Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 07 - Phần 3

“Tôi nhận chiếc đèn từ tay ông ta rồi kiểm tra xem xét kỹ lưỡng cỗ máy. Đúng là cỗ máy khổng lồ này có thể sinh ra áp lực cực mạnh. Thế nhưng khi tôi đi ra phía ngoài, kéo cần điều khiển xuống thì nghe thấy có tiếng rít rít, tôi biết ngay trong máy có một khe hở nhỏ. Qua kiểm tra, tôi phát hiện cái vòng điện bằng cao su Ấn Độ trên đầu cần điều khiển đã bị co lại, vì thế không thể bao kín được cái cần đang chuyển động. Như vậy, đấy rõ ràng là nguyên nhân làm hao phí áp lực. Tôi đã nói vấn đề đó với hai người đi cùng. Họ đều chú ý lắng nghe, rồi hỏi một số vấn đề thực tế, và nhất là phải làm thế nào để sửa chữa được cỗ máy. Sau khi trao đổi rõ ràng cụ thể với họ, tôi quay trở lại căn phòng chính của chiếc máy. Để thỏa mãn sự tò mò của mình, tôi quan sát kỹ căn phòng nhỏ ấy. Chỉ cần nhìn một cái là nhận ra ngay, chuyện về đất sét là hoàn toàn giả dối. Vì nếu cho rằng một cái máy với công suất lớn đến thế mà lại được lắp đặt chỉ vì một mục đích vẩn vơ như vậy thì thực là hoang đường và nực cười. Tường của căn phòng làm bằng gỗ, nhưng trên sàn nhà bằng thép lại có những cái rãnh lớn. Tôi bắt đầu quan sát kỹ thì phát hiện trên đó có một lớp mạt kim loại. Tôi cúi xuống, đang xem xét thứ mạt đó thì nghe thấy ai đó hỏi bằng khẩu âm Đức rất nặng, đầy vẻ ngạc nhiên: “Anh làm gì ở đấy?”. Đồng thời viên đại tá mặt tím tái xuất hiện, nhìn chằm chằm vào tôi.

“Rất tức giận vì bị mắc lừa bởi câu chuyện phiền phức mà ông ta dày công bịa đặt, nên tôi kháy:

- Tôi đang thưởng thức món đất sét của ông. Tôi nghĩ, nếu biết được mục đích thực sự của ông khi sử dụng cỗ máy này, chẳng phải tôi càng có những chỉ dẫn tốt hơn cho ông ư?

“Nhưng vừa dứt lời, tôi lập tức cảm thấy hối hận về sự xốc nổi của mình. Mặt ông ta đanh lại, mắt ánh lên đầy tàn ác.

- Được lắm. - Ông ta nói - Anh sẽ được biết tất cả về cái máy này.

“Ông ta thoắt lùi lại vài bước, kéo cánh cửa nhỏ đánh rầm, rồi xoay khóa đóng chặt lại. Tôi lao ra cửa, cố hết sức kéo cái nắm đấm, nhưng cánh cửa đã khóa chặt rồi, dù tôi cố đẩy, cố đạp thế nào nó vẫn đóng im ỉm. Tôi gào to:

- Này, đại tá! Thả tôi ra!

“Vừa lúc ấy, trong im lặng, tôi đột nhiên nghe thấy một tiếng động khiến tôi ngay lập tức sợ thót tim. Đó là tiếng vù vù chuyển động của pittông và tiếng rít của cái ống nước bị rò. Ông ta đã khởi động cỗ máy. Chiếc đèn vẫn nằm trên sàn nhà, tôi đã đặt nó ở đấy khi xem xét các cái rãnh. Nhờ ánh đèn, tôi nhìn thấy cái trần nhà tối thui đang từ từ lắc lắc, rung rung ép xuống. Không ai rõ hơn tôi, áp lực của nó đủ để ép tôi nát bét chỉ trong vòng một phút. Tôi gào thét, lao cả thân mình đập phá cửa, cào móc ổ khóa. Tôi thảm thiết cầu xin viên đại tá thả tôi ra, nhưng tiếng rầm rầm của pittông đã át mất tiếng kêu của tôi. Trần nhà chỉ còn cách đầu tôi nửa mét nữa thôi, chỉ cần giơ tay lên là tôi có thể sờ được vào cái bề mặt thô cứng ấy. Lúc ấy, một ý nghĩ bỗng vụt qua óc tôi, rằng nỗi đau của một người khi chết phần lớn bị quyết định bởi tư thế trong lúc gần chết của anh ta. Nếu tôi nằm sấp, sức nặng kia sẽ đè xuống sống lưng. Vừa nghĩ tới những tiếng răng rắc khi xương bị ép gãy, tôi bất giác run rẩy toàn thân. Có lẽ tư thế khác sẽ tốt hơn, nhưng liệu tôi có đủ can đảm nằm ngửa và trơ mắt ra nhìn cái khối đen sì chết chóc ấy rùng rùng ép xuống không? Tôi đã không thể đứng thẳng được nữa, bỗng nhiên ánh mắt tôi nhằm vào một vật, và ngọn lửa hy vọng trong lòng lại bùng lên.

“Tôi đã nói, tuy trần nhà và sàn nhà bằng thép, nhưng tường lại làm bằng gỗ. Khi tôi đang liếc nhìn lần cuối cùng bốn phía, tôi chợt nhìn thấy một tia sáng vàng vọt yếu ớt xuyên qua kẽ vách gỗ. Rồi một tấm gỗ bị đẩy về phía sau, ánh đèn càng lúc càng rõ. Trong khoảnh khắc ấy, tôi thật không dám tin rằng đây chính là cánh cửa hồi sinh của đời tôi. Tôi lập tức lao ngay ra phía đó, hồn xiêu phách lạc. Tấm gỗ đóng trở lại phía sau lưng tôi, nhưng tiếng vỡ nát của cái đèn và khoảnh khắc sau đó là tiếng va đập chát chúa vào nhau của hai khối kim loại cho thấy tôi đã thoát khỏi mối hiểm họa ngàn cân treo sợi tóc…

“Khi có người kéo tay tôi rất mạnh, tôi mới bừng tỉnh, phát hiện thấy mình đang nằm trên nền đá của một hành lang hẹp. Người phụ nữ, tay cầm một ngọn nến, khom xuống, dùng tay trái kéo mạnh tôi. Cô ấy chẳng phải ai khác, chính là người bạn tốt bụng lúc nãy! Tôi đã ngu ngốc biết chừng nào khi không chịu nghe lời cảnh báo của cô.

- Mau! Mau! - Cô ấy hổn hển - Họ sắp lên đây rồi. Họ sẽ phát hiện anh không có ở đó. Trời ơi, đừng lãng phí thời gian vàng bạc nữa, mau lên!

“Lúc này, ít nhất thì tôi đã chịu nghe lời cảnh báo của cô ấy. Tôi loạng choạng đứng dậy, chạy theo cô gái ra khỏi hành lang, xuống một cầu thang xoắn ốc. Dưới cầu thang có một hành lang khá rộng. Khi chúng tôi vừa chạy tới đó thì cũng nghe thấy tiếng những bước chân đang chạy rầm rập cùng tiếng hò hét của hai người. Một người trên tầng mà chúng tôi đang ở, còn người kia ở ngay tầng dưới. Cô gái dẫn đường của tôi dừng lại, nhìn quanh tứ phía, giống như một người đã hết đường thoát thân. Tiếp đó, cô ấy đẩy một cánh cửa thông vào một phòng ngủ, ánh trăng sáng từ ngoài cửa sổ chiếu mờ mờ vào phòng.

- Đây là cơ hội duy nhất của anh đấy. - Cô ấy giục - Cao lắm, nhưng anh vẫn có thể nhảy xuống được.

“Đúng lúc cô ấy đang nói thì có ánh đèn xuất hiện ở cuối hành lang. Tôi thấy thân hình gầy đét của tên đại tá Lysander Stark đang chạy rất nhanh, một tay xách đèn, một tay cầm một hung khí giống như con dao thái thịt của đồ tể. Tôi chạy thục mạng vào phòng, đẩy mạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trong ánh trăng, vườn hoa sao mà êm đềm, ngọt ngào và sinh động đến thế! Từ đây xuống dưới đó không thể dưới 10m! Tôi trèo lên bậu cửa sổ nhưng còn do dự, chưa nhảy xuống ngay khi biết ân nhân cứu mạng của tôi sẽ ra sao lúc kẻ côn đồ truy đuổi tới. Nếu cô ấy bị hại, tôi quyết không sợ hiểm nguy, sẽ quay lại giúp. Ý nghĩ ấy vừa lóe lên trong óc tôi thì hắn đã chạy tới cửa, định đẩy cô ấy ra để xông tới. Nhưng cô gái đã ôm chặt lấy hắn, cố hết sức giữ hắn lại.

- Anh Fritz! Anh Fritz! - Cô ấy hét lên bằng tiếng Anh - Hãy nhớ đến lời hứa trước đây của anh với em! Anh đã hứa là sẽ không bao giờ làm thế nữa cơ mà. Anh ta sẽ không nói ra đâu! Lạy Chúa! Anh ta nhất định sẽ giữ yên lặng mà!

- Em điên rồi, Elise! - Hắn gầm lên, cố hết sức thoát ra khỏi vòng tay của cô ấy - Em sẽ làm hỏng chuyện của chúng ta mất. Hắn đã thấy quá nhiều rồi. Buông anh ra!

“Hắn đẩy ngã cô ấy sang một bên, xông tới cửa sổ, lấy hung khí chém tôi. Lúc này cả thân tôi đã ở ngoài cửa sổ, nhưng khi hắn chém mạnh tới, hai tay tôi vẫn bám vào bậu cửa sổ. Tôi bỗng thấy đau kinh khủng, vội buông ngay tay ra và rơi xuống vườn hoa phía dưới.

“Tuy rớt xuống khá mạnh, nhưng tôi may mắn không bị thương, lao bừa vào một lùm cây thấp. Tôi hiểu là mình vẫn chưa thoát khỏi mối hiểm nguy. Nhưng đúng lúc tôi định chạy thì bỗng cảm thấy cả người hết sức mệt mỏi và choáng váng kinh khủng. Tôi nhìn vào bàn tay đang đau đớn tới mức cứ giật giật, lúc ấy mới phát hiện là ngón tay cái của mình đã bị chém đứt rồi, máu không ngừng tuôn ra từ đó. Tôi cố hết sức, lấy khăn tay quấn chặt vết thương lại. Nhưng tôi bỗng thấy ù tai, rồi ngất đi, ngã lăn ra trong bụi hoa tường vi.

“Không biết tôi đã ngất đi bao lâu, chắc chắn là khá lâu, vì khi tôi tỉnh lại, trăng sao đã lặn, mặt trời đang ló ra ở đằng đông. Quần áo của tôi ướt đẫm sương đêm, còn tay áo sũng máu từ vết thương ở ngón cái. Cơn đau khủng khiếp từ vết thương khiến tôi lập tức nhớ lại mối hiểm nguy đêm qua và chợt hiểu ra rằng tôi vẫn chưa thoát khỏi hai tên vô lại kia. Tôi liền chồm dậy. Nhưng điều làm tôi kinh ngạc là, khi tôi nhìn quanh thì không hề thấy một căn nhà nào, cũng chẳng thấy vườn hoa đâu cả. Thì ra, tôi đang nằm ở góc một hàng rào cây sát đường cái, cách không xa là một công trình dài dài. Khi đi tới gần thì tôi phát hiện, đó chính là cái ga tàu tối hôm qua tôi đã đến. Nếu như không có vết thương đáng sợ thế này trên tay tôi thì tất cả những gì đã xảy ra trong những giờ phút kinh hoàng ấy có lẽ chỉ là một cơn ác mộng…

“Tôi bước vào trong ga mà vẫn còn choáng váng, hỏi thăm thông tin về chuyến tàu sáng. Được biết, trong vòng một giờ tới sẽ có một chuyến tàu đi Reading. Tôi nhận ra người trực ban là nhân viên đường sắt mà tôi gặp lúc tới đây. Tôi hỏi anh ta, đã từng nghe nói tới đại tá Lysander Stark bao giờ chưa. Với anh ta, cái tên ấy có vẻ khá xa lạ. Tôi hỏi có chú ý đến chiếc xe ngựa đợi tôi đêm qua không, anh ta bảo không. Hỏi gần đấy có đồn cảnh sát nào không, anh ta bảo ngoài ba dặm có một đồn.

“Với tôi thế này, vừa đau vừa mệt thì ba dặm quả là quá xa. Tôi quyết định sẽ báo cảnh sát sau khi về thị trấn. Lúc về tới thị trấn mới hơn 6 giờ một chút, nên trước tiên tôi đi băng bó vết thương. May nhờ vị bác sĩ đây đưa tôi tới chỗ ông. Tôi xin giao phó vụ án này cho ông, và sẽ làm mọi việc hoàn toàn theo ý ông.”

Nghe xong câu chuyện khác thường này, cả hai chúng tôi ngồi bất động hồi lâu. Rồi Sherlock Holmes lấy một trong số các quyển sổ cũ kỹ và nhạt nhẽo mà anh vẫn dán những bài báo từ trên giá xuống.

- Ở đây có một mục quảng cáo, có thể sẽ làm các anh thấy hứng thú đấy. - Holmes nói - Tất cả các báo một năm trước đều đăng tin này. Nghe tôi đọc nhé: “Tìm người: Anh Jeremiah Hayling, 26 tuổi, kỹ sư thủy lực. Sau khi rời căn hộ thuê lúc 10 giờ đêm mồng 9 tháng này đến nay không có tin tức gì. Trên người mặc…” A ha! Tôi nghĩ là trước đây “đại tá” đã phải đại tu cỗ máy của ông ta một lần rồi.

- Chúa ơi! - Bệnh nhân của tôi kêu lên - Vậy là điều này giải thích cho những lời mà người phụ nữ đó đã nói.

- Không còn nghi ngờ gì nữa! Rõ ràng, “đại tá” là một tên đồ tể lạnh lùng, quyết không để bất cứ thứ gì ngáng trở mưu đồ của hắn, giống như bọn cướp biển vẫn làm vậy, chúng không bao giờ để bất kỳ nạn nhân nào sống sót trên con tàu mà chúng cướp đoạt. Hừm, bây giờ mỗi thời khắc đều vô cùng quý giá, do đó nếu anh cảm thấy có thể được, chúng ta sẽ đến ngay Sở Cảnh sát Scotland Yard báo án, đây chính là bước đi đầu tiên để chúng ta đến Eyford.

Khoảng ba tiếng đồng hồ sau, chúng tôi cùng lên tàu, xuất phát từ Reading, hướng về cái làng nhỏ Berkshire. Nhóm gồm có Sherlock Holmes, anh chàng kỹ sư thủy lực, thanh tra Bradstreet của Sở Cảnh sát Scotland Yard, một cảnh sát mặc thường phục và tôi. Bradstreet trải một tấm bản đồ quân sự của quận lên ghế, rồi dùng compa vẽ một vòng tròn với tâm điểm là Eyford.

- Chính chỗ này. - Ông ta nói - Vòng tròn có tâm là cái làng này, với bán kính mười dặm. Địa điểm mà chúng ta phải tìm, hẳn nằm gần vòng tròn này. Tôi nhớ anh đã nói là mười dặm.

- Xe ngựa đã chạy chừng một giờ đồng hồ.

- Anh nghĩ là khi anh đang mê man, họ đã đưa anh từ xa như thế quay trở lại à?

- Tôi nghĩ chắc họ làm thế. Tôi mang máng có cảm giác là dường như mình được nhấc lên và khiêng đến chỗ nào đó.

- Điều mà tôi không thể lý giải là... - Tôi nói - vì sao khi phát hiện thấy anh nằm ngất lịm trong vườn hoa, bọn họ lại tha cho anh? Có lẽ nào tên ác quỷ đó đã mềm lòng trước lời cầu xin của cô gái?

- Tôi cho là khó có chuyện đó. Cả đời, tôi chưa bao giờ nhìn thấy ai có bộ mặt lạnh lùng như hắn.

- Ồ! Chúng ta sẽ mau chóng làm rõ mọi chuyện thôi. - Bradstreet nói - Nhìn xem, tôi đã vẽ xong cái vòng tròn, bây giờ tôi chỉ ước một điều duy nhất là chúng ta có thể biết đích xác vị trí đó là điểm nào trên vòng tròn.

- Tôi nghĩ là tôi có thể chỉ ra được. - Holmes nói một cách nhẹ nhàng bình thản.

- Thật ư? Ngay bây giờ? - Viên thanh tra kêu lên - Ông hẳn đã phán đoán được điều gì đó. Vậy thì tốt. Xem ai trong chúng ta đồng ý với ông nhé. Tôi cho rằng nó ở phía nam, vì vùng nông thôn đó rất hẻo lánh.

- Tôi bảo đó là phía đông. - Bệnh nhân của tôi dè dặt lên tiếng.

- Tôi nghĩ đó là phía tây. - Viên cảnh sát mặc thường phục không tán thành - Chỗ đó rất heo hút.

- Tôi thiên về phía bắc. - Tôi cũng góp thêm ý kiến - Vì ở đó không có núi, mà anh bạn kia bảo là anh ấy để ý thấy xe ngựa không hề lên dốc.

- Ái chà! - Viên thanh tra cười cười - Ý kiến khác nhau ghê nhỉ. Ông tán thành ý của ai đây, Holmes?

- Các anh đều sai hết!

- Không thể nào!

- Ồ! Phải đấy, sai hết cả! Các anh nhìn đây. - Holmes chỉ ngón tay vào tâm vòng tròn - Đây mới chính là nơi chúng ta sẽ tìm ra họ.

- Thế còn quãng đường mười hai dặm? - Hatherley há hốc mồm hỏi vặn lại.

- Sáu dặm lượt đi, sáu dặm lượt về! Chẳng có gì đơn giản hơn được nữa. Chính anh chả đã nói, khi anh lên xe, con ngựa đó trông rất sung sức, bộ lông bóng mượt cơ mà. Nếu đúng là đã chạy suốt mười hai dặm đường khó đi như thế, sao bộ dạng nó có thể như vậy được?

- Mà đúng đấy, rất có thể đây là một mẹo bịp. - Bradstreet tỏ ra thận trọng.

- Đương nhiên bọn xấu ấy bản chất ra sao ta chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa.

- Dĩ nhiên là thế rồi. - Holmes phụ họa - Bọn chúng là những tên tội phạm làm bạc giả với quy mô lớn, chúng dùng cỗ máy đó để đúc hợp kim thay thế bạc.

- Chúng tôi trước đây phát hiện ra có một bọn làm bạc giả rồi. - Thanh tra nói - Chúng đã đúc ra rất nhiều tiền đồng. Chúng tôi truy đuổi chúng tới Reading, nhưng bị mất dấu. Chúng đã có đủ cách để che giấu tung tích, chứng tỏ đó là những tên tội phạm cáo già. Nhưng bây giờ, với cơ hội ngàn vàng này, chúng làm sao mà thoát được nữa!

Viên thanh tra đã lầm, bọn tội phạm ấy đã không cam chịu sa lưới pháp luật. Khi chuyến tàu đi tới ga Eyford, chúng tôi nhìn thấy một cột khói lớn đang cuồn cuộn bốc lên từ đằng sau của một ngôi làng nhỏ gần kề, đám khói trông giống như bộ lông của một con đà điểu khổng lồ treo lơ lửng trên bầu trời làng quê.

- Cháy nhà à? - Bradstreet hỏi khi tàu rời khỏi ga.

- Vâng thưa ông. - Trưởng ga đáp.

- Hỏa hoạn xảy ra từ lúc nào?

- Nghe nói là cháy từ đêm, thưa ông. Nhưng lửa càng lúc càng dữ dội, toàn bộ khu nhà chìm trong lửa rồi.

- Nhà ai vậy?

- Thưa, là nhà bác sĩ Becher.

- Xin hãy nói cho tôi biết, - Chàng kỹ sư xen vào - bác sĩ Becher có phải là người Đức, gầy đét, có một cái mũi vừa dài vừa khoằm không?

Trưởng ga cười:

- Ồ không, thưa ông. Bác sĩ Becher là người Anh và trong xứ đạo này của chúng tôi, không ai mặc áo gilê đẹp được như ông ấy. Nhưng theo tôi biết thì ông ấy còn sống cùng một người nữa, một bệnh nhân ngoại quốc, nhưng xem ra nếu ông có ý muốn đem “món mồi” đó sấy khô thì cũng không thể được mấy mỡ đâu.

Trưởng ga vẫn còn nói gì đó rất dài. Chúng tôi chưa nghe hết đã vội vội vàng vàng chạy về hướng có ngôi nhà bị cháy. Con đường này dẫn tới đỉnh quả đồi thấp… Trước mắt chúng tôi hiện ra một tòa nhà sơn trắng trải dài. Từng cửa sổ, từng kẽ hở đang phần phật phun ra những ngọn lửa đỏ rực. Vài chiếc xe cứu hỏa ở vườn hoa phía trước đang cố gắng dập lửa một cách vô vọng.

- Chính là đây! - Hatherley hết sức xúc động hét lên - Hãy nhìn con đường rải sỏi này! Bên kia chính là bụi hoa tường vi tôi đã nằm lăn. Cái cửa sổ thứ hai kia chính là nơi tôi đã nhảy ra!

- Vậy thì, - Holmes nói - ít nhất anh cũng đã báo thù được rồi. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi bị cái máy đó ép nát vụn, ngọn đèn dầu của anh đã làm cháy tường gỗ. Quá kích động khi đuổi theo anh nên lúc đó chúng đã không phát hiện ra lửa cháy. Bây giờ anh hãy mở to mắt ra xem, trong đám người kia có “những người bạn” tối qua của anh không? Có điều, tôi e là chúng đã chạy xa tới hơn trăm dặm rồi.

Sự lo xa của Holmes quả nhiên đã thành sự thật. Kể từ đêm hôm đó đến giờ, chẳng ai nghe được bất cứ điều gì, dù là về người đàn bà xinh đẹp hay tên người Đức nham hiểm, hay là gã người Anh nhăn nhó. Sáng sớm hôm ấy, một người nông dân đã nom thấy một chiếc xe ngựa, chở mấy người và vài cái hòm khá to, rất nặng, chạy nhanh về hướng Reading. Nhưng những kẻ gian ác ấy sau đó đã đi đâu thì chẳng ai biết nữa. Thậm chí thông minh đến như Holmes cũng không cách nào phát hiện ra dù chỉ một manh mối nhỏ có liên quan tới bọn chúng.

Lính cứu hỏa xôn xao khi phát hiện thấy trong ngôi nhà nhiều đồ vật rất kỳ lạ, họ đau đầu tìm lời giải thích về chuyện đó. Điều làm họ ngỡ ngàng hơn cả là đã thấy ở cửa sổ tầng lầu hai một ngón tay cái của ai đó vừa bị chặt đứt. Phải đến khi mặt trời lặn, họ mới chế ngự được trận hỏa hoạn dữ dội này. Nhưng nóc nhà đã bị thiêu cháy và sụp đổ, cả hiện trường trở thành một đống tro tàn đổ nát. Cho nên, ngoài một ít ống sắt và bình khí, cái máy nén thủy lực - thứ mà vì nó anh bạn bất hạnh của tôi đã phải trả một cái giá quá đắt - cũng chẳng để lại bất cứ dấu vết gì. Chúng tôi phát hiện ra rất nhiều niken và thiếc ở trong một gian nhà phụ, nhưng không hề tìm thấy dù chỉ một đồng tiền kim loại. Điều này đã đủ để chứng minh cho những chiếc hòm to, rất nặng được nhắc tới lúc trước.

Nếu không nhờ nền đất mềm để lại dấu vết khá rõ, có thể chúng tôi sẽ không bao giờ biết được anh chàng kỹ sư thủy lực đó đã được đưa ra khỏi vườn hoa như thế nào. Rõ ràng là anh đã được hai người nhấc lên. Một người có vết chân rất nhỏ, còn vết chân người kia lại to kinh khủng. Tóm lại, có lẽ gã đàn ông người Anh ít nói đó không quá ác độc như tên đồng bọn. Gã đã giúp cô gái khiêng người bị nạn ra khỏi nơi nguy hiểm.

Khi chúng tôi trở lại trên chuyến tàu quay về London, anh chàng kỹ sư thủy lực buồn thiu than thân trách phận:

- Ôi, đây đúng là một mối làm ăn quá xui xẻo cho tôi! Mất ngón tay cái của mình, mất năm mươi ghinê tiền thù lao, hỏi rằng tôi được gì nào?

- Kinh nghiệm! - Holmes vừa cười vừa nói - Anh phải hiểu, đây là chuyện thực sự rất có giá trị. Chỉ cần câu chuyện này được truyền đi thì trong cuộc sống và công việc sau này, chắc chắn anh sẽ có được danh tiếng tốt.