Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 07 - Phần 2

Ông ta tới muộn “do bận công việc kinh doanh” và đưa cho tôi một tấm danh thiếp in tên “Đại tá Lysander Stark”.

“Người đàn ông này cao vừa phải nhưng quá gầy. Tôi nghĩ, mình chưa bao giờ gặp ai gầy như ông ta. Nơi khuôn mặt gầy nhọn ấy, mũi và cằm cứ nhô ra, da mỏng dính, sát hai gò má xương xẩu. Nhưng cái bộ mặt ốm o ấy của ông ta có lẽ là bẩm sinh chứ không phải vì bệnh tật gì, vì ánh mắt ông ta sáng quắc, đi lại hoạt bát, phong thái đầy quả quyết. Ông ta ăn mặc giản dị, gọn gàng. Tôi ước đoán ông ta khoảng bốn mươi tuổi.

- Anh Hatherley phải không? - Ông ta hỏi với âm điệu Đức pha - Anh Hatherley, có người giới thiệu với tôi rằng, anh không những tinh thông nghiệp vụ mà còn là người rất cẩn trọng và biết giữ bí mật.

“Tôi cúi đầu chào. Cũng giống như bao nhiêu người trẻ tuổi khác, tôi chán nản tự vấn mình: “Trời đất! Đào đâu ra toàn những đức tính tốt đẹp thế?”.

- Ồ, có lẽ tôi không nói cho anh nghe thì tốt hơn. Từ một nguồn tin, tôi còn biết, anh mồ côi và sống một mình tại London.

- Đúng vậy! - Tôi đáp - Nhưng xin ông thứ lỗi, chứ những điều này chẳng ảnh hưởng gì đến năng lực làm việc của tôi cả. Tôi được biết, ông đến đây là vì muốn thương lượng với tôi về chuyện công việc, đúng không?

- Vấn đề không hẳn là như vậy. Nhưng anh sẽ thấy là tôi không hề nói thừa bất cứ điều gì đâu. Chúng tôi quả thực có một việc cần nhờ anh giúp, nhưng nhất thiết phải giữ bí mật, tuyệt đối bí mật, anh hiểu không? Dĩ nhiên chúng tôi hy vọng là một người đàn ông sống độc thân sẽ giữ bí mật tốt hơn một anh chàng sống cùng gia đình, vợ con.

- Ông có thể tin tưởng hoàn toàn. - Tôi quả quyết nói - Nếu tôi hứa giữ bí mật, thì tôi chắc chắn sẽ thực hiện.

“Lúc tôi nói, mắt ông ta nhìn trừng trừng vào tôi. Gần như chưa bao giờ tôi thấy một ánh mắt soi mói và đầy đa nghi đến thế. Cuối cùng, ông ta lại hỏi lại:

- Vậy là anh hứa chứ?

- Phải, tôi hứa sẽ giữ bí mật. Trước, sau và trong toàn bộ quá trình làm việc, được chưa?

- Anh sẽ tuyệt đối giữ im lặng, tuyệt đối không nhắc gì tới chuyện này dù là nói hay viết?

- Tôi đã hứa với ông rồi còn gì!

- Vậy thì hay quá!

“Bỗng ông ta nhổm lên, phóng ra, mở cửa đánh “rầm” một cái. Lối đi bên ngoài không hề có một bóng người.

- Được rồi! - Ông ta bước vào - Tôi biết là các trợ lý đôi lúc hay tò mò với công việc của ông chủ. Bây giờ, chúng ta có thể nói chuyện một cách an toàn rồi.

“Ông ta kéo ghế sát đến chỗ tôi, rồi lại trân trân ngó bằng đôi mắt dò xét đầy hoài nghi.

“Hành động kỳ quặc của gã đàn ông gầy đét ấy khiến trong tôi nảy sinh một cảm giác phản cảm, gần như là sợ hãi. Thậm chí đến nỗi lo mất khách cũng không buộc tôi kiên nhẫn hơn được nữa:

- Xin hãy nói về chuyện của ông đi! - Tôi khó chịu giục - Thời gian của tôi rất quý giá. - Cầu Chúa tha thứ cho câu nói sau của tôi, nhưng thực tình những lời ấy cứ buột miệng bật ra thế.

- Làm việc một đêm được trả năm mươi ghinê với anh thì cũng coi là được chứ? - Ông ta hỏi ngược lại.

- Quả không hề ít.

- Tôi bảo là làm việc một đêm, nhưng thực tế có lẽ chỉ cần tới một giờ đồng hồ. Chẳng qua tôi chỉ muốn hỏi ý kiến anh về việc trật bánh răng của một cỗ máy thủy lực mà thôi. Chỉ cần anh xác định chỗ bị hỏng hóc, thì tự chúng tôi sẽ mau chóng sửa chữa nó. Anh thấy thế nào?

- Xem ra công việc rất nhẹ nhàng, mà thù lao khá hậu hĩnh.

- Chúng tôi muốn mời anh đến trên chuyến tàu cuối cùng đêm nay.

- Đến đâu cơ chứ?

- Đến Eyford thuộc Berkshire. Đó là vùng đất nhỏ tiếp giáp với Oxfordshire, cách Reading chưa tới bảy dặm. Có một chuyến tàu từ Paddington sẽ đưa anh tới đó vào khoảng 11 giờ 15 phút.

- Hay quá !

- Tôi sẽ ra ga đón anh.

- Vậy là còn phải đi xe thêm một quãng đường nữa à?

- Phải, khu vực của chúng tôi thuộc vùng nông thôn, cách ga Eyford khoảng bảy dặm.

- Như vậy là chúng ta khó mà đến nơi trước nửa đêm. Tôi đoán là không thể bắt kịp chuyến tàu quay về. Vậy thì tôi bắt buộc phải qua đêm ở đó rồi.

- Vâng, chúng tôi sẽ sắp xếp chỗ nghỉ đêm cho anh.

- Thế thì không tiện cho lắm. Chúng ta không thể đi vào lúc nào đó thuận tiện hơn sao?

- Chúng tôi đã sắp xếp anh đến vào buổi đêm là tốt nhất. Chính vì để bồi thường cho những bất tiện mà anh gặp phải, chúng tôi mới chi nhiều tiền ra như thế để trả cho một người trẻ tuổi chưa có tiếng tăm như anh chứ. Cái giá này đủ để thỉnh giáo một người xuất sắc nhất trong nghề của các anh đấy. Dĩ nhiên, nếu anh muốn từ chối cơ hội làm ăn này thì bây giờ vẫn còn kịp mà.

“Tôi nghĩ tới năm mươi ghinê và món tiền ấy sẽ có ích cho tôi như thế nào.

- Ồ, tôi không có ý đó. - Tôi nói - Tôi rất vui lòng làm theo nguyện vọng của ông. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn biết rõ hơn một chút, là ông muốn tôi làm cụ thể việc gì.

- Phải, chúng tôi đã đòi hỏi anh phải đảm bảo giữ được bí mật, hẳn điều này đã gợi tò mò cho anh. Chúng tôi không định buộc anh làm một việc mà lại không cho anh biết trước về nó. Tôi muốn biết chắc chắn, hoàn toàn không có người nào đang nghe trộm chứ?

- Chắc chắn là không một ai!

- Vậy thì chuyện là thế này, có lẽ anh cũng biết, loại đất sét có ở đó là một loại khoáng sản vô cùng quý hiếm. Ở Anh mới chỉ có hai nơi phát hiện ra.

- Tôi đã từng nghe nói đến.

- Cách đây không lâu, tôi mua một miếng đất rất nhỏ ở một nơi cách Reading không tới mười dặm. Tôi may mắn phát hiện ra rằng, trong mảnh đất ấy có mỏ đất sét rất quý. Thế nhưng sau khi thăm dò, tôi thấy mỏ này khá nhỏ, lại nối tiếp với hai cái mỏ to hơn nhiều ở hai mảnh đất liền kề thuộc sở hữu của những người hàng xóm. Nhưng những người lương thiện ấy lại không hề biết rằng có một loại khoáng sản quý như vàng đang ẩn giấu trong lòng đất của họ. Đương nhiên, phải nhanh tay mua lấy chúng trước khi họ phát hiện ra giá trị thật của mảnh đất thì mới được giá rẻ. Thật không may là tôi lại bị thiếu tiền. Vì thế, tôi tập hợp một vài người bạn và nói cho họ biết bí mật đó. Họ mách nước rằng chúng tôi nên thầm lặng và bí mật khai thác cái mỏ nhỏ bé ấy trước đã, và bằng cách này dần gom đủ tiền để mua lại đất của hàng xóm. Cho đến giờ, chúng tôi đã tiến hành theo cách đó được một thời gian rồi. Nhằm làm cho công việc được thuận lợi hơn, chúng tôi đã lắp đặt một cái máy nén thủy lực như tôi đã nói lúc đầu. Cái máy này bỗng dưng giở chứng, chúng tôi hy vọng sẽ có được sự chỉ dẫn chuyên môn từ phía anh. Chúng tôi bảo vệ bí mật ấy rất cẩn trọng. Nếu có ai đó biết được rằng chúng tôi mời kỹ sư thủy lực đến thì chỉ tổ gợi trí tò mò của mọi người. Lúc ấy, sự thật nhất định sẽ bị lộ, cơ hội giành được khu đất và kế hoạch của chúng tôi sẽ tan thành mây khói. Đấy chính là lý do vì sao tôi muốn anh hứa sẽ không tiết lộ cho ai biết là tối nay anh phải đến Eyford. Hy vọng là tôi đã nói rõ mọi chuyện, và anh thấy thoải mái chứ?

- Tôi hiểu, tôi hiểu. - Tôi nói - Chỉ có một điều duy nhất tôi không rõ lắm, đó là máy nén thủy lực thì có liên quan gì tới chuyện đào đất sét? Theo tôi biết, đào đất sét cũng giống như đào cát sỏi từ trong hầm lò mà.

- À, chúng tôi có cách riêng, chúng tôi ép đất thành những viên gạch mộc, để khi vận chuyển sẽ không bị lộ chúng là thứ gì. Nhưng đó chỉ là chi tiết vụn vặt thôi. Rồi tự anh sẽ biết toàn bộ bí mật, anh Hatherley ạ! Và anh thấy rồi đó, là tôi tin tưởng anh như thế nào. - Ông ta vừa đứng dậy vừa nói - Vậy thì 11 giờ 15 phút gặp nhau ở Eyford nhé.

- Chắc chắn tôi sẽ tới đó.

- Tuyệt đối không được cho ai biết! - Cuối cùng, ông ta lại nhìn trừng trừng vào tôi rất lâu bằng con mắt đầy nghi ngờ. Sau đó, ông ta chìa bàn tay lạnh và ướt ra bắt tay tôi, rồi vội vã ra khỏi phòng.

“Sau đó, như hai vị có thể hình dung được, khi tôi bình tĩnh lại, suy xét toàn diện về chuyện ấy, tôi cảm thấy vô cùng ngạc nhiên trước sự ủy thác mà họ dành cho tôi. Đương nhiên, một mặt tôi rất vui, vì nếu như tôi tự định giá cho nhiệm vụ của mình thì ắt sẽ thấp hơn mười lần so với số tiền thù lao hậu hĩnh mà họ trả. Hơn nữa, rất có thể nhiệm vụ lần này sẽ dẫn tới một số công việc sau này. Mặt khác, thái độ và diện mạo của vị khách đó đã tạo cho tôi một ấn tượng chẳng hề dễ chịu. Tôi cảm thấy sự giải thích của ông ta về thứ đất sét quý không đủ để chứng minh rằng tôi nhất thiết phải đi vào ban đêm, cũng không đủ thuyết phục vì sao ông ta lo lắng đến vậy, nơm nớp sợ tôi sẽ kể cho người khác biết. Dù thế nào đi nữa thì tôi cũng đã kìm nén mọi nỗi lo lắng sợ hãi, ăn một bữa tối thật no, rồi bắt xe đi Paddington và bắt đầu thực thi nhiệm vụ được giao nghiêm ngặt, giữ mồm giữ miệng.

“Ở Reading, tôi không những phải đổi xe mà còn phải đổi trạm. Thế nhưng tôi cũng vừa kịp bắt chuyến tàu cuối cùng tới Eyford. Sau 11 giờ, tàu đã tới cái trạm xe lửa nhỏ bé và ảm đạm ấy. Tôi là hành khách duy nhất xuống tàu. Ngoài một công nhân đường sắt cầm cái lồng đèn với dáng điệu mệt mỏi ra, thì đường ke vắng ngắt không một bóng người. Tuy nhiên, khi ra khỏi cửa soát vé, tôi đã thấy người khách sáng nay đang đứng chờ tôi ở một chỗ tối tăm không có ánh đèn. Chẳng nói chẳng rằng, ông ta tóm tay tôi, kéo về phía chiếc xe ngựa với cánh cửa đã mở sẵn. Ông ta kéo kín cửa sổ hai bên, đập vào thành xe, con ngựa kéo xe lao vút đi…”

- Chỉ có một con ngựa thôi à? - Đột nhiên Holmes chen ngang câu chuyện.

- Đúng, chỉ có một con thôi.

- Anh có quan sát màu lông của nó không?

- Có, qua ánh sáng khi bước vào khoang xe, tôi thấy đó là một con ngựa màu hạt dẻ.

- Con ngựa trông mỏi mệt hay khỏe khoắn?

- Ồ, nó rất khỏe mạnh với bộ lông bóng mượt.

- Cám ơn! Xin lỗi đã ngắt lời khi câu chuyện đang rất thú vị. Mời anh kể tiếp!

- Thế là kể từ lúc khởi hành, xe ngựa đã đi ít nhất là một tiếng đồng hồ. Đại tá Lysander Stark nói là chỉ có bảy dặm, nhưng tôi cảm thấy với tốc độ xe chạy và khoảng thời gian thì chắc chắn phải gần mười hai dặm. Trong suốt cuộc hành trình, ông ta chỉ ngồi im lặng bên cạnh tôi. Một đôi lần tôi liếc thấy ông ta đang nhìn chằm chằm vào tôi. Có vẻ như đường nông thôn ở đó không được tốt lắm, vì xe chúng tôi lắc lư nghiêng ngả và xóc khủng khiếp. Tôi cố hết sức nhìn ra ngoài, muốn xem chúng tôi đã đến đâu rồi. Nhưng cửa sổ kính kín hơi sương nên ngoài những ánh đèn mờ mờ ảo ảo khi xe lao qua, thì chẳng nhìn thấy gì cả. Thỉnh thoảng tôi nói vài câu để phá vỡ sự buồn tẻ của cuộc hành trình, nhưng đại tá chỉ đáp nhát gừng. Vì thế cũng chẳng nói được gì mấy. Cuối cùng, hết những đoạn đường gập ghềnh, xe ngựa đã đi sang đoạn đường lát đá êm và sáng sủa rồi dừng lại. Đại tá Lysander nhảy xuống xe, tôi theo sau, ông ta đột nhiên kéo tôi chui ngay vào một cái cổng có mái với cánh cửa đang mở. Dường như chúng tôi vừa bước ra khỏi xe là vào ngay đại sảnh. Vừa bước qua ngưỡng cửa thì cánh cửa đã đóng rầm một tiếng sau lưng tôi. Tôi láng máng nghe thấy tiếng bánh xe lăn khi cỗ xe rời đi.

“Trong nhà tối om, đại tá mò mẫm tìm diêm và cằn nhằn đầy bực bội. Lúc này, cánh cửa đầu kia hành lang bỗng nhiên mở ra. Một luồng ánh sáng dài màu vàng chiếu về phía chúng tôi, ánh đèn càng lúc càng sáng. Rồi chợt xuất hiện một người phụ nữ, tay cầm một cái đèn, giơ lên trước mặt. Cô ta vươn người về phía trước, nhìn chúng tôi chằm chằm. Tôi thấy rõ, cô ta rất xinh đẹp. Ánh đèn chiếu vào chiếc áo liền váy màu đen của cô, do ánh sáng phản xạ lại, tôi thấy đó là loại vải sang trọng mà các quý bà quý cô giàu có vẫn thường dùng. Cô ta nói vài từ tiếng nước ngoài, nghe có vẻ như đang hỏi gì đó. Khi người cùng đi với tôi đáp lại nhát gừng và gắt gỏng, cô ấy rất kinh ngạc, suýt đánh rơi cái đèn trong tay. Đại tá Stark bước đến bên cô, thì thầm gì đó vào tai cô, sau đó đẩy cô trở lại căn phòng mà cô vừa đi ra. Rồi ông ta cầm đèn bước về phía tôi.

- Có lẽ anh phải đợi trong căn phòng này vài phút nữa. - Ông ta nói và mở một cánh cửa khác. Đây là một phòng chứa đồ nhỏ và yên tĩnh, giữa phòng có một cái bàn tròn, trên bày lộn xộn vài quyển sách tiếng Đức. “Đại tá Stark đặt cái đèn lên tít trên nóc giá sách.

- Tôi sẽ không bắt anh chờ lâu đâu. - Nói xong, ông ta biến mất trong bóng tối.

“Tôi nhìn qua mấy quyển sách trên bàn, mặc dù không hiểu nhiều tiếng Đức, tôi cũng có thể nhận ra được hai quyển trong số đó là sách khoa học, những cuốn còn lại là thơ. Rồi nhìn phía cửa sổ, tôi hy vọng có thể thấy đôi chút cảnh tượng nông thôn. Nhưng cái cửa chớp bằng gỗ sồi rất chắc đã chặn kín cửa sổ lại. Trong phòng im lặng lạ thường. Một cái đồng hồ ở đâu đó trong hành lang đang kêu tích tắc, tích tắc. Ngoài nó ra, mọi thứ đều im lặng như ở dưới mồ. Một cảm giác bất an mơ hồ dần dần xâm chiếm tôi. Những người Đức này là ai? Họ chọn vùng nông thôn hẻo lánh này để cư trú là muốn giở trò gì? Đây là đâu? Tôi chỉ biết chỗ này cách Eyford khoảng mười dặm, nhưng không phân biệt nổi là về phía nào cả, đông tây hay nam bắc… Xét về vị trí địa lý thì có lẽ Reading cũng có những thị trấn khác nằm trong phạm vi bán kính ấy, do đó chỗ này chắc cũng không hẻo lánh lắm. Thế nhưng ở đây thật là vắng lặng, có thể khẳng định chắc chắn là chúng tôi đang ở vùng thôn quê. Tôi đi đi lại lại trong căn phòng, khe khẽ ngân nga một khúc nhạc để lấy dũng khí, và cảm nhận là tôi đến đây hoàn toàn vì năm mươi ghinê tiền thù lao kia.

“Đột nhiên cửa phòng bật mở ra, trước đó tôi không hề nghe thấy tiếng động gì. Cô gái lúc nãy đứng ở cửa, đằng sau tối om. Ánh đèn vàng mờ mờ của phòng tôi chiếu lên khuôn mặt xinh đẹp và đầy khẩn thiết của cô ấy. Chỉ thoáng nhìn một cái, tôi đã thấy ngay sự hoang mang lo sợ của cô, cảnh tượng ấy khiến tôi lạnh toát cả người. Cô giơ một ngón tay lên ra hiệu cho tôi không được nói gì, rồi mau chóng nói với tôi vài câu tiếng Anh lơ lớ, mắt liếc nhìn cuống quýt về bóng tối phía sau, giống như mắt của con ngựa non vừa bị nạn.

- Anh hãy chạy đi. Chẳng có gì tốt đẹp cho anh làm đâu. - Cô ấy nói. Xem ra cô ấy đang cố trấn tĩnh.

- Nhưng thưa cô, tôi vẫn còn chưa làm việc cần làm. Ngó xem cái máy xong, tôi mới có thể rời khỏi đây được.

- Không đáng để anh phải chờ đợi đâu. - Cô ấy hốt hoảng nói tiếp - Anh có thể đi ra từ cửa này, sẽ không có người canh gác.

“Cô thấy tôi mỉm cười lắc đầu thì bỗng nhiên trút bỏ hết mọi sự dè dặt, bước lên mấy bước, hai tay đan chặt vào nhau.

- Vì Chúa! - Cô thì thầm - Bây giờ vẫn còn kịp đấy, mau chạy trốn đi!

“Thế nhưng bẩm sinh tôi vốn rất bướng bỉnh, khi làm việc gì mà gặp khó khăn, tôi sẽ càng gắng sức hơn. Tôi nghĩ tới khoản thù lao, cuộc hành trình mệt mỏi và còn buổi tối không lấy gì làm dễ chịu đang diễn ra trước mặt tôi đây. Lẽ nào lại phải bỏ đi, để phí hoài…? Vì sao lại không thực thi nhiệm vụ họ ủy thác và nhận khoản thù lao xứng đáng ấy, mà phải lén lút bỏ đi? Theo tất cả những gì tôi thấy, có lẽ cô ấy không được tỉnh táo lắm. Vì thế, dù thái độ của cô ấy tác động đến tôi cũng rất mạnh mẽ, nhưng tôi vẫn kiên định vẫn lắc đầu, tỏ ý tôi muốn ở lại và làm việc cần làm. Đúng lúc cô ấy lại đang định khẩn cầu tôi thêm lần nữa thì chợt có tiếng đóng cửa từ tầng trên vọng xuống rất rõ, tiếp đó là những bước chân đi xuống cầu thang. Cô gái lắng nghe giây lát, rồi giơ hai tay lên tỏ vẻ tuyệt vọng, và giống như lúc đến, đột nhiên biến mất lặng lẽ.

“Đại tá Lysander Stark và một người béo lùn với đám râu màu nâu mọc vô tổ chức trên cái cằm chẻ bước vào. Đại tá giới thiệu với tôi, đó là ông Ferguson.

- Đây là thư ký kiêm quản lý của tôi. - Đại tá nói - Nhân tiện xin hỏi, tôi nhớ lúc nãy tôi đã đóng cửa cơ mà. Tôi lo là gió lùa vào, không tốt cho anh.

- Hoàn toàn ngược lại. - Tôi đáp - Chính tôi mở cửa đấy, vì tôi thấy căn phòng này hơi ngột ngạt.

“Ông ta nhìn tôi đầy ngờ vực.

- Vậy thì chúng ta hãy bắt tay ngay vào việc đi! Ông Ferguson và tôi đã chuẩn bị dẫn ông lên trên xem xét chiếc máy.

- Tôi nghĩ là nên đội mũ vào.

- Ồ! Không cần đâu, chỉ ở trong ngôi nhà này thôi mà.

- Cái gì? Các ông đào đất sét ở trong nhà à?

- Không! Không! Đây chỉ là chỗ chúng tôi ép gạch mộc thôi. Nhưng điều này không quan trọng. Chúng tôi chỉ cần anh kiểm tra cỗ máy một chút, rồi cho chúng tôi biết nó hỏng ở đâu thôi.

“Chúng tôi cùng nhau lên tầng trên, ông đại tá xách đèn đi trước, viên quản lý thấp béo và tôi theo sau. Tôi đang ở trong một mê cung của căn nhà cổ có rất nhiều hành lang, với vô số đường ngang lối tắt cùng chiếc cầu thang xoắn ốc rất hẹp và những cánh cửa thấp nhỏ. Tất cả các ngưỡng cửa đã bị những bước chân của nhiều thế hệ giẫm lên nên lõm hẳn xuống. Trên sàn nhà của tầng gác thứ nhất không có thảm, cũng không có dấu vết của đồ đạc gia đình, tường vôi bong tróc, những mảng rêu màu xanh bẩn thỉu vẫn đang tỏa ra mùi ẩm mốc. Tôi cố làm ra vẻ không hề để ý đến những gì không liên quan, nhưng tôi không thể quên lời cảnh báo của cô gái ấy, dẫu trước đó đã không coi nó là gì. Tôi cũng lưu tâm tới hai vị đồng hành. Nhìn bộ dạng thì Ferguson là một gã đàn ông lầm lì, nhăn nhó, nhưng chỉ qua vài câu nói của ông ta, tôi có thể đoán được đó là một nông dân Anh.

“Cuối cùng, đại tá Stark dừng lại trước một cánh cửa thấp, không khóa. Phía trong là một căn phòng vuông hẹp tới mức ba người chúng tôi không thể vào cùng lúc được. Ferguson đứng ngoài, đại tá dẫn tôi vào.

- Chúng ta, - Đại tá nói - giờ đây đang đứng trong cỗ máy nén thủy lực. Nếu có ai đó khởi động máy thì sẽ không hay chút nào. Trần của căn phòng nhỏ này chính là mặt dưới của pittông và nó lao xuống sàn nhà bằng kim loại này với áp lực khá lớn đấy. Phía ngoài có một số ống nước nhỏ nằm ngang, sau khi tiếp nhận áp lực, nước sẽ truyền và gia tăng áp lực theo cách mà ông đã biết. Cái máy này rất dễ vận hành, nhưng khi vận hành không được linh hoạt lắm, gây lãng phí một phần áp lực. Xin hãy xem xét kỹ, rồi cho chúng tôi biết phải làm thế nào mới sửa được nó.