có sức gây sự với tôi rồi.

Hắn vỗ vỗ xuống chỗ trống bên cạnh mình.

- Làm cái gì đấy?

- Chẳng phải nàng đang buồn ngủ sao? Dù sao giường cũng đủ rộng.

Đúng là rộng thật. Giường của Lý Thừa Ngân rộng hơn hẳn mấy chiếc giường bình thường, tám, mười người nằm trên đó vẫn đủ chỗ. Hiềm nỗi vấn đề không phải ở đó, mà ở chỗ… Tôi ngờ vực hỏi:

- Điện hạ muốn ngủ chung với thần thiếp à?

Hắn ra vẻ phật ý:

- Có phải chưa từng ngủ chung đâu.

Thì cũng đúng thế thật.

Lúc này, quả thực tôi buồn ngủ díp cả mắt, tôi nhanh chóng bò lên giường. Lý Thừa Ngân định nhường cho tôi nửa cái chăn, nhưng tôi sợ chạm vào vết thương trên người hắn, bèn đưa tay lấy chăn ở cuối giường đắp tạm, rồi cứ thế ngủ ngon lành.

Lúc lâu sau Vĩnh Nương khẽ gọi tôi dậy, tôi rón rén choàng áo lên người. Vĩnh Nương thì thầm bẩm với tôi rằng, ý chỉ phế truất Hoàng hậu cuối cùng đã được bố cáo toàn dân, bên cạnh đó còn nghe nói Thái hoàng thái hậu đã ra mặt dẹp yên lòng người, hậu cung hiện nay vẫn rất bình yên.

Kèm theo thánh chỉ phế bỏ ngôi vị hoàng hậu, Hoàng cung còn soạn thánh chỉ riêng, ấy là phục hồi thân phận cho Triệu Sắt Sắt, với lý do ả bị vu oan.

Tôi ngao ngán liếc nhìn Lý Thừa Ngân vẫn đang say giấc trên giường. Do bị thương nặng nên mấy ngày nay sắc mặt hắn nhợt nhạt, cắt không còn giọt máu, người cũng gầy đi thấy rõ, thậm chí quầng mắt còn xuất hiện một vầng xanh xám.

Tôi bảo Vĩnh Nương:

- Phái người đi gọi Triệu Lương đệ về chăm sóc Thái tử Điện hạ.

Nơi này vốn không thuộc về tôi, tôi trơ lì ở đây đã mấy ngày nay rồi.

Không đợi Vĩnh Nương kịp tấu thêm, tôi đã bước ra khỏi điện, sai người chuẩn bị xe.

Tôi về tẩm điện của mình, cảm giác buồn ngủ trốn đi đâu không biết. Bụng bảo dạ chắc đã ngủ chán rồi, tôi nhìn mình trong gương, giá như tôi xinh đẹp hơn một chút, liệu Lý Thừa Ngân có thích tôi không?

Ban đầu tôi cũng chẳng bận tâm Lý Thừa Ngân có thích tôi hay không, song trải qua đại nạn này, tôi mới chợt nhận ra mình rất hay để bụng. Giờ hắn tỉnh rồi, tôi lại mong hắn sẽ mến mình. Bởi khi hắn tưởng như đang hấp hối, tôi mới hiểu thì ra tôi thích hắn nhiều lắm.

Thế mà trong lòng hắn chỉ có Triệu Lương đệ.

Xưa kia, chưa bao giờ tôi bâng khuâng nhường này.

Ăn chẳng buồn ăn, ngủ chẳng muốn ngủ, ngày nào tôi cũng ngồi bần thần một mình.

Triệu Lương đệ đã dọn về nơi ả sống trước kia. Thái hoàng thái hậu bù đắp khá hậu hĩnh cho những gì ả từng chịu đựng, chẳng những ban thưởng nhiều vàng bạc, châu báu, mà cha ả mới đó cũng được thăng quan. Kẻ nịnh bợ ả mỗi lúc một nhiều. Bên ấy ngày nào cũng náo nức như mở hội, thỉnh thoảng tôi đi qua còn thấy văng vẳng tiếng nói cười, tiếng đàn sáo, hát ca sau bức tường...

Vết thương của Lý Thừa Ngân có lẽ đã tạm ổn, tuy bặt tăm hơi kể từ đó, nhưng có lần tôi nghe rõ tiếng hắn cười.

Cười sảng khoái nhường này, chắc đã khỏe rồi đây.