Đông Cung - Chương 08 - Phần 01

PHẦN III

ĐỔI THAY

Chương 8

Tôi không biết bơi, gã thích khách kia vừa quăng một cú tận lực khiến tôi chìm nghỉm. Bốn phía nước lạnh bủa vây, trên đỉnh đầu phủ một màu xanh lam buốt giá và đốm sáng trắng mờ mờ... Nước ùa vào miệng, nhớ lại lần nhảy xuống sông cứu người, lúc đó may nhờ A Độ vớt lên, rồi kiện tụng này nọ ở huyện Vạn Niên, Bùi Chiếu bữa ấy mặc bộ võ phục gọn gàng, trông vậy mà gần gũi, đáng yêu.

Thật bất ngờ, lúc này tôi lại nhớ tới Bùi Chiếu, nhưng ngay lập tức mọi suy nghĩ đã hướng về Lý Thừa Ngân. Không ngờ không chỉ tôi thích hắn mà hắn cũng thích tôi, song tôi và Lý Thừa Ngân không có duyên với nhau... Nếu tình cảm hắn dành cho tôi không sâu đậm, hẳn sẽ không bẻ tên thề trước mặt đông đảo quan quân đâu nhỉ? Suy cho cùng, chỉ bởi chúng tôi không có duyên phận, may sao vẫn còn Triệu Lương đệ, trước kia tôi chưa từng vui mừng như thế này, vẫn còn có Triệu Lương đệ cơ mà. Nếu tôi phải từ giã cõi đời này, Lý Thừa Ngân sẽ không mất nhiều thời gian đau buồn đâu, dần dần tôi sẽ đi vào quên lãng, để hắn được sống tốt hơn…

Nước không ngừng xộc vào mũi, vào miệng, tôi bị sặc nước, cảm thấy mình đang nghẹt thở... Đốm sáng trên đỉnh đầu mỗi lúc một xa vời, cơ thể cứ thế lắng xuống tận đáy nước sâu. Mọi thứ dần tối sầm lại trước mắt, thoảng bên tai tựa có làn gió dịu êm, người đó ôm tôi rơi xuống vực sâu... Chàng cứu tôi, trong làn gió đêm xoáy xiết, tôi nép mình trong vòng tay chàng... Theo gió vần xoay... Xoay mãi... Sao điểm đầy trời tưởng giọt mưa sa. Giữa đất trời bao la, trong đôi mắt chàng tôi là tất cả...

Đôi mắt ấy chỉ chứa đọng riêng mình tôi…

Và rồi say, tôi sắp say đến lịm người, vùi sâu trong lồng ngực chàng, chính là chàng... Tôi biết chàng yêu tôi tha thiết và tình tôi trao cho chàng cũng đủ đắm say, chỉ cần có chàng ở bên để lòng tôi được bình yên trở lại.

Cảnh tượng ấy nhiều lần trở về tìm tôi trong những giấc mơ, tôi nào có từng nghĩ, lúc mình chết đuối...

Chẳng hề có ai đến cứu…

Người anh hùng trong cõi mơ ấy không thể đến cứu tôi ngay lúc này...

Và Lý Thừa Ngân, hắn cũng không thể tới cứu tôi…

Thân thể lúc lắc, đong đưa tựa quả cân, cứ chìm dần... chìm dần...

Chẳng biết đã bao lâu, có khi nhiều năm dài đằng đẵng đã qua, hoặc có khi chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi, sức ép nơi lồng ngực buộc tôi phải mấp mé mở miệng, nôn ra một vũng nước.

Rốt cuộc mình đã uống bao nhiêu nước rồi… Ho khạc mãi đến khi kiệt sức mới thôi...

Nước trong bụng đã vơi đi phần nào, lúc ấy tôi mới mê man nằm đờ ở đó, nắng chói chang không sao mở mắt được. Tôi cố chếch đầu, thấy kề bên má là một đụn cỏ khô, lại gượng chuyển bên, thấy sát bên mặt có một đống đất đá.

Vạt áo gã thích khách lấp ló cách đó không xa, à, hóa ra tôi vừa chết đuối hụt, vậy là tôi vẫn chưa chết. Có lẽ chính gã, chính gã muốn tôi sống lay lắt.

Người mệt mỏi rã rời, toan mở lời thì lại nôn ra toàn nước. Tôi cất giọng yếu ớt:

- Muốn giết muốn chém...

Thay vì đáp lời, gã lấy bao kiếm gẩy đầu tôi, tôi nghiêng đầu sang một bên, tiếp tục nôn ra nước... Nôn rồi lại nôn... Nước trào ra như một dòng suối nhỏ…

Mắt nhắm nghiền, tôi mê mệt thiếp đi.

Tôi mơ thấy Đông cung, tôi và Lý Thừa Ngân lại đang hằm hè. Hắn bênh Triệu Lương đệ của hắn chằm chằm, còn tôi sỉ vả hắn như tát nước. Hắn nói:

- Nàng tưởng ta cần nàng cứu Phụ hoàng đấy à? Đừng tưởng ta sẽ biết ơn nàng!

Tôi tức sôi máu, mắng lại ngay. Tôi không cần hắn biết ơn, ừ thì một kiếm đền nhau, lần trước hắn cứu tôi thoát khỏi thích khách, lần này tôi trả hắn là xong. Ngoài miệng mắng là vậy, song trong lòng tôi ức lắm, mới thế đã rơm rớm nước mắt. Tôi khóc nhưng không muốn hắn biết, đành gục mặt bên lồng hương, cái lồng hương nóng giãy, tôi chỉ nhoài người một lát mà xương cốt, da dẻ đã bỏng rát đến khó chịu.

Tôi cố nhấc mí mắt, có lẽ mắt đang sưng. Tuy da mặt nóng ran nhưng người ngợm lạnh ngắt, cóng từng cơn, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Phải chăng tuyết đang rơi? Tôi hỏi A Độ. A Độ dắt con ngựa nhỏ màu đỏ của tôi tới. Cha đi vắng, chúng tôi liền tranh thủ cưỡi ngựa rong chơi. Vó ngựa đạp trên nền tuyết mới thú vị làm sao, chóp mũi tôi đỏ ửng vì rét. Tuyết buông mình phủ trắng cồn cát, nom mấy cọng cỏ hệt như chòm râu xoăn tít điểm màu hoa râm của cha... Cha mà biết tôi cãi lời, chạy lên đồi tuyết chơi, thể nào cũng mắng cho xem...

Lý Thừa Ngân chưa được thấy con ngựa nhỏ của tôi, hắn không biết nó chạy khỏe thế nào... Chẳng hiểu sao cái tên Lý Thừa Ngân cứ lởn vởn mãi trong tâm trí, mà hắn đối với tôi nào có ra gì... Tôi bỗng thấy chua chát, thực ra cũng không hẳn là tệ bạc, chỉ bởi tôi mơ mộng hão huyền, muốn mình là người duy nhất hắn để ý… song bên hắn mãi mãi có một Triệu Lương đệ… Lý Thừa Ngân bẻ đôi mũi tên kia, lần cuối cùng hắn thốt tên tôi:

- Tiểu Phong...

Nếu tôi tận đường sống sót, khó bề trở về, có thể hắn sẽ buồn một lúc... song không rõ nỗi buồn sẽ ở lại bên hắn được bao lâu…

Tôi gắng gượng mở hé mắt, thấy mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ thay vì lùm cỏ ven sông. Ánh trăng len lỏi rọi vào phòng, đổ màu lấp lánh, chắc đã bước sang tết Nguyên tiêu... Hoa đăng mười dặm, lầu cao chín tầng, pháo rộ tám phương, Thất Tinh bảo tháp, sáu phường rộn rã, ngũ tự rền vang, bốn cổng mở toang, Tam Doãn hân hoan, đôi lứa sánh vai, một đời yên ổn… Cái tết Nguyên tiêu này ắt phải tưng bừng, nhộn nhịp lắm… Vậy mà giờ đây, sự rộn rã ấy chẳng liên quan gì đến tôi… Tôi khấp khởi mong chờ tết Nguyên tiêu để được ngắm hoa đăng cả năm ròng, rốt cuộc vui vẻ chẳng thấy đâu… Toàn thân buốt lạnh khiến tôi rùng mình, bấy giờ mới nhận ra tôi đang quấn một tấm áo lông, chất vải bình thường nhưng sợi mềm mượt, dày dặn, cũng đủ ấm. Lúc bấy giờ mới rõ mình đang lên cơn sốt, bên ngoài áo lông còn phủ một lớp chăn bông, nhưng người tôi vẫn run rẩy.

Ánh mắt quen dần với bóng tối, trong căn phòng chất đầy hòm xiểng, có khi đây là một gian nhà kho. Gã thích khách ngồi cách tôi không xa, thấy tôi tỉnh giấc, gã lẳng lặng đặt một chiếc bát xuống cạnh tay tôi. Tôi chạm vào miệng bát nóng ran.

- Canh gừng.

Gã vẫn nói bằng chất giọng méo mó. Người tôi bải hoải, giọng lí nhí như muỗi kêu:

- Ta...

Tôi không cầm nổi chiếc bát.

Đợt ốm kinh hoàng trước đây từng hành tôi một phen thập tử nhất sinh, giờ tôi lại ốm. Bình thường khỏe mạnh thì không sao, hễ bệnh là người tôi lại dặt dẹo. Tôi gượng dậy mấy lần, tay bủn rủn không sao nhấc nổi bát canh gừng.

Tôi không mong ngóng gì, cũng không muốn nghĩ tại sao hắn lại nấu cho mình bát canh gừng, cũng không tự hỏi mình đang ở đâu. Tuy trong phòng chứa rất nhiều đồ đạc nhưng kín gió và ấm hơn chỗ bờ sông thông thống gió lùa. Tóm lại, nằm ở đây vẫn tốt hơn nằm ở ven sông.

Gã thích khách bước tới gần, cầm bát canh rồi nâng tôi dậy. Cổ họng đau buốt, song tôi chẳng còn sức mà nghĩ ngợi, tôi ôm bát canh uống ừng ực mấy ngụm. Nước gừng cay rất khó uống, nhưng uống xong, máu huyết trong người tôi bắt đầu lưu thông trở lại. Đang uống tôi bỗng ho sặc sụa, ho tới khi mặt đỏ tía tai, cánh tay bê bát canh gừng run rẩy, cầm không nổi. Thấy thế, tên thích khách liền giơ tay đỡ chiếc bát, tay kia vỗ về lưng tôi, nhịp thở của tôi dần bình thường trở lại. Nhanh như cắt, tôi giật chiếc khăn bịt mặt của gã.

Đáng lẽ với thân thủ của gã, muốn tránh ắt tránh được ngay, khi gã né người tất phải buông tay, một khi gã buông tay, gáy tôi sẽ đập xuống chiếc hòm. Tôi đinh ninh gã sẽ né người, để tôi chớp thời cơ đập vỡ chiếc bát sứ rồi giấu đi một mảnh, phòng khi bất trắc. Ngờ đâu gã vẫn trơ như phỗng, và điều bất ngờ nhất là gương mặt hiện ra sau khi gỡ bỏ tấm khăn.

Tôi sững sờ nhìn gã. Ánh trăng sáng tỏ ngoài song cửa sổ đủ để tôi nhìn rõ hắn.

Cố Kiếm!

Sao có thể là gã?

Hình như máu trong người tôi đang dồn lên đỉnh đầu, tôi hỏi:

- Sao lại thế này?

Gã không trả lời mà từ từ đặt bát xuống.

Tôi gặng hỏi lần nữa:

- Sao lại thế?

Sao lại là gã? Sao gã phải uy hiếp Bệ hạ? Sao gã có thể giết người không ghê tay như vậy? Sao gã phải bắt cóc tôi? Vì sao? Tất cả là vì sao?

Tôi thật ngu ngốc, trong thiên hạ có được mấy người võ công cao siêu bằng gã? Sao tôi không nhớ ra trong thiên hạ chẳng có mấy người thân thủ xuất quỷ nhập thần như gã thích khách này?

Thế mà tôi còn khờ khạo bắn tên, ngóng chờ Cố Kiếm đến cứu mình nữa đấy.

A Độ sống chết thế nào chưa rõ, tôi chỉ còn Cố Kiếm là tia hy vọng cuối cùng, tôi cứ mong gã sẽ đến cứu mình.

Tại sao?

Gã dửng dưng nói:

- Chẳng sao cả.

- Huynh đã giết những người đó. - Tôi không nén được cơn giận. - Rốt cuộc huynh muốn làm gì? Sao phải tấn công Bệ hạ?

Cố Kiếm đứng dậy, ánh trăng len qua cửa sổ vương vãi rơi trên bờ vai gã, giọng gã đều đều:

- Thích thì giết. Nếu muội cảm thấy bất bình, ta cũng chẳng còn gì để giải thích.

- Huynh làm gì A Độ rồi? - Tôi siết chặt tay áo gã. - Nếu huynh dám làm hại A Độ, tôi sẽ giết huynh, báo thù cho A Độ.

Cố Kiếm nói:

- Ta không giết A Độ, tin hay không, tùy muội.

Tôi thở phào, dịu giọng, nói:

- Vậy huynh thả tôi về đi, tôi đảm bảo sẽ không kể với ai đâu, tôi sẽ bảo mình tự trốn thoát.

Gã bỗng phá lên cười:

- Sao phải thế hả Tiểu Phong?

Tôi lấy làm lạ, hỏi:

- Sao phải thế cái gì?

- Sao muội phải tử tế với Lý Thừa Ngân đến vậy? Rốt cuộc hắn có chỗ nào tốt đẹp? Hắn... xưa nay chỉ lợi dụng muội. Chưa kể giờ đây hắn cưới hết ả đàn bà này đến ả đàn bà nọ, muội thường xuyên bị bọn đàn bà ấy bắt nạt, đến hắn cũng ức hiếp muội. Tương lai hắn đăng cơ hoàng đế, ắt sẽ nạp thêm thê thiếp, sẽ có nhiều kẻ hùa vào bắt nạt muội. Sao muội phải tử tế với hắn? Lẽ nào vì Tây Lương mà muội đặng lòng hy sinh hạnh phúc của bản thân, để cả đời quẩn quanh trong chốn thâm cung cô quạnh sao?

Tôi ngẩn người, nói:

- Tây Lương là Tây Lương, dẫu sao tôi đã lấy hắn rồi, vả lại hắn đối với tôi cũng không đến nỗi nào...

- Hắn mà không đến nỗi nào? Xưa nay hắn chỉ lợi dụng muội. Muội biết hắn đang tính toán gì không? Muội biết trong đầu hắn đang nghĩ gì không? Tiểu Phong à, muội đấu không nổi, muội không thắng nổi lũ đàn bà kia đâu, chứ đừng nói đến việc so trí cùng Lý Thừa Ngân. Giờ đây, bọn họ xem như còn dè chừng Tây Lương, nhưng tương lai sau này, một khi Tây Lương không còn giá trị lợi dụng với Trung Nguyên nữa, muội sẽ chẳng là gì cả.

Tôi thở dài, nói:

- Tôi không nghĩ nhiều vậy đâu, nói gì thì nói, Lý Thừa Ngân vẫn là phu quân của tôi, tôi không thể phản bội phu quân của mình được.

Cố Kiếm cười khẩy:

- Nếu Lý Thừa Ngân phản bội muội thì sao?

Tôi rùng mình nói:

- Không thể nào!

Lần đầu tiên đụng độ với thích khách, hắn đẩy tôi, lần thứ hai ở phường Minh Ngọc, hắn ngăn tôi… Lần nào cũng vậy, Lý Thừa Ngân luôn gánh hết nguy hiểm về mình, hắn sẽ không bao giờ lừa tôi.

Cố Kiếm cười gằn, nói:

- Trước toàn thể thiên hạ, nàng nghĩ mình là ai…? Một kẻ sắp lên ngôi hoàng đế, tránh sao được máu lạnh và nhẫn tâm. Chẳng nói đâu xa, ta bắt muội đến đây, muội mong Lý Thừa Ngân sẽ đến cứu muội ư? Muội tưởng hắn đang sốt sắng đi tìm muội ư? Hôm nay là tết Nguyên tiêu, toàn thành cấm ngựa cho bách tính thưởng đèn. Việc triều chính đang rối ren mà vẫn mở rộng cổng thành, không cấm người ra vào Thượng Kinh, làm ra vẻ thái bình, yên vui. Muội chẳng là gì đâu! Muội không đáng để cha con họ phải bỏ ăn Tết... Bọn họ vẫn lên Thừa Thiên Môn chia vui cùng dân chúng, chẳng thèm bận tâm muội sống chết thế nào. Giả sử ta là thích khách thật, ta sẽ giết muội rồi lẩn ra khỏi thành nhân lúc trời tối, sau đó cao chạy xa bay… Mười ngày sau, Thần vũ quân tìm ra chỗ này và thấy xác muội, cùng lắm Lý Thừa Ngân sẽ nhỏ vài giọt nước mắt, sau đó hắn sẽ lập Triệu Lương đệ lên làm Thái tử phi, chẳng ai nhớ tới muội, muội vẫn mong hắn sẽ nhớ mình ư?

Tôi cúi gằm mặt, lặng im.

Cố Kiếm kéo tay tôi:

- Đi thôi, hãy đi với ta, Tiểu Phong. Chúng ta cùng nhau bỏ trốn, rời xa nơi đầy rẫy mưu mô này, chúng ta đến quan ngoại, cùng nhau chăn ngựa, nuôi dê...

Tôi vùng khỏi tay gã, nói:

- Mặc kệ Lý Thừa Ngân đối với tôi thế nào, đây là con đường tôi tự chọn lựa, cũng là con đường cha tôi đã chọn cho Tây Lương, tôi không thể bỏ của chạy lấy người được, càng không thể bỏ Tây Lương...

Tôi nhìn gã.

- Huynh hãy thả tôi ra!

Cố Kiếm lặng thinh nhìn tôi, hồi lâu sau mới trả lời dứt khoát:

- Không được!

Tôi cảm thấy hết sức mệt mỏi, chán chường. Tôi đang sốt cao, cổ họng nóng ran như có lửa đốt. Nãy giờ nói nhiều nên mệt, mình mẩy rệu rã, thậm chí chỉ hít thở thôi cũng thấy nóng bừng. Tôi xoa xoa cổ họng, lui dần về phía chiếc hòm, buông người tựa vào đó.

Hắn chực nói gì đó rồi lại thôi, thấy tôi thế này, dường như hắn có vẻ không nỡ, giọng nói cũng gắng nén xuống, chỉ hỏi:

- Muội muốn ăn gì không?

Tôi lắc đầu.

Hắn lại nói:

- Vịt nướng ở Vấn Nguyệt lâu thì sao, để ta đi mua cho muội nhé?

Tôi toan lắc đầu, nghĩ thế nào lại gật liên hồi.

Hắn đắp lại chăn cho tôi rồi nói:

- Muội hãy chợp mắt một lát đi!

Tôi nhắm mắt lại, mau chóng chìm sâu vào giấc ngủ.

Khoảng một tuần hương sau, tôi mới mở mắt.

Trong phòng vẫn tăm tối, tĩnh mịch, ánh trăng loang loáng lách mình qua chấn song, ngả màu nhạt nhòa xuống sàn nhà. Tôi ngồi dậy ngắm trăng, ánh trăng sáng như dát bạc, hôm nay ngày rằm tháng Giêng, là tết Nguyên tiêu, trăng lên đẹp lắm thay, trên phố chắc nhộn nhịp lắm.

Tôi quấn chặt áo lông, lần mò ra mở cửa, nhưng cửa đã khóa ngoài, đẩy mãi không được. Tôi nhìn bốn phía, nơi này đúng là nhà kho, cửa thông hơi trổ tít trên cao. Ô cửa cao vời vợi, tôi không thể với tới.

Song tôi cũng chẳng thiếu cách, tôi đẩy một chiếc hòm qua bên đó, chồng thêm một chiếc hòm khác, xếp thành hình bậc thang. Không biết đống hòm xiểng ấy chứa gì, may không nặng lắm, nhưng vì mình mẩy đang run rẩy, tay không còn chút sức lực, chồng được mấy chiếc hòm chạm tới cửa sổ, tôi mệt lả người, mồ hôi nhễ nhại.

Tôi bò lên đống hòm xiểng. Chấn song cửa làm bằng gỗ chạm trổ, loay hoay vặn bẻ một lúc mà nó không nhúc nhích. Tôi đành trèo xuống, lục tìm thứ gì đó, tôi mở từng hòm một, thì ra bên trong đựng tơ lụa các loại. Chẳng hiểu nhà nào lắm tiền dám để những hòm tơ lụa đẹp đẽ nhường này trong nhà kho, song đây cũng có thể là nhà kho của ấp tơ lụa. Tôi không còn sức mà nghĩ nhiều thế, ngán ngẩm đóng nắp hòm lại, cuối cùng nhìn thấy chiếc bát sứ vừa đựng canh gừng.

Tôi đập vỡ chiếc bát, chọn mảnh sắc nhất, rồi lại trèo lên đống hòm với ý định cưa song cửa sổ.

Thanh gỗ rất mảnh nhưng cưa mãi không được. Tôi hì hục cưa... thậm chí đầu ngón tay bị cứa, ứa máu.

Đang cưa, tôi bỗng thấy chán chường, chắc bởi Cố Kiếm sắp quay về rồi, mà tôi vẫn chưa thoát được. Đành rằng chưa chắc gã đã giết tôi, song biết đâu gã sẽ cầm tù tôi cả đời, hoặc khiến tôi không bao giờ gặp lại A Độ và Lý Thừa Ngân nữa...

Sau một hồi tuyệt vọng, tôi lấy lại tinh thần, tiếp tục cưa song cửa sổ.

Chẳng biết đã qua bao lâu, tiếng “rắc” cũng chịu vang lên, tôi đã cưa đứt một chấn song cửa. Tôi mừng quýnh, tiếp tục cưa thanh khác, giải quyết xong hai thanh cửa, tôi gồng mình tách rời chúng.

Tôi sướng rơn, song chỗ này hơi cao, nhảy xuống chỉ e ngã gãy chân. Tôi rút một xấp lụa, đè chặt một đầu dưới đáy hòm, đầu kia vắt qua cửa sổ. Bám vào dải lụa, tôi trèo ra ngoài, từ từ bò xuống.

Tay tôi không còn chút sức lực, trong khi dải lụa trơn tuồn tuột, phải vấn chặt cổ tay vào dải lụa, khiến trọng lượng cả cơ thể treo trên cổ tay, dải lụa thít lại đau đớn, nhưng tôi chẳng màng. Chỉ sợ khẽ lỏng tay thì sẽ ngã nên tôi phải cẩn thận nhả từng đoạn một, trườn xuống từ từ. Cho tới khi mũi chân chạm đất, người tôi bủn rủn, ngã lăn ra đất.

May mà ngã không đau lắm, tôi liền lồm cồm bò dậy. Vừa đứng thẳng lưng, tôi chợt thấy một bóng người đứng cách đó không xa.

Cố Kiếm!

Gã cầm gói thức ăn trên tay, lẳng lặng nhìn tôi.

Tôi bèn nhếch miệng cười với gã, rồi quay đầu chạy biến.

Chạy chưa quá ba bước, Cố Kiếm đã chộp được tôi. Một tay gã kẹp chặt cổ tay tôi, tay kia vẫn cầm gói thức ăn.

Tôi nói:

- Huynh thả tôi ra ngay, huynh nhốt tôi ở đây thì có ích gì? Tôi sẽ không bao giờ nghe theo huynh.

Cố Kiếm bật tiếng cười gằn, đoạn bảo:

- Thả muội cũng được thôi, song muội phải theo ta đến chỗ này trước đã, chỉ cần đến đó mà muội vẫn không đổi ý, ta sẽ thả muội ngay lập tức.

Thoạt nghe tôi có cảm giác ngờ ngợ, bèn cảnh giác hỏi:

- Nơi nào?

- Muội đi khắc biết.

Tôi lưỡng lự nhìn gã, gã nói:

- Nếu sợ thì thôi, đằng nào ta cũng không muốn thả muội, muội không đi càng tốt.

Sao phải sợ chứ? Tôi hắng giọng, nói:

- Huynh hứa đấy nhé?

Cố Kiếm bật cười:

- Muội làm được thì ta cũng làm được.

- Vậy còn đợi gì nữa, mau đi thôi! - Tôi nói.

Cố Kiếm im lặng một lúc rồi nói:

- Muội không hối hận đấy chứ?

- Sao tôi phải hối hận? - Tôi sực nghĩ. - Có khi người hối hận là huynh đấy.

Cố Kiếm cười, nói:

- Không bao giờ ta hối hận.

Gã đặt gói thức ăn xuống rồi mở ra, quả nhiên là thịt vịt nướng. Gã nói:

- Muội ăn xong rồi chúng ta lên đường.

Tôi vốn chẳng còn bụng dạ nào mà ăn uống, nhưng trông mặt gã, tôi nhủ thầm, mình mà bướng không chịu ăn, chắc chắn không đi đâu được, thôi đành nhấc đũa ăn cho xong món vịt nướng kia vậy. Nói thực, lúc ấy cổ họng tôi khô rát, miệng đắng ngắt, đến đầu lưỡi cũng cứng đờ, trệu trạo nhai miếng thịt vịt mà chẳng thấy mùi vị gì. Tuy thế, tôi vẫn ăn quáng quàng cho xong, vừa buông đũa liền nói:

- Đi thôi.

Cố Kiếm nhìn tôi, hỏi:

- Ngon không?

Tôi gật đầu lấy lệ. Gã không nói gì thêm, chỉ ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng treo lơ lửng trên bầu trời rồi giúp tôi kéo cao chiếc áo lông che kín nửa khuôn mặt, nói:

- Đi thôi!

Khinh công của Cố Kiếm nhanh như gió, chỉ thấy cây cối trước mắt trôi tuột về đằng sau, rồi sau vài cái nhảy qua nóc nhà, chúng tôi đứng dưới một bờ tường cao chót vót.

Trông thấy bức tường ấy, tôi thấy có vẻ quen quen.

Cố Kiếm kéo tôi vọt lên tường, đứng cạnh gã. Trên đó, mắt tôi láo liên ngó quanh quất trước sau, nhìn đến đờ cả người.

Phía sau bức tường, mái ngói lưu ly trải dài ngút tầm mắt, đấu củng mái cong sừng sững, hùng vĩ, mấy tòa điện chính giữa quen thuộc với tôi hơn bao giờ hết. Lần nào trèo tường, hình ảnh ấy cũng đập vào mắt tôi trước tiên. Tôi líu lưỡi, Đông cung ư? Đây là Đông cung mà! Chúng tôi đang đứng trên tường bao của Đông cung.

Cố Kiếm thấy tôi lặng người, liền buông một câu nhạt nhẽo:

- Đúng vậy, nơi chúng ta trú ngụ mấy ngày nay chính là nhà kho của Đông cung.

Tôi cắn chặt răng không thốt nên lời, thế có đáng hận không chứ! Đáng lẽ lúc trèo qua cửa sổ, tôi phải hô hoán lên, phải kéo hết thảy Vũ lâm quân trong Đông cung đến, thế có phải tôi đã được cứu rồi không? Cố Kiếm tài mấy cũng không thể cướp tôi khỏi vòng vây của hàng nghìn thị vệ Vũ lâm quân... Thật đáng tiếc!

Nhưng có hối hận thêm nữa cũng vô ích. Cố Kiếm kéo tôi nhảy khỏi bờ tường cao. Chúng tôi chạy trên nóc nhà dân, mấy lần rẽ trái rồi rẽ phải, phi từ mái ngói xuống sân vườn của một hộ dân nào đó, băng qua sân, mở một cánh cổng nhỏ, và thế là quang cảnh phồn hoa đã hiện ra ngay trước mắt.

Hằng năm cứ vào dịp này, ánh đèn rực rỡ nơi nơi, người người chen vai xuống phố, tiếng nói cười rộn rã... Dường như thế gian này có bao nhiêu người thì từng ấy người đổ cả xuống đường. Dường như thế gian này có bao nhiêu đèn thì chừng ấy đèn đã giăng sáng phố phường Thượng Kinh. Trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng trên trời, bầu trời tối đen như nghiên mực, trăng sáng tựa gương, vừa trong veo vừa thấp, nhìn ông trăng kia lại tưởng chiếc bánh nếp dập dềnh trong bát canh, trắng trẻo, nõn nà,cắn một miếng là cảm nhận mạch nha tứa ra trong miệng. Ánh trăng sà xuống lớp sương mỏng trên mái ngói, càng soi tỏ càng sáng sắc trời, trông vậy song chẳng hề lạnh. Trong không khí thoang thoảng mùi thuốc pháo, cũng thoảng đưa một mùi phấn son ngan ngát, thêm làn gió nhẹ phảng phất mùi đồ ăn ngọt lịm... Chúng hòa quyện vào nhau, tạo thành hương vị đặc trưng của ngày rằm tháng Giêng. Đèn lồng khoe sắc chạy dọc hai bên đường, đèn chăng đầy cành cây, lều trúc người ta dựng trên phố cũng kín đèn màu. Đâu đó có người múa đèn rồng, múa kỳ lân, múa thuyền đèn…

Tôi và Cố Kiếm hòa vào biển người, biển đèn dày đặc, đi đâu cũng thấy người và đèn. Lách qua dòng người xô bồ, đèn nối đèn trải dài trước mắt, đèn ở hai bên, đèn chạm ngang mày... thi nhau tỏa sáng, nào vàng, nào hồng, nào lam, nào lục, nào tím, nào đỏ… nhìn mãi cũng chóng mặt. Nhất là những chiếc đèn kéo quân thêu hình nhân vật cứ quay mòng mòng, rồi thì đèn lưu ly của Ba Tư sáng chói mắt, rồi thì đèn chùm, nhiều chùm đèn chụm lại thành hình bức tranh thư pháp thật lớn, bên cạnh đó còn có đèn đố chữ, đoán trúng ắt có thưởng, nhưng vĩ đại nhất phải kể đến đèn chín khúc, con sông Hoàng Hà uốn mình chín khúc được mô tả bằng đèn, sa chân vào mê trận ấy chắc chắn sẽ bị lạc, rẽ trái không ra, rẽ phải cũng không ra... Nghe nói đèn chín khúc được bày trí theo binh pháp thời cổ, rẽ trái quẹo phải chỉ thấy đèn là đèn, những người bước vào chẳng ai lấy làm sốt ruột, họ cười nói râm ran, quanh quẩn, mò mẫm tìm lối ra...

Nếu là trước đây, tôi quả thực không biết mình sẽ mừng vui cỡ nào khi được chứng kiến cảnh phồn hoa đô hội này, song hôm nay tôi lại cúi gằm mặt, mặc cho Cố Kiếm nắm tay dẫn đi. Chúng tôi lầm lũi cất bước dưới dàn đèn treo lơ lửng trên cao. Phía đầu đường dậy vang tiếng reo hò huyên náo, nhiều người tụm lại xem múa đèn rồng, người ta đứng chen nhau không chừa lấy một kẽ hở, Cố Kiếm đành dừng bước. Thỉnh thoảng, một luồng lửa ánh bạc phụt ra từ miệng rồng, những người đứng quanh đó tấm tắc xuýt xoa. Bất ngờ, nó nhô đầu về phía tôi, đột ngột phun ra một luồng lửa, khiến ai nấy đều giật thót mình lùi lại phía sau. Ngọn lửa bừng bừng ngay trước mặt, tôi hoảng quá không kịp nhắm mắt, lại vướng dòng người xô lấn suýt ngã ngửa, may là sau lưng có Cố Kiếm giơ tay đỡ kịp thời. Tôi hé mắt nhìn, thấy mình ngả vào lòng gã, mặt giấu sau ống tay áo.

Tôi chẳng nói chẳng rằng, chuồi người ra khỏi vòng tay đang quàng lấy mình, may sao gã không gò ép, chỉ chăm chăm nắm cánh tay tôi, nhích dần về phía trước.