Đông Cung - Chương 06 - Phần 01
Chương 6
Thượng Kinh vào dịp tết Nguyên tiêu được miêu tả thế này: hoa đăng mười dặm, lầu cao chín tầng, pháo rộ tám phương, Thất Tinh bảo tháp, sáu phường rộn rã, ngũ tự rền vang, bốn cổng mở toang, Tam Doãn hân hoan, đôi lứa sánh vai, một đời yên ổn. Phải mấy ngày nữa mới là rằm tháng Giêng nhưng phố phường đã nhộn nhịp chăng đèn kết hoa, con phố Chu Tước trải dài mười dặm cũng không phải ngoại lệ. Đèn được làm khéo léo vô cùng, cứ ba bước một cảnh, năm bước một màu, nào đèn sơn thủy, nào đèn nhân vật, chim trời cá nước từ to đến nhỏ, muôn hình vạn trạng, rực rỡ sắc màu, chất đầy núi, lấp đầy sông, nom đến hoa mắt, đẹp vô cùng. Đêm Nguyên tiêu, Thượng Kinh không cấm pháo bông, nhất là ở tháp Thất Tinh, nơi ấy là tháp gạch, địa thế lại cao, nhiều xưởng pháo hoa nổi tiếng thường chọn tháp Thất Tinh làm địa điểm luân phiên bắn pháo, hay còn gọi là “so hoa”. Lúc đó, người dân khắp Thượng Kinh sẽ được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục. Tết Nguyên tiêu cũng là dịp để tiểu thư khuê con nhà các công khanh[51] thuộc sáu phường được phép ra ngoài bát phố. Đêm đó, con gái ở Thượng Kinh sẽ nô nức rủ nhau xuống phố ngắm đèn, ngắm người. Sau tiếng chuông cầu quốc thái, dân an của chùa Ngũ Phúc, bốn cổng thành chính nam, chính bắc, chính đông, chính tây của Thượng Kinh sẽ đồng loạt rộng mở, không cấm người đi lại, dân chúng vùng nông thôn cũng có thể vào thành ngắm hoa đăng. Còn núi Tam Doãn chính là nơi cầu duyên thiêng nhất trong thành, nghe truyền đạo quán trên núi Tam Doãn có từ đường thờ Nguyệt Lão, phàm là nam nữ độc thân mà đến đó dâng hương vào ngày rằm tháng Giêng ắt sẽ thiêng. Đôi ngả song quy vốn là tập tục của Thượng Kinh, những chị em đã yên bề gia thất vào ngày này chắc chắn phải đi ngắm hoa đăng cùng phu quân của mình để thỉnh cầu một năm mới bình an, thịnh vượng, còn những người chưa thành thân thì cũng sớm gặp được ý trung nhân. Tết Nguyên tiêu còn là dịp để nam thanh nữ tú hẹn hò giao duyên mà vẫn trong phạm vi cho phép của lễ giáo.
[51] Công khanh: viết tắt của tam công cửu khanh, tức ba chức quan đầu triều và chín chức quan phụ trách các công việc khác nhau.
Tết Nguyên tiêu năm ngoái, tôi và A Độ đến Tam Doãn ngắm đèn lồng, chen chúc đến nỗi tuột cả giày. Nghe đâu tối hôm đó, số giày bị thất lạc lên đến mấy nghìn đôi, sau này, những đạo sĩ trên núi Tam Doãn quét dọn, thu gom đống giày ấy quyên cho người nghèo, phải huy động mấy chiếc xe lớn mới kéo hết.
Năm nay bụng bảo dạ phải lấy dây da quấn ủng cho chặt kẻo lại tuột mất. Một ngày náo nức như thế, đương nhiên không thể thiếu tôi rồi.
Hôm Mười bốn tháng Giêng, mớ bòng bòng yến tiệc bái yết cuối cùng cũng tạm vãn, tôi tranh thủ trốn việc về Đông cung đánh một giấc say sưa, lấy tinh thần đi chơi tết Nguyên tiêu. Đang ngủ say thì bị Vĩnh Nương gọi dậy:
Tôi vẫn gật gà liêu xiêu, vừa ngáp vừa hỏi:
- Lại gì thế?
- Người ta tìm thấy một tấm bùa gỗ dưới gầm giường của Tự Bảo lâm, nghe nói là đồ yểm bùa, ghi ngày sinh tháng đẻ của Triệu Lương đệ. Giờ Triệu Lương đệ bắt Tự Bảo lâm, đôi bên đang hầu ngoài điện, muốn mời Thái tử phi đứng ra xử trí.
Đang mệt và buồn ngủ, tôi càng thêm bực mình:
- Thật nhiều chuyện! Có mỗi khúc gỗ cũng làm ầm cả lên, lại còn đương ngày Tết! Tự Bảo lâm có ngốc đâu, vả lại khắc một khúc gỗ thì rủa chết được Triệu Lương đệ chắc? Ả vẫn sống sờ sờ ra đấy thôi!
Vĩnh Nương nghiêm nét mặt, nói:
- Bùa ngải vốn là thứ cấm kỵ. Có lẽ Thái tử phi không biết, mười năm trước, Trần Trưng vì làm bùa yểm Thánh thượng mà bị tử hình, tru di cả nhà. Thiên triều ta buổi đầu lập quốc có Ngô hậu bị phế thành thứ dân cũng tại làm bùa yểm Hứa phi, thậm chí con trai ruột cũng không được phép phong vương...
Tôi sợ nhất mỗi lần Vĩnh Nương đem những chuyện từ mấy trăm năm trước ra giảng giải, thật khiến tôi đau đầu. Tôi đành bật dậy, gọi cung nữ hầu thay xiêm y, gấp gáp rửa mặt, chải đầu. Vĩnh Nương thưa:
- Tuy chuyện Tự Bảo lâm đặt bùa có phần khó tin, nhưng dù sao Thái tử phi cũng phải hết sức cẩn thận, chớ để mắc mưu.
Tôi thành thật hỏi:
- Theo bà, ta nên giải quyết thế nào?
Vĩnh Nương bẩm:
- Đáng lẽ Thái tử phi nên tìm cớ thoái thác, rồi tấu lên Hoàng hậu để người phán xử, hiềm nỗi hiện nay ngôi vị Hoàng hậu còn bỏ ngỏ, lại đương ngày Tết, không phải lúc thích hợp để bàn những chuyện không may mắn. Nô tì thiết nghĩ, Thái tử phi đừng ngại tấu chuyện này với Thái tử Điện hạ để người tự cân nhắc, quyết định.
Tuy không nói gì nhưng tôi tự nhủ, vụ này mà giao cho Lý Thừa Ngân thì Tự Bảo lâm bị khép tội là cái chắc.
Triệu Lương đệ là người thương của hắn, bất chấp phải trái thế nào, kiểu gì hắn cũng nổi giận khiến Tự Bảo lâm phải chịu oan ức. Mà Tự Bảo lâm cũng tội nghiệp, Lý Thừa Ngân vốn chẳng ưa gì nàng ấy, lần trước vào cung thăm nom thấy cô ấy khóc mãi, lần này xảy ra chuyện, cô ấy đành ngậm đắng nuốt cay chứ biết làm sao? Tôi nghĩ mãi, chỉ thấy không đành lòng.
Thấy tôi đăm chiêu, Vĩnh Nương liền tiếp lời:
- Bẩm nương nương, giữa chốn ao tù nước đục này, người nên lo cho mình trước.
Tôi gắt lên:
- Lo cho mình tức là bảo ta mặc kệ Tự Bảo lâm, để Lý Thừa Ngân tự xử trí sao? Ta không muốn!
Vĩnh Nương định khuyên thêm mấy câu, tôi liền sửa sang váy áo, nói:
- Truyền Triệu Lương đệ và Tự Bảo lâm vào!
Vĩnh Nương là người nắm vững cung quy, lại thêm mấy chục năm giáo dưỡng, lần nào tôi giở thói ngang tàng của Thái tử phi, cuối cùng, Vĩnh Nương cũng đành bất lực, phải cung kính vâng lời.
Gặp tôi, Triệu Lương đệ vẫn tỏ vẻ kính cẩn, quỳ lạy theo đúng quy cách. Tôi sai Vĩnh Nương dìu ả dậy, ban ngồi.
Nhưng Tự Bảo lâm vẫn quỳ dưới sàn, nom gò má đỏ ửng, mắt cũng đỏ hoe, hình như vừa khóc.
Tôi hỏi cung nữ:
- Sao không đỡ Tự Bảo lâm dậy?
Đám cung nữ không dám trái lời, liền vội vàng vực Tự Bảo lâm dậy. Tôi nói bâng quơ:
- Hôm nay nắng đẹp, hai tỷ muội rủ nhau đến chúc Tết ta đấy à?
Có vậy thôi đã khiến mặt Triệu Lương đệ đỏ bừng rồi lại trắng nhợt.
Đáng ra, theo quy định của Đông cung, mùng Một đầu năm bọn họ phải mặc trang phục hoàng tộc đến khấu đầu vấn an tôi, hiềm vì Lý Thừa Ngân chỉ lo tôi gây khó dễ với Triệu Lương đệ nên suốt ba năm qua, hắn không bao giờ để ả tự mình lại tẩm điện của tôi, tục lệ bị bãi bỏ từ đó. Giờ nghe tôi nói thế, chắc Triệu Lương đệ nghĩ tôi đang mỉa mai ả. Nhưng thực ra hôm đó trong cung bận bịu tổ chức đại lễ Nguyên thần, mãi khuya tôi mới được về Đông cung, làm gì có thời gian để bày vẽ lễ tiết này nọ, thậm chí Tự Bảo lâm cũng chẳng đến khấu đầu.
Bấy giờ tôi nào có nghĩ sâu xa thế, sau này nhờ Vĩnh Nương thủ thỉ tôi mới hay. Lúc đó chỉ thấy sắc mặt Triệu Lương đệ là lạ, cứ ngỡ tại mình tỏ vẻ hòa nhã với Tự Bảo lâm, tôi bèn vỗ về Tự Bảo lâm mấy câu rồi sai người đưa khúc gỗ kia lên.
Bùa ngải vốn bị coi là vật ô uế nên tấm gỗ kia được đặt trên khay, do cung nữ bưng tới, Vĩnh Nương không để tôi phải chạm tay vào. Tôi ngắm nghía tám chữ ngày sinh tháng đẻ được khắc rõ ràng trên đó một hồi mà chẳng thấy gì, bỗng dưng nhớ ra một chuyện:
- Sao đột nhiên lại lục soát gầm giường của Tự Bảo lâm?
Tôi vừa dứt lời, mặt Triệu Lương đệ thoắt biến sắc vẻ khó hiểu.
Chuyện là con chó do Triệu Lương đệ nuôi tự dưng chạy đi đâu không rõ, cung nữ tìm khắp nơi không thấy, có người thấy thì bảo nó chạy vào sân viện của Tự Bảo lâm, thế là người của Triệu Lương đệ liền xộc vào tìm. Tự Bảo lâm khăng khăng nói không thấy con chó nào chạy vào đây cả, nhưng cung nữ hầu hạ Triệu Lương đệ không tin, làm ầm ĩ cả lên, nhốn nháo chạy đi lục soát, chẳng ngờ thay vì tìm ra chó, lại thấy tấm bùa này.
Triệu Lương đệ thưa:
- Xin Thái tử phi giúp thần thiếp phân xử vụ này.
Tôi hỏi Tự Bảo lâm:
- Rốt cuộc thứ này ở đâu ra?
Tự Bảo lâm quỳ sụp xuống:
- Thần thiếp quả thật không rõ, xin Thái tử phi minh xét.
- Đứng lên, đứng lên đi!
Tôi vốn ghét những người hở một tí là quỳ, bèn quay sang nói với Triệu Lương đệ:
- Có lửa thì mới có khói, Tự Bảo lâm sao phải đi yểm bùa muội? Ta cảm thấy chuyện này không đơn giản...
Triệu Lương đệ lạnh lùng lên tiếng:
- Chứng cứ rành rành ra đó, Thái tử phi nói vậy, phải chăng có ý thiên vị Tự Bảo lâm?
Ả đốp lại chẳng kiêng nể gì, mắt long lên vẻ dữ dằn. Không đợi tôi lên tiếng, Vĩnh Nương đã thưa:
- Ý của Thái tử phi là phải điều tra nguyên do rõ ràng, không hề có ý thiên vị, mong Lương đệ ý tứ ngôn từ.
Ả ta đứng phắt dậy, vái tôi rồi nói:
- Vậy thần thiếp sẽ chờ Thái tử phi điều tra rõ ràng vụ này, chỉ mong sớm có ngày cháy nhà ra mặt chuột, đến lúc đó mong Thái tử phi sẽ cho thần thiếp một lời giải thích rõ ràng.
Ngừng một lát rồi ả tiếp lời:
- Thần thiếp xin được cáo lui!
Rồi không lằng nhằng thêm nữa, cũng chẳng đợi tôi đồng ý, ả đã nghênh ngang dẫn người bỏ đi.
Vĩnh Nương tức mình, nói:
- Há lại như thế, mạo phạm đến thế là cùng!
Tôi không nói gì, Triệu Lương đệ ghét tôi cũng phải thôi, tôi cũng chẳng ưa gì ả.
Tự Bảo lâm quỳ dưới sàn từ nãy đến giờ, rụt rè đưa mắt nhìn tôi. Tôi thở dài, đích thân đỡ cô ấy dậy, hỏi:
- Kể ta nghe đầu đuôi chuyện ngày hôm nay, xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Dường như Tự Bảo lâm vẫn chưa hết bàng hoàng, cho đến khi Vĩnh Nương sai người rót trà nóng, cô ấy chậm rãi nhấp môi, sau đó mới nói được ngọn ngành.
Nơi Tự Bảo lâm sống vốn khuất nẻo Tết này, trong cung ban thưởng theo thông lệ. Với tôi và Triệu Lương đệ thì những món ấy chẳng đáng là bao, nhưng với Tự Bảo lâm âu cũng là những vật quý hiếm. Tự Bảo lâm vốn chân chất, hiền lành, hai cung nữ tôi sai tới lại rất mực ngoan ngoãn, nghe lời, Tự Bảo lâm mới dấm dúi lấy bánh trái chia cho họ ăn. Mà vật ngự ban không được phép tùy tiện biếu tặng kẻ khác, nên đành phải lén lút khóa trái cửa, phòng có người đi qua bắt gặp.
Đúng lúc đó, người của Triệu Lương đệ bất thình lình gõ cửa, bọn họ giật mình hốt hoảng, thấy chột dạ nên mới vừa giữ cửa vừa hớt hải giấu chỗ bánh trái kia đi. Người của Triệu Lương đệ vừa xộc vào đã sục sạo khắp nơi, Tự Bảo lâm chột dạ, kiên quyết không để bọn họ xông vào làm bừa, nhưng đám người Triệu Lương đệ phái đến chẳng biết nể nang ai, đôi bên lời qua tiếng lại, chẳng mấy chốc đã thành cãi cọ ầm ĩ. Người hầu của Triệu Lương đệ xưa nay quen thóikhông làm thì thôi, đã làm phải làm tới cùng, thế là chúng xới tung cả phòng của Tự Bảo lâm, chẳng ngờ chó thì không tìm thấy, lại thấy tấm bùa nằm dưới gầm giường của Tự Bảo lâm. Phen này đúng là chọc phải tổ ong vò vẽ rồi, đám tay chân của Triệu Lương đệ, người quay về bẩm báo với chủ nhân, kẻ giam lỏng Tự Bảo lâm lẫn hai cung nữ kia lại. Triệu Lương đệ vừa nhìn thấy tấm bùa, giận đến run rẩy cả người, chẳng nói chẳng rằng liền lôi thẳng Tự Bảo lâm đến gặp tôi.
Tự Bảo lâm nước mắt lưng tròng:
- Thần thiếp quả thực không biết thứ đó ở đâu ra... Xin Thái tử phi minh xét...
Minh xét cái nỗi gì... Hai người bọn họtrời chẳng chịu đất, đất chẳng chịu trời, xoay tôi mòng mòng như thế này thì tôi còn minh xét cái gì được nữa, song khúc gỗ này hẳn không phải từ trên trời rơi xuống. Tôi hỏi Tự Bảo lâm:
- Đồ ở ngay dưới gầm giường, lẽ nào muội không biết ai đặt vào đó hay sao?
Tự Bảo lâm tưởng tôi hạch tội, giật mình quỳ phịch xuống:
- Bẩm nương nương, thần thiếp tự biết thân biết phận, tuyệt đối không có ý tranh giành với ai, nào dám oán rủa gì Lương đệ...
Trông sắc mặt Tự Bảo lâm tái mét vì sợ, tôi liền bảo:
- Ta không có ý đó, ta chỉ muốn nói, không phải tự dưng vật này lại ở ngay dưới gầm giường của muội. Cả ngày muội quanh quẩn trong phòng, hai cung nữ kia ngày qua ngày ở bên hầu hạ, dạo gần đây có kẻ nào khả nghi ghé qua chỗ muội, hoặc có chuyện gì đáng ngờ không?
Tự Bảo lâm nghe thế mới dần trấn tĩnh lại, vắt óc nhớ lại xem có chỗ nào đáng nghi.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, cuối cùng vẫn thưa:
- Thần thiếp không nhớ ra có kẻ nào khả nghi...
Thôi, Tự Bảo lâm thì có khác gì tôi, cùng dạng đểnh đoảng.
Tôi có thiện ý an ủi cô ấy vài câu rồi cho lui. Thấy Tự Bảo lâm vẫn bán tin bán nghi, tôi bèn nói:
- Năm dài tháng rộng, sẽ có ngày sự thật được phơi bày, không phải sợ, đợi sau rằm hãy tính.
Cô ấy trông tôi có vẻ tự tin, đoán chừng tôi đã chắc chắn mọi chuyện mới trịnh trọng vái chào tôi rồi lui về.
Vĩnh Nương hỏi:
- Thái tử phi đã có diệu kế để tìm ra hung thủ của vụ án này chăng?
Tôi ngáp dài:
- Ta thì có kế gì, mấy vụ như thế này ta không biết gì đâu.
Vĩnh Nương dở khóc dở cười, lại hỏi:
- Vậy Thái tử phi định giải thích thế nào với Triệu Lương đệ?
Tôi trợn mắt nhìn bà ấy:
- Có phải ta đặt bùa dưới gầm giường đâu, việc gì ta phải giải thích với ả?
Vĩnh Nương nghe tôi nói mà khóc dở mếu dở, càm ràm khuyên tôi mãi, nhưng tôi buồn ngủ díp mắt, chẳng nghe được mấy câu đã vẹo đầu ngủ khì.
Đang say giấc nồng, bỗng nhiên có người xốc tôi dậy. Nói thực, tôi vẫn đang mơ màng ngái ngủ. Tuy Vĩnh Nương thường xuyên sai người kéo tôi ra khỏi giường, nhưng chí ít cũng phải vừa ẵm vừa đỡ, chứ đâu xấc xược như người này.
Tôi hé mắt nhìn. Ối, là Lý Thừa Ngân! Hắn không chỉ xốc tôi dậy mà còn lên tiếng:
- Nàng vẫn ngủ được cơ à?
Thôi, tôi xong rồi!
Nhất định ả Triệu Lương đệ kia đã mách lẻo gì với hắn rồi, chẳng trách giờ hắn đến hoạnh họe tôi. Tôi xẵng giọng:
- Có gì mà không ngủ được! Chuyện Tự Bảo lâm chưa điều tra rõ chứ sao, Điện hạ gào lên phỏng ích gì!
Hắn nhíu mày nhìn tôi:
- Tự Bảo lâm lại có chuyện gì thế?
Hả? Hắn chưa biết sao? Triệu Lương đệ chưa thủ thỉ gì sao? Tôi liếc mắt, cười nịnh bợ:
- À… không có gì, không có gì! Chàng tìm thiếp có chuyện gì thế?
- Mai là tết Nguyên tiêu rồi!
- Thiếp nhớ chứ!
Nhảm thật, bằng không hôm nay tôi cố ngủ nướng cả ngày để làm gì? Là để dồn sức cho tối mai, để đi ngắm hoa đăng chứ còn gì nữa.
Thấy tôi vẫn tỉnh bơ, hắn mới nói:
- Mai ta phải hầu phụ hoàng lên lầu Chu Tước, cùng dân đón tết Nguyên tiêu.
- À, thiếp biết.
Đương nhiên phải biết chứ! Năm nào cũng vậy, cứ độ tết Nguyên tiêu, Bệ hạ và hắn đều xa giá đến Thừa Thiên Môn, vẫy chào dân chúng trong thành, nghe bách dân thiên hạ tung hô “vạn tuế”, gọi một cách hoa mỹ là “cùng dân đón tết Nguyên tiêu”, còn nói thẳng ra là đứng hứng gió mất nửa đêm. May thay phận nữ nhi trong hoàng thất không phải đi theo, không thì kiểu gì tôi cũng đông cứng thành cột băng trên cổng thành, đóng băng chỉ là chuyện nhỏ, bỏ lỡ hội hoa đăng mới là chuyện lớn.
Hắn gườm gườm, tỏ vẻ bực mình, khó chịu:
- Nàng đã hứa với ta gì nào?
Có một câu, phải nói thế nào nhỉ, gần vua như gần hổ, lòng vua khó dò. Câu này quá chí lý, tiếp con trai của hoàng đế khác gì tiếp hổ con, ý tứ khó dò y như nhau, hắn đang nghĩ gì tôi đoán mãi không ra, bèn rụt rè hỏi:
- Thần thiếp đã hứa gì với Điện hạ ư?
Thấy tôi ngơ ngác, hắn liền cao giọng:
- Quả nhiên nàng quên sạch rồi! Nàng hứa sẽ dẫn ta đến kỹ viện chơi.
Ôi trời ơi! Câu này hà tất phải gào lên như thế sao?
Tôi bổ nhào đến chặn đứng miệng hắn lại:
- Bé cái miệng chứ!
Vĩnh Nương biết Lý Thừa Ngân đến, lòng thấp thỏm không yên, chỉ sợ chúng tôi cãi vã, liền bước vào nội điện, khéo thế nào mà bà ấy vừa thò đầu vào, đập vào mắt là cảnh tôi như con cua tám càng quắp chặt thân hình Lý Thừa Ngân, xiêm y chẳng những xộc xệch mà tay còn đang bụm chặt miệng hắn. Về phần Lý Thừa Ngân, hắn vừa xốc tôi dậy khỏi giường, hai bàn tay vẫn ghì chặt eo tôi... Quả thật trông tôi như con khỉ đang vắt vẻo trên cành cây. Nói chung tư thế của hai đứa bảo mập mờ thì rất mập mờ, nói khả nghi, đúng là có thừa khả nghi... Bà ấy chưa kịp nhìn rõ sự tình đã giật mình quay đầu mất hút.
Tôi thấy bực mình, lần trước là A Độ, lần này đến lượt Vĩnh Nương, hà tất họ cứ phải nhằm lúc này để xông vào?
Lý Thừa Ngân có vẻ háo hức ra mặt:
- Dậy nào, ta sai người chuẩn bị quần áo ổn thỏa cả rồi. Sau tết Nguyên tiêu, ta sợ không còn dịp nào nữa.
Tôi cứ tưởng sau khi làm lành với Triệu Lương đệ, hắn đã quên chuyện này rồi chứ, ai mà biết hắn còn nhớ.
Quả nhiên hắn đã chuẩn bị sẵn một túi lớn toàn quần áo mới. Trước kia tôi chưa từng được ngắm một Lý Thừa Ngân trong trang phục thường dân, sao cứ thấy có nét gì đó là lạ, khó nói nên lời. Cũng không thể nói là chướng mắt, có điều không giống với dáng vẻ thường ngày của hắn lắm.
Hắn hí hửng lấy từ trong túi bộ râu giả đưa tôi xem:
- Có cần dán râu giả không? Thế này chắc chẳng ai nhận ra chúng ta.
Hắn hớn hở lôi từ trong túi bộ quần áo đưa tôi xem:
- Có phải vận quần áo màu đen không? Thế này tha hồ vượt tường, leo nóc nhà.
Rồi hắn lại lục trong túi gói thuốc mê đưa tôi xem:
- Có phải mang thuốc mê theo không? Thế này thì có mười tên cũng không thành vấn đề.
...
Tôi điên mất thôi! Điện hạ ơi là Điện hạ, người đến kỹ viện chứ có phải đi giết người, cướp của, phóng hỏa ở tiệm bạc hay lương khố đâu... Tôi nóng nảy gắt lên:
- Mang tiền là đủ rồi.
Cái này thì khỏi phải nói, Lý Thừa Ngân không những có tiền mà còn rất hào phóng nữa chứ. Tôi vừa dứt câu “mang tiền là đủ rồi”, hắn liền vét đáy túi lấy ra một đống vàng, chậc chậc, cả đống thế này phải bao trọn phường Minh Ngọc luôn ấy chứ!
Tôi thay đồ nam xong, Lý Thừa Ngân cứ tủm tỉm cười. Tôi gườm gườm, dọa sẽ không dẫn hắn theo nữa, cố gắng lắm hắn mới nín được cười.
Tôi khăng khăng đòi dẫn A Độ theo, Lý Thừa Ngân sống chết không chịu. Tôi nói:
- Không có A Độ bên cạnh, thiếp không quen.
Hắn nghiêm nghị bảo:
- Có ta bên cạnh nàng là đủ rồi.
- Thế nhưng nhỡ đâu...
- Nàng không tin ta đủ sức bảo vệ nàng ư?
Tôi thở dài, lần trước kẻ nào bị thích khách đâm cho một nhát sống dở chết dở, suýt thì chết hả... Sực nhớ đến gã thích khách nọ, bỗng dưng tôi thoáng thấy áy náy, tức thì cũng mềm lòng, tôi bèn lén ra hiệu cho A Độ. A Độ sẽ ngầm bám theo chúng tôi.
Thế là tôi và Lý Thừa Ngân cùng lẻn ra khỏi Đông cung mà thần không biết, quỷ không hay. Thể nào Vĩnh Nương cũng đinh ninh tôi và Lý Thừa Ngân đang ở trong điện, không một kẻ nào phát hiện ra hành tung của chúng tôi. Bỗng dưng tôi thấy háo hức vô cùng, thì từ xưa tôi đã thích xuất cung, long nhong bên ngoài mà, dù hôm nay phải dẫn theo Lý Thừa Ngân nhưng tôi vẫn rất đỗi vui sướng.
Ra khỏi Đông cung mới nhận ra trời đang mưa. Làn mưa rét buốt táp vào mặt, lạnh thấu xương, bất giác tôi thấy lo lo, nếu mưa to hơn, chỉ e hội hoa đăng ngày mai sẽ kém vui. Năm kia trời cũng mưa to, tuy trên phố vẫn dựng lều trúc, vẫn chăng đèn, nhưng trăng lên tù mù, nào có biển hoa đăng để mà ngắm đâu.
Con đường lát đá ngập nước, tiếng vó ngựa vang lên lộc cộc. Nhành liễu tuốt lá lưa thưa buông thõng như làn tóc rối, tô điểm cho quán xá hai ven đường, trong quán nhen nhóm ánh đèn vàng, đèn lồng nối đuôi nhau chạy dọc con đường dài trước mắt. Mai là ngày rằm tháng Giêng, nơi tửu lâu, quán trà tấp nập người ra người vào, ngựa xe như nêm. Thượng Kinh lúc nào cũng khoác lên mình vẻ phồn hoa, nhất là giáp tết Nguyên tiêu, cả nét yên ả, e ấp nữa, hệt như tân nương sắp về nhà chồng, nàng dày công trang điểm, vận xiêm y rực rỡ, chỉ đợi đến ngày mai.
Dừng trước phường Minh Ngọc, chúng tôi xuống ngựa, tiểu nhị ân cần, niềm nở chạy đến giữ cương, dắt chúng vào tàu ngựa phía sân sau.
Tối nay phường Ngọc Minh nhộn nhịp hơn hẳn, lầu trên lầu dưới đâu đâu cũng kín người. Chúng tôi ướt sũng, Vương đại nương nhìn tôi mà như nhìn bảo vật sống, ngoác miệng cười mãi, giọng vẫn sang sảng như mọi khi, may mà tôi kịp cướp lời bà ấy:
- Đại nương tìm phòng để chúng tôi thay áo quần trước đã, vị đại ca này lần đầu tới đây, vẫn còn lạ lẫm.
Vương đại nương nhìn chằm chằm Lý Thừa Ngân, đôi mắt sắc sảo vừa trông thấy viên minh châu trên mũ đội đầu của Lý Thừa Ngân, lập tức cười híp cả mắt:
- Vâng, vâng, đương nhiên rồi, mời hai vị công tử đi lối này.
Lúc lên lầu, tôi hỏi Vương đại nương:
- Nguyệt Nương đâu?
- Mới có khách đến gọi Nguyệt Nương đi hầu đàn rồi.
Tôi thấy rất lạ, lần trước Nguyệt Nương mắc bệnh tương tư, nể mối thâm tình lâu nay giữa chúng tôi, Nguyệt Nương đàn có hai bản mà mặt ủ mày chau. Nguyệt Nương không chỉ là hoa khôi của phường Minh Ngọc, mà trong đám ca kỹ hàng đầu ở Thượng Kinh, Nguyệt Nương không xứng danh đệ nhất cũng phải là đệ nhị, tỷ ấy còn chẳng thèm đả động tới đám người quyền cao chức trọng nữa là… Thậm chí lần tôi dẫn Bùi Chiếu đến, tỷ ấy có bận tâm đâu. Tôi hiếu kỳ hỏi:
- Vị khách nào mà ghê gớm vậy?
Vương đại nương cười tươi rói:
- Còn ai vào đây nữa! Thì là vị lần trước khiến Nguyệt Nương nhà ta xuyến xao, bồi hồi mãi đấy thôi, hôm nay lại đến rồi.
Hả?!
Bản tính tò mò trong tôi trỗi dậy, tôi liền chèo kéo đòi Vương đại nương dẫn đi xem bằng được. Vương đại nương bối rối bảo:
- Chuyện này... Khách đang uống rượu trong phòng... không thể phá luật được...