Đông Cung - Chương 09 - Phần 01

Chương 9

Trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như bức màn sương mù vừa được vén lên, khoe cảnh hư ảo, huyền hoặc. Và bỗng nhiên, tôi thấy chính mình.

Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm mặt trời đang lặng lẽ khuất bóng, thấy trái tim mình từ từ rũ héo, chờ ánh tà dương le lói rồi chợt tắt sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng đã biến mất.

Tôi tuyệt vọng quẳng miếng ngọc bội xuống cát, lao lên ngựa, bỏ đi không ngoảnh lại dù chỉ một lần.

Gã sư phụ tồi! Gã sư phụ đáng ghét! Thế mà cứ huyên thuyên rằng sẽ làm mối cho tôi, sẽ tìm cho tôi người đàn ông đẹp trai nhất trần đời! Gã lừa tôi ra đây, làm tôi mất công đợi ba ngày ba đêm!

Mấy ngày trước, Hoàng đế Trung Nguyên phái sứ thần sang cầu thân với cha tôi, tỏ ý rằng, Thái tử Trung Nguyên nay đã mười bảy, mong được lấy Công chúa Tây Lương làm chính thất, cốt để thắt chặt mối bang giao tốt đẹp đời đời giữa hai nước. Trung Nguyên từng gả cho Tây Lương một cô công chúa, bây giờ tới lượt chúng tôi phải đưa công chúa sang Trung Nguyên.

Nhị tỷ và tam tỷ xem chừng muốn đi lắm, nghe nói cuộc sống ở Trung Nguyên rất đầy đủ, được ăn ngon, mặc đẹp, nước non dồi dào, không phải di cư dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, tránh được nỗi khổ gió cát sa mạc... Mà theo lời sứ thần nói thì tương lai, thái tử phi sẽ được tấn phong làm hoàng hậu Trung Nguyên, thân phận không thể là con thứ thiếp, cho nên họ muốn chọn một công chúa là con ruột của đại yên thị[61] và cha tôi. Tôi không hiểu đây là quy ước gì nữa, nhưng vì đại yên thị không ai khác chính là mẹ tôi, trong khi bà chỉ có mình tôi là con gái, xem ra số tôi phải đến Trung Nguyên làm dâu rồi. Nhị tỷ và tam tỷ thì ao ước được tới làm dâu đất Trung Nguyên, song tôi chẳng thích thú gì. Trung Nguyên thì có gì hay? Đàn ông Trung Nguyên, tôi nhìn chán rồi, mấy gã thương nhân buôn tơ lụa đến từ Trung Nguyên, gã nào gã nấy đều trói gà không chặt, đừng nói đến bắn cung, ngay cả cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Người ta nói Thái tử Trung Nguyên từ nhỏ đã ở lì trong thâm cung, ngoài vẽ tranh, ngâm thơ, hắn chẳng biết gì khác.

[61] Danh xưng dành cho hoàng hậu của vua Hung Nô.

Lấy một gã chồng đến cung cũng không giương nổi, nghĩ thôi tôi đã thấy tức. Tôi mè nheo mất mấy ngày, cha tôi liền dỗ dành:

- Con đã không đồng ý lấy Thái tử Trung Nguyên thì thôi vậy, để ta lựa lời nói với họ. Nếu con có ý trung nhân rồi, vậy để ta tổ chức lễ đính hôn cho các con, sau đó ta sẽ giải thích với người Trung Nguyên, khuyên họ chọn công chúa khác, làm vậy họ có muốn bắt bí chúng ta cũng không được.

Bấy giờ tôi vẫn chưa tròn mười lăm tuổi, đám con trai trong tộc chỉ coi tôi như em gái, đi săn không thèm rủ, hát hò cũng không thèm gọi... Tôi biết đi đâu tìm ý trung nhân chứ?

Buồn chết mất thôi!

Sư phụ biết chuyện liền vỗ ngực khẳng định sẽ tìm cho tôi một gã đẹp trai nhất trần đời. Sư phụ bảo Trung Nguyên gọi đây là “dạm mặt”, đôi bên nam nữ gặp riêng một lần, nếu tâm đầu ý hợp, cha mẹ sẽ đứng ra quyết định rồi nhờ người mai mối. Gặp nhau có một lần thì làm sao biết người ta thế nào, song giờ tình hình cấp bách, chỉ cần không phải lấy Thái tử Trung Nguyên, tôi liền đồng ý đi dạm mặt.

Sư phụ nói địa điểm dạm mặt ở trên đồi cát cao nhất cách thành ba dặm. Sư phụ đưa tôi một mảnh ngọc bội, dặn rằng mảnh còn lại do người kia cầm, rồi còn bảo tôi nhớ để ý cẩn thận, phải nhìn cho kĩ, xem có vừa ý không.

Biết ngay sư phụ lại giỡn tôi mà, ngày nào người cũng lôi tôi ra làm thú tiêu khiển. Lần trước sư phụ bảo, sau núi Yên Chi có con sông Quên, hại tôi chất lương khô, rong ngựa chẵn mười ngày mười đêm. Rốt cuộc xới tung cả núi Yên Chi, chỉ tìm thấy một đồng cỏ mênh mông sau lưng núi, đến đầm nước cũng không có, nói gì tới sông Quên.

Cả đi lẫn về mất hai mươi ngày, tôi đi một vòng dưới chân núi suýt nữa thì lạc, may gặp một người chăn dê, loay hoay mãi mới tìm được đường về thành. Mẹ tưởng tôi đi lạc không trở về nữa nên ngã bệnh. Mẹ ôm tôi khóc rấm rức, cha nổi giận lôi đình, nhốt tôi trong Vương thành suốt mấy ngày trời, cấm được bước chân ra khỏi cửa. Sau đó tôi chất vấn sư phụ hòng xả cơn giận, thế mà người còn bảo:

- Ta mới nói thế mà muội đã tin rồi à? Muội phải biết rằng, trên đời này thể nào cũng có kẻ muốn lừa muội, muội không thể tin những gì họ nói. Ta đang dạy muội, chớ nhẹ dạ cả tin, bằng không sau này sẽ thiệt thân.

Tôi nhìn đôi mắt sáng long lanh của sư phụ, vô cùng tức tối.

Sao tôi chẳng rút ra được bài học nào thế nhỉ? Tôi bị sư phụ lừa không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào cũng tin một cách khờ khạo.

Mà có lẽ, cả đời tôi chẳng thể nào thông minh, mưu trí được như sư phụ.

Tôi bực bội rong ngựa về, chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ dọc đường, suốt quãng đường về tôi ngẫm nghĩ, hay cứ nói với cha rằng tôi thích sư phụ, rồi xin phép người cho tôi và sư phụ được đính hôn nhỉ? Đằng nào sư phụ cũng hại tôi nhiều lần lắm rồi, lần này tôi sẽ cho sư phụ biết tay, chắc không có gì quá quắt đâu.

Tôi sung sướng nghĩ ý kiến này quả là tuyệt vời, rồi lòng tôi phấn chấn hẳn lên, vừa thúc ngựa phi về phía Vương thành vừa ngân nga hát:

“Có con cáo nhỏ cô đơn,

Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,

Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.

Có con cáo nhỏ bơ vơ,

Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”

Tôi đang cao hứng, bỗng phía sau có người gọi:

- Cô bé, đồ của muội rơi này!

Tôi ngoái đầu, thấy một kẻ đang ngồi trên con ngựa trắng.

Sư phụ nói, những kẻ cưỡi ngựa trắng chưa chắc đã là hoàng tử, mà có khi là Đường Tăng từ Đông thổ Đại Đường đến Tây Thiên thỉnh kinh. Song gã trai này vận áo dài màu trắng chứ không phải áo cà sa, phải công nhận, xưa nay tôi chưa từng gặp một gã trai nào mặc đồ trắng đẹp như thế này. Những thương nhân người Ba Tư thỉnh thoảng đến đây cũng thường mặc đồ màu trắng, nhưng đám người Ba Tư kia vận màu trắng dưa lê, còn màu áo trắng trên người gã trai này có vẻ sáng trong như ánh trăng.

Hắn nom cũng thật đẹp trai, mắt mày cong cong tựa nét cười, mặt mũi trắng ngần như ngọc Hòa Điền thượng hạng, tóc tết kiểu Tây Lương, mà tiếng Tây Lương của hắn cũng khá lưu loát. Có điều, thoạt trông tôi đã nhận ra hắn là người Trung Nguyên, đàn ông Tây Lương không ai trắng như hắn. Hắn ngồi trên lưng ngựa, toàn thân toát ra khí thế mà tôi từng thấy ở cha mình, lúc người thúc ngựa, vác đao duyệt binh, trong tiếng hô vang của ba quân, ánh mắt người kiêu hãnh nhìn xuống quân đội, lãnh thổ và những đứa con của mình.

Gã trai này cũng nhìn tôi bằng ánh mắt từa tựa thế, như thể hắn là vị quân vương duy nhất trên đời này.

Con tim tôi nhảy nhót loạn xạ, ánh mắt hắn tựa như cơn lốc xoáy giữa hoang mạc, lao đến, cuốn phăng mọi thứ. Tôi tự nhủ, quả nhiên hắn có sức hút kỳ lạ, khi hắn nhìn tôi, đầu tôi như trống rỗng. Miếng ngọc bội trắng ngần nằm gọn trên những ngón tay thon dài của hắn, chính là miếng tôi vừa quẳng đi. Hắn nói:

- Không phải đồ của muội đánh rơi à?

Vừa nhìn thấy nó, tôi lại bực bội, bèn đanh mặt, gắt gỏng:

- Không phải.

Hắn nói:

- Nơi mênh mông không người này, không phải đồ của muội, vậy là đồ của ai?

Tôi dang tay múa may một hồi, nói:

- Ai bảo ở đây không có người? Chỗ này có gió, có cát, có trăng, có sao...

Hắn bỗng nhoẻn miệng cười, cất giọng khe khẽ:

- Và có cả muội nữa...

Tôi như bị trúng tà, mặt bỗng nóng bừng. Tuy tuổi còn nhỏ, song tôi vẫn hiểu trong câu nói của hắn có mấy phần cợt nhả. Tôi bắt đầu thấy hối hận khi lẻn ra ngoài một mình, chỗ này đồng không mông quạnh, hắn mà động thủ, chưa chắc tôi đã đọ nổi hắn.

Tôi xẵng giọng, nói:

- Huynh biết tôi là ai không? Tôi là Cửu Công chúa của Tây Lương, cha tôi là quốc vương Tây Lương, mẹ tôi là đại yên thị, cũng chính là nữ vương của Đột Quyết, ông ngoại tôi là đại thiền vu[62] Thiết Nhĩ Cách Đạt quyền uy nhất Tây Vực, kền kền trên sa mạc nghe danh ông ngoại tôi cũng sợ không dám đậu xuống. Huynh mà dám xấc xược thì cha tôi nhất định sẽ bắt huynh trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết.

[62] Tước hiệu của các lãnh đạo tối cao của dân du mục ở Trung Á trong tám thế kỷ, bắt đầu từ thời kỳ nhà Chu (1045-256 TCN) và được thay thế bởi tước hiệu khả hãn vào năm 402 CN. Tước hiệu này được thị tộc Luyên Đê của người Hung Nô sử dụng ở thời nhà Tần (221-206 TCN) và nhà Hán (206 TCN-220 CN).

Hắn thản nhiên mỉm cười, nói:

- Cô bé này đáo để thật, chưa gì đã dọa người ta? Muội biết ta là ai không? Ta là Cố Ngũ Lang của Trung Nguyên, cha ta là chủ tiệm chè, ông ngoại ta là nông dân trồng chè, tuy gia đình ta không quyền cao chức trọng gì nhưng nếu muội bắt ta trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết, chỉ e Tây Lương của muội sẽ không có chè ngon mà uống đâu.

Tôi há miệng, trợn mắt nhìn hắn. Chè mới du nhập vào Tây Lương mấy năm qua, trong mắt người dân Tây Lương, nó quả thật là thứ đồ uống kỳ diệu. Cha tôi rất thích uống chè của Trung Nguyên, mà mọi người ở Tây Lương đều thích uống chè, không ai nỡ bỏ dù chỉ một ngày. Nếu tên này nói thật, vậy phiền phức rồi đây.

Hắn vẫn nhìn tôi chằm chằm, còn cười mỉm nữa chứ.

Đang cơn bực mình, tôi bỗng nghe sau lưng có tiếng ai đó phì cười.

Tôi ngoái đầu nhìn, hóa ra là sư phụ. Không hiểu sư phụ từ đâu ra, còn nhìn tôi rồi cười.

Tôi bực mình, nói:

- Sao còn dám đến gặp ta? Hại ta mất ba ngày ba đêm đợi trên cồn cát! Cái gã đẹp trai nhất nhất nhất trần đời sư phụ bảo tìm giúp ta đâu hả?

Sư phụ chỉ vào gã cưỡi ngựa trắng, nói:

- Chính hắn đấy thôi!

Cố Ngũ Lang cười tinh quái, xòe bàn tay. Bấy giờ tôi mới nhận ra, trên tay hắn không phải có một mảnh ngọc bội, mà là một đôi. Với đôi ngọc bội trên tay, nom hắn hớn hở như vừa được xem kịch hay.

Mặt tôi nghệt ra, lúc lâu sau mới sực tỉnh, tôi không thèm lấy gã người Trung Nguyên này! Đành rằng hắn đẹp trai thật đấy, nhưng mồm miệng cũng đáo để ra trò, chẳng chịu nhường ai đến nửa câu, đã thế còn cả gan chọc người ta nữa chứ, tôi căm ghét nhất kẻ nào dám trêu mình!

Bụng dạ tức tối, tôi thúc ngựa quay về, chẳng thiết nhìn hắn thêm nữa. Sư phụ và gã Cố Ngũ Lang kia cưỡi ngựa thong dong đi đằng sau, thỉnh thoảng trao đổi mấy câu.

Sư phụ nói:

- Ta cứ tưởng đệ không đến cơ đấy!

Gã Cố Ngũ Lang đáp:

- Nhận được bồ câu đưa thư, đệ không đến đâu có được.

Thấy bọn họ trò chuyện thân mật tôi mới hiểu, thì ra sư phụ và hắn quen biết từ trước, hai người dường như nói mãi không hết chuyện. Dọc đường, sư phụ giảng giải về phong tục tập quán và lễ tiết của Tây Lương cho tay Cố Ngũ Lang ấy nghe. Hắn nghe rất chăm chú, thỉnh thoảng có vài câu truyền đến tai tôi. Tôi không muốn nghe cũng khó, bọn họ dần chuyển từ chuyện phong thổ sang chuyện thông thương buôn bán, chưa bao giờ tôi nghe sư phụ nói nhiều đến thế, nghe mãi cũng chán, tôi ngáp ngắn ngáp dài.

Lớp tường bao màu xám chạy quanh Vương thành đã thấp thoáng đằng xa, dải tường thành và cổng lầu rất lớn được chất từ tầng tầng lớp lớp gạch vụn. Thành quách sừng sững tựa những rặng núi nối đuôi nhau trải dài, tường thành cao chót vót che lấp một góc trời, càng đến gần càng thấy thành lũy cao vời vợi. Trên đất Tây Vực hoang liêu, trong phạm vi mười dặm đổ lại không đâu có được tòa thành lớn như thế này. Các bộ tộc Tây Lương vốn sống dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, khoảng một trăm năm trước, các bộ lạc Tây Vực đã liên kết với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền một vị thiền vu, sau đó dựng nên Vương thành hùng vĩ này, từ đó lấy tên là Tây Lương Quốc. Trải qua nhiều thế hệ liên hôn giữa các tộc Đột Quyết, Khâu Từ, Nguyệt Thị, lại được Trung Nguyên phong thưởng; chưa kể Vương thành nằm trên con đường thông thương quan trọng nối giữa Trung Nguyên và Đại Thực mà các thương nhân ắt phải đi qua, chính điều đó đã mang lại sự phồn vinh cho Vương thành. Bên cạnh đó, các vị thiền vu tiền triều luôn chú trọng vào lực lượng quân sự, binh sĩ của chúng tôi dũng mãnh, thiện chiến và cho đến ngày nay, Tây Lương đã vươn lên trở thành cường quốc của Tây Vực. Lãnh thổ tuy nhỏ, song kể cả Trung Nguyên cũng không dám xem thường Tây Lương.

Thành lũy đồ sộ nổi bật giữa nền trời tím sậm, càng nhìn càng thấy hùng vĩ, tráng lệ. Trông đèn lồng nhấp nháy treo trên đỉnh lầu lại tưởng một vì sao lớn điểm trên bầu trời đầy sao mênh mông, bất tận. Sao nhỏ li ti như hạt đường trải khắp bầu trời, còn Vương thành nhìn giống chiếc bánh nang[63] bọc đường, mỗi lần thấy nó, tôi lại có cảm giác thỏa mãn, cứ như vừa được đánh chén no nê.

[63] Món ăn chính của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương - Trung Quốc.

Tôi thúc ngựa chạy nhanh hơn, chuông loan thắt dưới cổ ngựa ngân vang lảnh lót, hòa với tiếng lục lạc nơi xa, nghe rất êm tai. Cổng thành luôn mở qua đêm, vì thể nào chốc nữa cũng có đoàn buôn tranh thủ lên đường nhân lúc trời về đêm mát mẻ. Tôi phi ngựa vào đầu tiên, người bán nước giếng ngoài cổng thành đã quá quen mặt tôi, liền cất tiếng gọi: “Cửu Công chúa!”, rồi tung cho tôi một chùm nho. Đám thương nhân qua đường thường tặng bọn họ, lần nào họ cũng phần tôi chùm to, ngọt nhất.

Tôi vui vẻ đón chùm nho, ngắt một quả bỏ vào miệng, ngấu nghiến nhai lớp vỏ mỏng, vị ngọt mát tan ra nơi đầu lưỡi. Tôi ngoái đầu hỏi sư phụ:

- Hai người ăn không?

Bấy lâu nay tôi chưa từng gọi người này một tiếng sư phụ, dạo đó tôi nhận sư phụ chẳng qua là do bị lừa. Hồi mới quen, thoạt đầu tôi không biết kiếm thuật của gã xuất chúng hơn người, nghe gã nói thấy nóng gáy nên quyết đấu kiếm một trận. Ai thua phải chấp nhận bái người kia làm sư phụ, có thể đoán tôi đã thua thảm hại cỡ nào, đành xuống nước nhận gã làm sư phụ. Tuy làm sư phụ, song gã thường xuyên giở những trò không xứng mặt sư phụ, bảo sao tôi không thèm gọi một tiếng sư phụ, được cái gã cũng không để bụng, mặc kệ tôi suốt ngày gọi trống không.

Sư phụ lắc đầu bâng quơ, rồi lại mải mê nói chuyện cùng gã mặc áo trắng đi bên cạnh. Thỉnh thoảng sư phụ cũng dạy tôi mấy câu trong sách vở của người Trung Nguyên, cái gì mà: “Khi thiếp đã gặp được chàng. Rằng sao mà chẳng rộn ràng vui tươi?”[64], hay “Quân tử khiêm hòa, dịu dàng như ngọc”… Nói đi cũng phải nói lại, tôi cứ tưởng quân tử thường mặc áo trắng, sư phụ cũng thích mặc màu trắng, song sư phụ thì quân tử cái gì chứ, lưu manh thì có.

[64] Trích trong bài Phong vũ, thuộc phần Quốc phong - Kinh thi. Bản dịch của Tạ Quang Phát.

Thời gian Cố Tiểu Ngũ nán lại thành Tây Lương, hắn ở tạm chỗ sư phụ. Nơi sư phụ ở bày biện như bao nhà của người Trung Nguyên khác, mát mẻ, sạch sẽ và không nuôi lạc đà.

Tôi vẫn ghé nhà sư phụ chơi như thường lệ, dần dần trở nên thân thiết với Cố Tiểu Ngũ. Nghe nói hắn là thiếu gia của một tiệm chè, phần lớn người hay qua lại với hắn là thương nhân buôn chè của Trung Nguyên. Trong buồng hắn ở, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn chè ngon và nhiều thứ ngon lành khác, như bánh ngọt kiểu Trung Nguyên hoặc một vài món đồ chơi kỳ lạ, hay ho, chúng khiến tôi quyến luyến mãi không rời. Nhưng ghét nhất là, lần nào gặp tôi, Cố Tiểu Ngũ cũng hỏi:

- Cửu Công chúa ơi, bao giờ muội mới chịu lấy ta?

Tôi giận quá hóa thẹn, chỉ tại lão sư phụ mà sự tình mới ra nông nỗi này. Tôi thường hét toáng lên:

- Ta thà lấy Thái tử Trung Nguyên, chứ quyết không lấy loại người vô lại như huynh.

Lần nào hắn cũng bật cười giòn tan.

Thực ra trong lòng tôi tự nhủ, tôi chẳng muốn lấy ai hết, đang yên đang lành ở Tây Lương, cớ gì phải làm dâu ở đất Trung Nguyên xa xôi?

Nói thế thôi, chứ sứ thần Trung Nguyên lại bắt đầu thúc giục cha tôi, thêm vào đó, Nguyệt Thị ở phía bắc núi Yên Chi, nghe nói Trung Nguyên phái sứ thần đến cầu thân với cha tôi nên họ cũng sai sứ thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Tây Lương.

Nguyệt Thị vốn là nước lớn nhất, nhì trên khắp Tây Vực, binh sĩ trong tay họ lên đến mười vạn, đều là quân dũng mãnh, thiện chiến, cha tôi không muốn thất lễ, đành tiếp kiến sứ thần Nguyệt Thị trong Vương cung. Tôi sai hầu gái đi nghe trộm họ bàn chuyện, cô hầu gái hổn hển chạy về thì thầm kể tôi nghe, bữa nay sứ thần thay mặt Đại Thiền vu bên Nguyệt Thị đến là để dạm hỏi. Đại Thiền vu của Nguyệt Thị năm nay đã năm mươi, đại yên thị vợ lão là nữ vương của Đột Quyết, vốn là chị ruột của mẹ tôi, song vị Đại Yên thị này năm ngoái không may bệnh nặng qua đời. Mà bên cạnh Thiền vu của Nguyệt Thị cũng có khá nhiều yên thị xuất thân từ những bộ lạc khác nhau, họ không ngừng tranh chấp, chức đại yên thị đến nay vẫn phải bỏ ngỏ. Giờ Nguyệt Thị nghe nói Trung Nguyên phái sứ thần đến Tây Lương cầu hôn, họ cũng phái sứ bộ đến hỏi cha tôi, xin được cưới tôi về làm đại yên thị của nước họ.

Mẹ tôi nghe xong giận lắm, tôi cũng bực không kém. Lão Đại Thiền vu kia vốn là bác rể tôi, mà lão cũng đã ở cái tuổi râu tóc bạc phơ rồi, song vẫn còn muốn lấy tôi về làm đại yên thị của Nguyệt Thị, đừng hòng tôi lấy một lão già làm chồng. Cha tôi không nỡ đắc tội với Trung Nguyên, cũng không đành lòng thất lễ với Nguyệt Thị, người buộc phải ậm ờ lần lữa, chưa vội quyết. Hiềm vì hai bên sứ thần đều nán lại Vương thành, về lâu về dài khó lòng trì hoãn được nữa, tôi hạ quyết tâm, định lén bỏ sang chỗ ông ngoại.

Hằng năm, mỗi độ thu về, tầng lớp quý tộc Đột Quyết thường tập trung săn bắn trên đỉnh núi Thiên Hằng, Trung Nguyên gọi là “Hội săn mùa thu”. Nhân dịp đi săn, ông ngoại thường sai người đến đón tôi về chơi, nhất là hai năm gần đây, sức khỏe ông có vẻ yếu đi nên năm nào tôi cũng sang thăm, ông luôn nói:

- Gặp cháu giống như gặp được mẹ cháu, ông rất mừng.

Theo tập tục của người Đột Quyết, con gái đã xuất giá không được phép về nhà ngoại thăm cha mẹ, trừ phi bị nhà chồng đuổi. Vậy nên lần nào tiễn tôi đi thăm ông, mẹ cũng phấn khởi căn dặn tôi nhớ thay mặt mẹ đến vấn an họ hàng đằng ngoại bên Đột Quyết. Tôi lén đem kế hoạch này tiết lộ với mẹ, dẫu sao mẹ cũng không bằng lòng gả tôi đến Trung Nguyên, càng không muốn tôi lấy chồng Nguyệt Thị. Mẹ giấu cha giúp tôi chuẩn bị nước và lương khô, rồi nhân lúc cha không có trong Vương thành, bí mật đưa tôi ra ngoài.

Tôi cưỡi ngựa, phi thẳng về hướng núi Thiên Hằng.

Vương thành ba mặt giáp núi, núi Yên Chi nhấp nhô trùng điệp vắt từ tây sang bắc, những ngọn núi cao ngất nối đuôi nhau tựa thân rồng uốn lượn, đôi khi giống một người khổng lồ vươn những cánh tay dài ôm trọn Vương thành, ngăn gió chặn cát, ngăn không khí lạnh, biến Vương thành dưới chân núi trở thành một ốc đảo có khí hậu ấm áp, ôn hòa. Hướng đông là núi Thiên Hằng có đỉnh cao chót vót, sừng sững giữa đất trời như muốn chọc thủng mấy tầng mây, chẳng khác nào mấy tấm bình phong mà tiểu thương Trung Nguyên mang đến, chóp núi quanh năm đội nón tuyết trắng tinh, nghe nói chưa ai leo được lên đó. Vượt qua rặng núi, với những đồng cỏ mênh mông, non tơ trải dài đến tận chân trời, chính là quê ngoại của tôi.

Lúc ra khỏi thành, tôi để lại một mảnh giấy cho sư phụ. Dạo gần đây sư phụ bận rộn, kể từ lúc gã Cố Tiểu Ngũ xuất hiện, tôi cũng ít khi được gặp người. Tôi nghĩ bụng, mình đi Đột Quyết đợt này, qua mùa đông mới trở về nên viết mảnh giấy bảo sư phụ chớ quên chăm A Ba, A Hạ sau vườn nhà hộ tôi. A Ba và A Hạ là hai chú chuột tôi tình cờ bắt được. Cha cấm tôi nuôi chuột trong phòng ngủ, tôi đành gửi lại chỗ sư phụ.

Nhân lúc trời mát mẻ, giữa đêm, tôi nối đuôi đội buôn ra khỏi Vương thành, đội lái buôn rẽ hướng tây, tôi vòng hướng đông.

Sa mạc trong đêm tĩnh lặng quá, vòm trời đen mượt tựa nhung tơ như sà xuống trong tầm tay, sao trên trời như ở rất gần, sáng lấp lánh, gợi người ta nghĩ tới giọt sương đọng trên lá nho cũng mang cảm giác mát rượi như thế.

Tôi băng qua cồn cát rộng lớn, trông đám cỏ lưa thưa để chắc chắn mình không bị nhầm đường. Con đường này hầu như năm nào tôi cũng đi qua một lần, có điều lúc ấy luôn đi cùng những kỵ binh ông ngoại phái tới, còn hôm nay chỉ có mình tôi dò dẫm. Nhờ có sao Bắc đẩu chỉ đường, ngựa chạy băng băng trên sa mạc. Tôi bắt đầu suy tính, lần này gặp ông, nhất định phải nài nỉ ông sai đầy tớ bắt cho tôi một con chim biết hót mới được.

Trời hửng sáng cũng là lúc tôi buồn ngủ díp mắt. Mặt trời đỏ rực sắp ló dạng, ánh hào quang màu tím nhạt bừng lên khắp vùng trời phía đông. Bầu trời xanh xám để lọt vài tia trắng, làn hơi nước bốc lên lưng chừng trời cao, cuộn mình thành lớp sương sớm mỏng manh. Tôi thầm nghĩ, phải tìm chỗ nào đó nghỉ ngơi, càng về trưa, mặt trời càng chói chang, đó không phải thời gian thích hợp để lên đường.

Lội qua một dòng sông nhỏ trong veo, thấy gò đất râm mát, tôi nhảy phắt xuống, thả ngựa tự đi gặm cỏ, còn mình gối đầu lên bọc lương khô, đánh một giấc. Ngủ một mạch tới khi nắng xiên từ phía tây, rọi vào mặt khó chịu vô cùng, tôi mới mở mắt.

Tôi lấy lương khô trong bọc ra ăn, uống hết phân nửa túi nước, đong đầy lại rồi mới huýt sáo gọi ngựa.

Thoáng chốc, từ xa vọng lại tiếng vó ngựa quen thuộc, con ngựa nhỏ đang chạy băng băng về phía tôi, thở phì phì ra điều khoan khoái. Chớp mắt nó đã kìm vó, dừng trước mặt tôi, liếm láp tay tôi tỏ vẻ thân quen. Tôi vuốt ve chiếc bờm dài, rồi hỏi nó:

- Ăn no chưa?

Tuy nó không biết nói nhưng nó biết dùng ánh mắt để nói lên cảm xúc, đôi mắt to hiền hòa phản chiếu bóng hình tôi. Tôi vỗ vào bụng nó, nó bỗng hí lên đầy vẻ nóng nảy. Tôi lấy làm lạ, tự nhiên nó hí vang rền rồi nện móng loạn xạ xuống bãi cỏ, tỏ vẻ bất an, lẽ nào gần đây có chó sói?

Trên thảo nguyên, loài đáng sợ nhất là chó sói. Chúng tập hợp thành bầy đàn, dân du mục đi một mình trên thảo nguyên chẳng may gặp phải chúng tất sẽ bỏ mạng. Có điều giờ đang mùa thu, là lúc cỏ tươi tốt mà nước cũng dồi dào, linh dương và thỏ hoang có ở khắp nơi, thức ăn cho bầy sói khá nhiều, chúng ẩn mình trên núi Thiên Hằng, chẳng có cớ gì để kéo bầy xuống đây, không thể có chuyện chúng xuất hiện ở thảo nguyên lúc này được.

Song chú ngựa nhỏ tỏ vẻ cáu kỉnh, ắt phải có lý do. Tôi lên ngựa, tiếp tục cuộc hành trình, thẳng tiến về phía núi Thiên Hằng, vòng qua chân núi là đã đến ranh giới giữa Đột Quyết và Tây Lương. Mẹ đã sai người gửi thư báo cho ông ngoại, thể nào cũng có người đứng đó chờ tôi. Để an toàn, tốt nhất tôi nên đến những nơi có người sinh sống.

Vừa thúc ngựa chạy chưa được bao xa, bỗng tiếng vó ngựa lọt vào tai tôi. Tôi đứng trên yên ngựa, ngó quanh quất, thấy thấp thoáng đằng xa có một đường đen bạc, đoán chừng đám này không ít người. Lẽ nào cha sai người đuổi theo tôi? Do khoảng cách xa quá, quả thực tôi không nhìn rõ cờ hiệu của đội kỵ binh nọ. Tôi thấy ruột gan cồn cào như có lửa đốt, đành thúc ngựa chạy thục mạng tới núi Thiên Hằng. Một khi đã đến ranh giới với Đột Quyết, gặp được người của ông ngoại, cha cũng không thể miễn cưỡng bắt tôi về được.

Đội kỵ binh đuổi theo càng lúc càng gần, tôi thúc ngựa lao về phía trước như mũi tên đã bắn khỏi cung. Nhưng giữa thảo nguyên không một lằn ranh, không một chướng ngại vật, dù sức ngựa chạy nhanh đến mấy thì sớm muộn gì cũng bị bắt kịp.