Đông Cung - Chương 05 - Phần 01

Chương 5

Hôm trời đổ tuyết có hai chuyện cùng xảy ra. Một là trong cung truyền chỉ, Hoàng thượng ban hôn Công chúa Lạc Hy cho Bùi Chiếu; hai là Tự Nương được đưa về Đông cung.

Bùi Chiếu có gia thế khá lớn, mẫu thân gã chính là trưởng Công chúa Bình Nam. Vĩnh Nương kể cho tôi nghe:

- Bùi Tướng quân sinh ra là để làm phò mã.

Nghe đâu người Trung Nguyên rất chú trọng chuyện này, vậy ra đã thân nay càng thêm thân.

Tôi chợt nhớ về giấc mơ mình hay mơ thấy trước kia, bỗng có cảm giác thất vọng. Sau này Bùi Tướng quân làm phò mã rồi, có lẽ còn được thăng quan tiến chức, nếu hắn không làm Kim ngô tướng quân ở Đông cung nữa thì về sau khó có dịp gặp.

Thoạt đầu bặt tiếng Lý Thừa Ngân, bây giờ, đến cả Bùi Chiếu cũng ít khi được gặp.

Vĩnh Nương thu xếp cho Tự Nương ở tòa viện phía tây, bà ấy nói nơi đó yên tĩnh, sức khỏe Tự Nương vốn yếu ớt, cần nơi nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.

Tôi cũng ngẫm ra là vì Lý Thừa Ngân không thích cô ta nên Vĩnh Nương mới chọn nơi cách chính điện rất xa. Vĩnh Nương nói với tôi:

- Triệu Lương đệ là người sắc sảo, Thái tử phi nên đề phòng, tránh va chạm.

Vĩnh Nương nói gì, tôi không hiểu lắm, nhưng cũng biết đại ý bà ấy bảo tôi nên lánh Triệu Lương đệ đi.

Đằng nào thì ở Đông cung này, tôi cũng chẳng thích thú gì cho lắm, may mà sức khỏe của A Độ đã có phần hồi phục, chúng tôi tranh thủ lẻn đi chơi.

Hơn hai tháng trời không ra ngoài, dẫu trời vừa đổ tuyết lạnh cóng nhưng vì là giáp Tết nên phố xá vẫn rất tấp nập, nhộn nhịp.

Người xuống phố như nêm, hàng quán mở ra ở khắp nơi, nào thì bán cây tuyết liễu, cờ xuân, nào thì bán đồ ăn vặt lẫn tranh Tết... chưa kể đến ca hát, tạp kỹ, múa rối, đốt pháo, đi dây... Đâu đâu cũng là người với người. Tính tôi vốn ham vui, từ xưa đã thích dắt A Độ hòa mình vào dòng người, ngắm nghía chỗ này một lát, xem xét chỗ kia một tẹo.

Thế mà hôm nay, chẳng hiểu vì sao tôi không thể nào phấn chấn lên được. Lượn lờ một lúc, tôi đã kéo A Độ tới quán Mễ La uống rượu.

Tửu quán vẫn tấp nập như thường ngày, từ đằng xa đã nghe rõ tiếng cười ngân vang như tiếng chuông của Mễ La tỷ.

Bước vào mái lều trúc tôi mới biết, thì ra tỷ ấy đang nói cười với khách, mà vị khách ấy tôi cũng quen, chính là Bùi Chiếu.

Tôi ngẩn người nhìn, không ngờ lại gặp Bùi Chiếu ở đây. Xem vẻ gã ngớ ra, chừng như cũng không ngờ.

Thấy Bùi Chiếu mặc thường phục, bộ dạng thoải mái, tôi liền chắp tay chào hỏi:

- Chào Bùi công tử!

Hắn phản ứng cũng mau lẹ, lập tức đáp lời:

- Lương công tử ghé chơi!

Quán chật ních người, chỉ có bàn Bùi Chiếu đang ngồi là còn chỗ trống. Theo thói phóng khoáng, không quen khách sáo, tôi bảo A Độ ngồi xuống rồi gọi hai hũ rượu.

Có câu gì nhỉ… À… mượn rượu giải sầu…

Dẫu tôi không có muôn nỗi sầu, nhưng trong lòng thấy chán chường quá chừng. Nốc cạn hai bát rượu, mới lấy lại được đôi phần lạc quan.

Tôi cầm đũa gõ bát, ngâm nga một làn điệu dân ca của người Tây Lương chúng tôi:

“Có con cáo nhỏ cô đơn,

Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,

Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.

Có con cáo nhỏ bơ vơ,

Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”

Mấy người trong quán vỗ tay lộp bộp, vậy mà lòng tôi đột nhiên ngao ngán lạ thường. Tôi không nén được tiếng thở dài, lại uống cạn một bát rượu, rồi đụng đũa nhắm món thịt dê thơm phức. A Độ níu áo tôi, tỏ ý khuyên tôi uống ít thôi, song tôi vẫn tảng lờ. Lúc tôi đang mải mê thưởng thức thịt dê, chợt vang lên âm thanh dìu dặt của kèn tất lật. Tôi ngước lên, thảng thốt nhìn Bùi Chiếu đang ngồi ở đầu bàn phía bên kia.

Chẳng hiểu cớ gì A Độ lại đưa cây kèn cho gã, gã say sưa thổi, giai điệu du dương ấy cứ tuôn không ngừng.

Tôi chống cằm lắng nghe tiếng kèn.

Gã thổi tiếp bài dân ca tôi hát dang dở, hẳn là gã chưa từng nghe bài hát ấy, thế nên tiếng kèn dè dặt, tuy âm luật không sai nhưng ngắc ngứ từng hồi, thổi một lúc mới bắt đầu nhịp nhàng, trôi chảy. Làn điệu dân ca này vốn có tiết tấu vui tươi, rộn ràng, song chẳng hiểu sao, lần nào tôi nghe cũng thấy thắt lòng.

Bùi Chiếu thổi thêm một điệu rồi mới đặt cây kèn xuống.

Tôi uống cạn thêm một bát rượu, hỏi gã:

- Ngươi giúp ta một việc được không?

Bùi Chiếu vẫn khách khí với tôi:

- Xin công tử cứ sai bảo!

- Ta chưa từng được lên lầu Chu Tước, ngươi có thể lén dẫn ta đến đó chơi không?

Nom vẻ mặt Bùi Chiếu thoáng lúng túng, tôi lẩm bẩm:

- Thôi, coi như ta chưa nói gì.

Chẳng ngờ Bùi Chiếu lại thưa:

- Lén đi thì không hay lắm, nhưng vẫn có cách, có điều công tử phải giả làm tùy tùng của tại hạ, như thế thì e công tử phải khổ một phen rồi.

Tôi lập tức phấn chấn, vỗ tay cười:

- Cái này thì có hề gì.

Tôi và A Độ đóng giả làm tùy tùng của Bùi Chiếu, nghênh ngang theo gã lên lầu Chu Tước.

Lầu Chu Tước là nơi cao nhất ở Thượng Kinh, cao hơn nhiều so với gác Lung Linh ở hồ Thái Dịch chốn Hoàng cung. Nơi đây chính là cổng chốt phía nam trong chín cổng thành của Thượng Kinh nên canh phòng hết sức nghiêm ngặt, ba bước một chòi canh, năm bước một đồn gác. Song Bùi Chiếu vẫn đưa tôi lên lầu thuận lợi, suôn sẻ.

Đứng trên lầu, gió phần phật táp vào mặt, gió tựa những nhát dao rát buốt cứa lên da thịt, nhưng có thể trông xuống nhà nhà treo đèn, kết hoa trong thành, cảnh tượng hùng vĩ vô cùng. Phố thị liền kề như một bàn cờ bày ngay trước mắt, những quán xá rải rác khắp kinh thành, hệt một bồn thạch anh tích tụ những ánh đèn. Phóng tầm mắt nhìn bao quát, thấy được cả mái ngói lưu ly nơi Hoàng cung xa xăm trải dài một màu xanh thâm trầm như đại dương chạm tới đường chân trời.

Bùi Chiếu chỉ cho tôi xem:

- Đông cung ở kia.

Có ngắm được Đông cung hay không, tôi nào có bận tâm. Tôi kiễng chân, chỉ muốn nhìn về nơi xa xăm.

Chỗ cao thế này cũng chẳng thể trông thấy Tây Lương.

Tôi tiu nghỉu, nhoài người trên tường trổ, cất giọng ủ ê hỏi Bùi Chiếu:

- Ngươi có nhớ nhà không?

Phải một lúc Bùi Chiếu mới thưa:

- Mạt tướng sinh ra và lớn lên ở kinh thành, chưa xa rời Thượng Kinh được mấy lần, thế nên chưa từng có cảm giác nhớ nhà.

Tôi ngẫm thấy mình thật chẳng ra sao, đành ngượng ngùng ngoái lại nhìn gã. Cổng thành nổi gió, cuốn tay áo choàng tung bay phất phơ. Bùi Chiếu đứng cách tôi một khoảng xa, đến nỗi nơi thành lầu đèn đuốc ảm đạm, tôi không thể nhìn ra thần sắc trên khuôn mặt gã. Tôi nói:

- Thổi một điệu kèn cho ta nghe đi!

A Độ đưa kèn cho Bùi Chiếu, gã chậm rãi thổi, vẫn là khúc dân ca tôi mới hát.

Tôi ngồi bên bờ tưởng trổ, khẽ ngân nga theo tiếng kèn:

“Có con cáo nhỏ cô đơn,

Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,

Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.

Có con cáo nhỏ bơ vơ,

Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”

Tôi biết, con cáo ấy chẳng đợi ai cả, mà nó đang rất nhớ nhà.

Bẵng đi một lúc, cũng chẳng rõ là bao lâu, tôi mới thôi lầm thầm, nhưng tiếng kèn vẫn văng vẳng, quấn quýt bên người. Làn điệu thân thương ấy khiến tôi thấy yên lòng, nhẹ nhõm… Dẫu ở chốn cổng thành lạnh lẽo, tận đáy lòng tôi vẫn đọng lại một chút ấm nồng, nơi ấy có tiếng gọi của Tây Lương, hơi thở của Tây Lương vẫn trọn vẹn ngay giữa lòng Thượng Kinh phồn hoa, rộng lớn này, nó là thứ duy nhất tôi thân quen, tôi thấu hiểu.

Mây ửng sắc vàng sà xuống ngang đầu, trăng sao chẳng thấy đâu, chỉ có gió quất trên da thịt, đau và rát. Giấc ngủ đến chập chờn, tôi ngáp một cái rồi dựa vào A Độ.

Tiếng kèn nỉ non cất lên, tựa làn sương mù mùa đông, dập dềnh trong cả những cơn mơ đưa tôi vào giấc ngủ.

Bỗng trên mặt buốt lạnh, tôi ngước đầu trông lên.

Thì ra trời đổ tuyết, tuyết từ trên trời cao từ từ rơi xuống, không hiểu gió đã ngừng thổi tự lúc nào, chỉ có tuyết đáp xuống trong câm lặng. Những bông hoa tuyết óng ánh nối đuôi nhau bung cánh xõa nở giữa đất trời. Trong thành lác đác ánh đèn của nhà dân, bốn bề như được phủ một tấm mành tuyết trắng xóa.

Cuối cùng, Bùi Chiếu thu cây kèn lại, thì ra gã đã thổi liên tục từ bấy đến giờ. Gã ngưng một lúc, cơn ho húng hắng ào tới từng cơn, chắc đã hít phải khá nhiều gió lạnh. Gã cũng ngốc thật, tôi không bảo ngừng là cứ thổi suốt, cũng chẳng sợ bị viêm phổi. Bùi Chiếu vẫn đang gồng mình dằn cơn ho, gã nói:

- Tuyết rơi rồi, mạt tướng hộ tống Thái tử phi về cung.

Tôi để ý có một đốm tuyết mềm mại đậu trên lông mi gã, chớp mắt đã tan chảy.

Tôi ngoan cố bảo:

- Ta không muốn về.

- Bẩm Thái tử phi...

- Đừng có gọi ta là Thái tử phi.

Bùi Chiếu chẳng hề nao núng, giọng điệu vẫn cung kính như thường ngày:

- Vâng, thưa nương nương!

Lòng thấy buồn, tôi bèn hỏi gã:

- Ngươi thích cô Công chúa Lạc Hy à?

Bùi Chiếu sững sờ, không đáp.

Tôi vỗ vai gã an ủi:

- Xem ra ngươi không thích rồi! Chẳng ngờ ngươi cũng bị ép phải lấy một người mình không yêu. Ôi chao, thương thay cho đàn ông Trung Nguyên! Chẳng qua ta cũng chỉ là chó chê mèo lắm lông. Lý Thừa Ngân thân là Thái tử, song không thể phong người mình yêu làm Thái tử phi, còn ngươi, hóa ra ngươi và hắn đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu...

Vốn thành ngữ kém cỏi của tôi chỉ dùng ở mức tầm tầm, chẳng vậy mà sắc mặt Bùi Chiếu trở nên lúng túng, sau cùng chỉ đáp một câu nhạt nhẽo:

- Vâng ạ!

Tôi khẳng khái khuyên:

- Đừng buồn nữa, ta mời ngươi một chầu hoa tửu[47]!

[47] Hoa tửu: ý chỉ yến ẩm cùng kỹ nữ nơi kỹ viện.

Hình như gã vừa bị sặc nên húng hắng ho một chặp. Tôi giở giọng điệu sành sỏi:

- Ta có cô bạn chí cốt ở phường Minh Ngọc! Xinh đẹp tuyệt trần! Hôm nay ngươi sướng rồi nhé!

- Bẩm Thái tử phi...

- Đừng có gọi ta là Thái tử phi nữa! - Tôi háo hức lôi kéo gã bằng được. - Đi nào, đi nào! Ta dắt ngươi đi uống hoa tửu!

Hiển nhiên Bùi Chiếu không bao giờ biết tôi là khách quen ở những nơi đầy rẫy thói trăng hoa ấy. Gã sửng sốt khi tận mắt chứng kiến danh tiếng của tôi tại phường Minh Ngọc. Chủ yếu là bởi Vương đại nương vừa nhìn thấy tôi đã đon đả cười đón hệt như nhìn thấy bảo vật sống. Bà ấy níu chặt tay áo tôi:

- Ôi chao! Lương công tử đến đấy à? Mấy chị em lầu trên lầu dưới kia ơi, Lương công tử ghé chơi đây này!

Tuy Vương đại nương đẫy đà, phốp pháp nhưng giọng nói thì lanh lảnh, cao vút, vang vọng. Vừa dứt tiếng hô, cả phường Ngọc Minh bỗng xôn xao. Lầu trên lầu dưới, một đám con gái xúng xính váy áo thướt tha, lũ lượt túa ra:

- Lương công tử đến rồi! Lương công tử ơi, sao bấy lâu nay không thấy chàng ghé thăm? Lương công tử quên chúng em rồi chăng...

Tôi đứng giữa vòng vây của các cô gái, hả hê lắm:

- Đâu mà... làm gì có... Bữa nay ta tiện đường...

- Hừ! Hôm nọ Nguyệt Nương còn bảo, Lương công tử mà không đến mau, chúng em sẽ đào sạch mười lăm vò rượu chàng cất ở đây, uống bằng hết thì thôi.

- À đó, dưới gốc cây mai vẫn chôn một vò tuyết, Nguyệt Nương quả quyết rằng phải để dành pha trà mời chàng thưởng thức!

- Hôm nay khéo sao trời đổ tuyết, hay chúng ta lấy chỗ nước tuyết đó nấu rượu nhé!

- Hay quá, hay quá!

Mấy nàng nhao nhao làm tôi hoa mày chóng mặt, tôi hỏi:

- Nguyệt Nương đâu? Sao không thấy tỷ ấy?

- Nguyệt Nương ấy à, ốm rồi!

Tôi rất đỗi ngạc nhiên:

- Ốm á?

- Vâng! Ngã bệnh tương tư rồi còn đâu!

- Bệnh tương tư á?

- Há lại không? Chuyện là, bữa nọ có vị khách quý đến đây uống chén trà, nghe đoạn hát rồi đi luôn, chẳng ngờ Nguyệt Nương lại vấn vương thương nhớ người ta.

- Kẻ nào lại có thể khiến Nguyệt Nương thầm mong trộm nhớ thế?

- Nom dáng dấp như con nhà quyền quý có ăn có học, tướng mạo tuấn tú, lời lẽ thanh tao, khí phách hiên ngang...

Nghe thôi đã biết chẳng phải chuyện đùa. Bao lần lê la quán trà nghe kể chuyện, chỉ thấy tiểu thư con nhà giàu ngầm trao duyên, ước hẹn chuyện trăm năm với các công tử, chứ nào đã nghe công tử sánh vai cùng gái làng chơi! Huống hồ Nguyệt Nương còn là kỹ nữ tài danh bậc nhất chốn phong lưu này, đám công tử quỵ lụy Nguyệt Nương không một nghìn cũng phải đến tám trăm, lý nào tỷ ấy lại đổ bệnh tương tư?

Tôi và Nguyệt Nương vốn là chỗ tỷ muội kết nghĩa, tôi liền lên lầu, đến phòng tỷ ấy hỏi thăm. Quả nhiên tỷ ấy vẫn thức, người uể oải dựa bên lồng hương, tay chống má, mắt đăm chiêu nhìn cây đèn cầy trên bàn, không hiểu đang thả hồn về đâu.

Tôi gọi tên mụ của Nguyệt Nương:

- Thập Ngũ!

Thấy tôi, Nguyệt Nương vẫn thẫn thờ:

- Muội đến đấy à?

Tôi ướm hỏi:

- Tỷ mắc bệnh tương tư thật đấy à?

- Ôi, muội không biết đâu, chàng cứ như người của cõi thần tiên!

- Muội đã nói với tỷ rồi, đàn ông đẹp không mài ra ăn được đâu!

- Người ta không những tuấn tú, khôi ngô, mà còn nho nhã, thanh tao... Đáng quý ở chỗ, chàng không tỏ ý khinh bạc tỷ. - Nguyệt Nương si mê chắp tay trước ngực. - Xin trời cao phù hộ, ngày nào đó cho đôi ta được tương ngộ dẫu chỉ một lần...

Tôi buột miệng ngắt lời:

- Hay cũng là gái giả trai? Ngày trước, khi tỷ biết muội là con gái, tỷ chẳng đã nói, muội không hề có thái độ cợt nhả nên thoạt trông đã biết muội là con gái đấy thôi...

Nguyệt Nương chẳng vì thế mà dao động:

- Làm gì có chuyện chàng là nữ cải trang, trông khí phách chàng đường đường là đấng trượng phu... Chao ôi...

Tôi rỉ tai nói nhỏ với Nguyệt Nương:

- Hôm nay muội dẫn Bùi Chiếu đến đấy! Chẳng phải tỷ luôn nóng lòng muốn báo thù hay sao? Hay bày mỹ nhân kế gạt hắn vào tròng, để hắn giúp tỷ báo thù? Cha hắn là đại tướng quân, hắn lại là Kim ngô tướng quân, nghe đâu quyền thế nhà họ Bùi hiển hách lắm!

Nguyệt Nương ngán ngẩm lắc đầu:

- Vô ích thôi. Quyền lực trong tay Cao Vu Minh có sức áp đảo cả trong lẫn ngoài triều, lão đã làm tể tướng hơn hai mươi năm nay, môn sinh của lão rải rác khắp nơi, mà vây cánh cũng nhiều, dù là Bùi gia cũng khó lòng lật đổ được lão. Hơn nữa, tỷ nghe nói, Cao Quý phi chẳng mấy chốc sẽ trở thành Hoàng hậu.

- Cao Quý phi sắp làm Hoàng hậu ư?

- Đúng vậy! Trên phố người ta đồn rằng, Bệ hạ phế bỏ Trương Hoàng hậu hòng đưa Cao Quý phi lên.

Tôi buộc phải thừa nhận, cái danh xưng thái tử phi của tôi có mà cũng như không, thậm chí tôi chẳng biết ai là người có khả năng được chọn làm hoàng hậu. Hơn nữa, xưa nay tôi chỉ gặp Cao Quý phi có hai lần, đều là lúc vấn an Hoàng hậu thì tình cờ gặp. Tôi vắt óc hồi lâu cũng chỉ nhớ mang máng, chẳng thể nào nhớ nổi hình dáng bà ta thế nào.

Tôi nói:

- Nếu tỷ được gặp Hoàng thượng để bày tỏ nỗi oan khiên của mình thì tốt quá!

Gia đình Nguyệt Nương trước đây cũng làm quan, về sau bị Cao Vu Minh hãm hại khiến cả nhà bị tịch biên. Năm đó tỷ ấy chừng sáu, bảy tuổi, tuy may mắn thoát thân song lại bị bán vào chốn thanh lâu làm nghề ca kỹ. Ròng rã mấy năm trời, trong lòng tỷ ấy lúc nào cũng tâm niệm phải báo thù, lần đầu tiên tôi nghe tỷ ấy tâm sự cảnh đời của mình mà rơm rớm nước mắt. Thế rồi chúng tôi có chung nỗi đồng cảm, tiếc thay tôi lại không giúp được gì.

Nguyệt Nương buông tiếng thở dài:

- Dẫu có cơ hội yết kiến Hoàng thượng e cũng chẳng ích gì... Ôi... Mà tỷ cũng chẳng muốn gặp Hoàng thượng... Trong lòng tỷ... bây giờ... chỉ... chỉ không biết bao giờ mới có dịp tái ngộ người ấy...

Nguyệt Nương trông vậy mà đổ bệnh tương tư, đến thù nhà cũng quên hết, lại đi nhớ nhung gã công tử nọ.

Tôi xuống nhà, kéo Bùi Chiếu lên lầu, trong phường Minh Ngọc đâu đâu cũng có chậu than, ánh sáng ấm áp lan tỏa tạo nên cảm giác dễ chịu. Nguyệt Nương không hổ là mỹ nữ đẹp nhất của phường Minh Ngọc, vừa vén tấm mành trước phòng tỷ ấy, mùi hương đã tỏa ra ngan ngát. Mấy cô gái túa ra, một mực kéo chúng tôi vào trong. Bùi Chiếu có vẻ bỡ ngỡ, tôi liền xua hết mấy cô nàng xuống lầu, chỉ để Nguyệt Nương tiếp rượu chúng tôi.

Vui vẻ đến tận đêm thâu, bụng dạ đói meo. Đầu bếp của phường Minh Ngọc nấu ngon nổi tiếng, bằng không tôi đã chẳng thường xuyên ghé qua đây. Thoạt đầu vì tâm đầu ý hợp với Nguyệt Nương, sau thì bởi chỗ tỷ ấy có rất nhiều món ngon.

Tôi ăn uống một trận no say, cảm giác khó chịu, chán chường lúc ở trên lầu hứng gió, hứng tuyết đều trôi tuột xuống bụng. Nguyệt Nương ôm đàn tỳ bà, khẽ gảy những nốt nhạc uyển chuyển, rồi hát:

“Cả đời chưa biết tương tư.

Nên vừa tương tư, liền bệnh tương tư.

Thân tựa mây trôi, lòng như bông sợi.

Hơi thở yếu mềm tựa tơ vương...”[48]

[48] Trích bài Chiết quế lệnh - Xuân tình của Từ Tái Tư, đời Nguyên.

Giọng hát yếu ớt quả thật “tựa tơ vương”, đúng là giọng ca của người mắc bệnh tương tư đây mà. Tôi liếc sang Bùi Chiếu:

- Sao ngươi không ăn đi?

- Công tử cứ tự nhiên, tại hạ không đói.

Tôi phát hiện ra, ít nhiều Bùi Chiếu đã tiến bộ hơn trước, ít nhất đã thôi mở miệng ra là mạt tướng thế này, mạt tướng thế nọ… Tôi nhấc đũa chỉ cho gã thấy:

- Món cá xắt lát ở đây ngon nhất, nhì Thượng Kinh, tẩm ướp gia vị được mang đến từ Ba Tư, không tanh chút nào, ngươi nếm thử xem!

Tôi nhiệt tình giới thiệu món cá, vậy mà gã chẳng hề động đũa.

Trên đường về cung, Bùi Chiếu đột nhiên hỏi tôi:

- Người con gái ban nãy, liệu có phải thân quyến nhà họ Trần không ạ?

Tôi ngớ người chưa kịp hiểu, gã từ tốn hỏi lại:

- Nguyệt Nương gảy đàn tỳ bà vừa rồi, trước đây mang họ Trần phải không ạ?

Tôi gật đầu, nhân tiện bộc bạch luôn chuyện nhà Nguyệt Nương đáng thương ra sao, tội nghiệp thế nào…

Thấp thoáng đằng xa đã thấy dãy tường cao chót vót của Đông cung, Bùi Chiếu chợt khựng lại, bất ngờ thưa:

- Bẩm Thái tử phi, mạt tướng có chuyện này, không biết có nên nói hay không…

Tôi ghét nhất kiểu người ăn nói vòng vo, liền nói:

- Có gì ngươi cứ nói đi!

Bùi Chiếu ngập ngừng một lát rồi mới thưa:

- Trời sinh Thái tử phi bản tính hiền lương, Đông cung lại là nơi đầy rẫy thị phi. Điện hạ thân là đương kim Thái tử, ắt có cái khó của người. Mạt tướng trộm nghĩ, Thái tử phi chớ nên giao thiệp với hạng người như Nguyệt Nương...

Chưa bao giờ tôi thấy Bùi Chiếu đáng khinh như lúc này, tôi cười khẩy, nói:

- Ta biết hoàng thân quốc thích các người luôn xem thường những cô gái như Nguyệt Nương, nhưng cấm ta chơi với bạn mình, chuyện đó e là không thể! Ta không giống kẻ lúc nào cũng xun xoe nịnh bợ như các người, khinh kẻ khác là bần dân nên không thèm kết bạn. Ngươi nói không sai, Nguyệt Nương là gái làng chơi, tối nay quả thật làm vấy bẩn Bùi Tướng quân mất rồi! Nhưng Bùi Tướng quân yên tâm, sau này không bao giờ ta đưa ngươi đến những chỗ như vậy nữa, ngươi cứ an tâm làm phò mã đi!

Có lẽ khi đó tôi đã nói với Bùi Chiếu bằng những lời lẽ gay gắt nhất, nên vừa dứt lời, hồi lâu tôi không thấy gã đáp lại, chỉ nghe tiếng vó ngựa nện xuống con đường phố thị lát những viên đá xanh vuông vức phủ tuyết. Tuyết rơi dày, phủ một lớp mỏng xuống đường khiến ngựa không đi nhanh được, chỉ nhích từng bước.

Suốt dọc đường từ đó về đến chân tường phía nam của Đông cung, tôi kiên quyết không đếm xỉa tới Bùi Chiếu.