Bố già trở lại - Phần II - Chương 03 - Phần 1

PHẦN II

Tháng chín 1955

Chương 3

Bốn tháng sau, vào một sáng sớm chủ nhật trùng với Lễ Lao động, Michael Corleone nằm trong giường nhà mình ở Las Vegas, vợ chàng nằm bên cạnh, hai đứa con ngay ở cuối phòng, đều có vẻ còn ngủ say. Hôm qua ở Detroit, vào dịp đám cưới ái nữ của ông bạn thân nhất của người cha quá cố, Michael đã chỉ gật đầu rất nhẹ về phía Sal Narducci, một người mà ông chỉ biết sơ qua, để khởi động một kế hoạch được thiết kế nhằm hủy diệt mọi đối thủ đáng gờm mà Gia đình Corleone còn phải đương đầu. Dầu cho có phải “đại khai sát giới” nhưng nếu kế hoạch vận hành trơn tru, Michael sẽ nổi lên mà không có lời chê bai nào. Nếu được thực hiện chỉn chu, kế hoạch này sẽ mang lại hòa bình lâu dài cho thế giới ngầm ở Hoa Kỳ, và chiến thắng sau cùng - dầu cho có đẫm gió tanh mưa máu - để làm cho Gia đình Corleone “vạn niên trường trị, nhất thống giang hồ”, đang nằm trong tầm tay. Một thoáng nụ cười lướt nhẹ qua khuôn mặt đã được chỉnh sửa bằng phẫu thuật của Michael Corleone. Hơi thở chàng đều và sâu. Đầu óc chàng không vậm động, không nao núng, cũng chẳng ưu tư xao xuyến gì, trầm mình trong không khí mát lạnh của căn nhà mới, thụ hưởng giấc ngủ êm đềm của người... công chính! Ngoài kia, ngay cả trong ánh sáng ban mai còn nhạt nhòa, sa mạc Nevada đã bắt đầu nóng nung lên.

Gần bên bờ đầy dầu của con sông Detroit, hai con người chậm chạp mặc sơ-mi lụa ngắn tay - một người áo màu ngọc xanh biển, người kia áo màu cam đỏ tươi - đi ra từ căn chòi khách của một bất động sản thuộc về Joe Zaluchi, Ông Trùm của Detroit, con người đã từng cứu cho thành phố này khỏi bạo lực vô lối của Băng đảng Màu Tím (Purple Gang). Người mặc áo màu cam là Frank Falcone, trước đây ở Chicago và hiện nay là đầu sỏ của tội ác có tổ chức ở Los Angeles. Còn kẻ mặc áo lụa màu ngọc xanh biển là Tony Molinari, đối tác của tay kia ở San Francisco. Đằng sau họ, hai người mặc áo khoác đi theo, mỗi người xách hai chiếc va li, mỗi chiếc đựng, trong số những đồ vật khác, một chiếc áo tuxedo (giống áo jacket) mặc vào dịp lễ cưới tối qua giữa hai nhà Clemenza và Zaluchi. Mặt nước đầy cá chết. Từ trong ga-ra, môt chiếc limousine chạy trờ đến để đón họ. Khi chiếc limo vọt ra đường phố, một xe cảnh sát chạy theo sau. Tay cớm này lãnh lương của Zaluchi.

Tại Sân bay Thành phố Detroit, họ quẹo xuống một con đường nhánh và lái xe dọc theo một tường rào cho đến khi tới một cái cổng ghi chữ CHỈ XE KHẨN CẤP THÔI. Chiếc xe cảnh sát dừng lại. Chiếc limo tiếp tục chạy thẳng vào đường nhựa. Hai người mặt đồ lụa bước ra, hút cà phê từ mấy cái li giấy. Các vệ sĩ của họ luyện mấy thế Karate.

Một chiếc máy bay lăn bánh về phía họ mang logo của một hãng đóng gói thực phẩm mà Michael Corleone có cổ phần ngầm nhưng kiểm soát. Logo mang hình mặt nghiêng của một sư tử. Tên trên giấy khai sinh của phi công là Fausto Dominick Geraci Jr., nhưng giấy đăng kí gắn nơi kính chiếu hậu lại ghi tên “Gerald O’Malley”. Kế hoạch bay vẫn để trống. Geraci có tay trong ở tháp kiểm soát không lưu. Tại mọi sân bay trên khắp nước Mỹ, Geraci được quyền sử dụng những máy bay mà trên giấy tờ không thuộc về chàng ta.

Dưới ghế ngồi của phi công là một bao đầy tiền mặt. Những đám mây báo bão phủ đầy bầu trời phía tây.

Bên kia dòng sông, cửa vào phòng 14 của Lữ quán Happy Wanderer mở ra. Ngồi trong đó là Fredo Corleone, người anh em mới được bổ nhiệm sotto capo của Michael. Anh ta đang nhìn ra hướng đến chỗ đậu xe. Anh ta không thấy có ai lảng vảng quanh đó. Anh ta chờ một chiếc xe cà tàng đổ xịch lại, phát ra tiếng xình xịch đủ to để đánh thức một người dậy. Fredo chợt nhận ra có gì nổi lên trên giường đằng sau anh, nhưng điều cuối cùng mà anh ta sắp làm là quay nhìn lại phía sau.

Cuối cùng, thấy đã đến lúc an toàn, không có nguy cơ bị phát hiện, Fredo kéo chiếc mũ chóp bằng vành cong sụp xuống tận mắt, khép cánh cửa lại đằng sau mình và chạy nhanh đến góc phố, xuống một con đê, băng qua một rạp hát đầy những li giấy uống nước và những bịch đựng bắp rang vứt ngổn ngang. Những bịch đựng bắp được trang trí bằng hình anh hề mập mặt đồ màu xanh, đầu tóc dựng đứng, mặt méo mó thành những nụ cười ranh mãnh, tinh quái. Chiếc mũ không phải của chàng. Có lẽ nó thuộc về anh chàng trong phòng nọ hoặc là đến từ một trong những nơi dừng chân của Fredo tối qua. Và cũng có thể nó thuộc về một trong những cận vệ của chàng. Bọn họ là những người mới, còn xa lạ với chàng. Đầu óc chàng chao đảo. Chàng vỗ vào mọi túi áo, túi quần. Chàng đã bỏ lại thuốc lá trong phòng. Và cả bật lửa nữa. Chiếc bật lửa là một quà tặng từ Mike, được cẩn đá quý, xuất xứ từ Milan, và được chạm dòng chữ CHRISTMAS 1954, nhưng không ghi tên ai, dĩ nhiên rồi. Đừng bao giờ lưu lại tên bạn trên bất kì thứ gì, ông via của chàng ngày xưa vẫn thường dặn dò như thế. Trong lúc nghĩ lan man như vậy, Fredo vẫn không ngừng sải bước. Thôi bỏ đi, kệ mẹ nó. Chàng ta nhảy qua một rãnh nước đầy bùn sình và chạy lúp xúp qua chỗ đậu xe của một tòa nhà cao tầng gồm nhiều căn hộ. Chàng đã giấu chiếc xe Lincoln mà Zaluchi cho chàng mượn khuất sau một lò thiêu rác. Chiếc áo khoác của chàng quấn lại nơi ghế ngồi đằng sau cùng với một cái sơ-mi bằng sa-tanh màu vàng không phải của chàng và một chai whisky. Món này thì đúng là của chàng.

Chàng bước vào. Chàng vớ chai whisky, tợp mấy ngụm rồi ném chai rượu lên ghế hành khách kế bên. Có lẽ, chàng nghĩ, đã đến lúc nên uống rượu tiêu sầu rồi đây. Và còn điều kia nữa. Ôi lạy Chúa! Do đâu mà một chuyện bạn rất muốn làm như thế lại có vẻ kinh tởm đến thế ngay sau khi bạn mới vừa làm xong chuyện đó? Chàng cũng sẽ rũ sạch chuyện đó. Khá dễ dàng để bắt đầu hôm nay, về nhà ở Las Vegas, nơi chàng nổi tiếng là con người đào hoa, nịnh đầm rất khéo, đốn các em ngã như rạ, nơi mà thành phố quá nhỏ khiến chàng không thể có được điều kia. Chàng rồ ga và lái xe đi như thể chàng là một ông già ngoan đạo người Canada trên đường đi lễ nhà thờ. Mặc dầu tại một chỗ đèn dừng chàng đã với chai whisky và làm một hơi cạn sạch. Chàng nhấn hết ga và tăng tốc, chạy như bay đến Vega. Trời bắt đầu mưa. Chỉ khi bật cần gạt nước chàng mới nhận thấy có một tờ giấy nơi cửa ghế hành khách, có lẽ là một tờ bướm hay thứ gì đại loại như vậy.

Trở lại với bóng tối của phòng 14 Lữ quán Happy Wanderer, anh chàng trần truồng trên giường thức giấc. Anh ta là một nhân viên mại vụ cung cấp cho các nhà hàng khách sạn từ Dearborn, có vợ, hai con. Anh ta dời chiếc gối ôm khỏi đũng quần và đứng lên. Anh ta ngửi các đầu ngón tay. Anh ta dụi mắt. “Troy?” anh ta lên tiếng gọi. “Này, Troy? Ối dào, cái gì thế này. Không làm lại nữa hả, Troy? Rồi anh ta thấy cái bật lửa. Anh ta thấy khẩu súng của Troy. Đó là một khẩu Colt 45. Anh chàng trần truồng này trước nay chưa từng đụng đến một khẩu súng thực bao giờ. Anh ta ngồi lại xuống giường. Anh ta thấy kiệt sức. Anh ta bị tiểu đường. Ở nơi nào đó hẳn là phải có những quả cam. Anh ta nhớ lại Troy đã cho người pha chế rượu 50 đô la để đi vào bếp và lấy ra một giỏ cam. Anh ta đã ăn hết ba quả cam ngay tại quầy ba, trong khi Troy đi đến cửa chính và nhìn ra ngoài phố chờ cho đến khi anh ta ăn xong và các vỏ cam được dọn đi. Anh ta không thể nhớ lại điều gì đã xảy ra cho phần còn lại của giỏ cam.

Tim anh ta thót lại và mồ hôi túa ra. Anh gọi điện cho phòng tiếp tân và yêu cầu phục vụ buồng. “Ông nghĩ ông đang ở đâu?”, nhân viên tiếp tân hỏi. “Khách sạn Ritz hả?” Câu hỏi hay đấy. Mình đang ở đâu nhỉ? Anh ta muốn hỏi, nhưng trước tiên anh ta phải làm điều gì đó về số tiền của mình. Có đồ ăn thức uống gì không? Anh ta hỏi. Một máy bán hàng hay cái gì đó? Dầu sao anh ta có thể bảo nhân viên tiếp tân mang vào cho mình, ít ra là một miếng bánh, chẳng hạn thế? “Bộ chân ông gãy rồi sao?” anh chàng tiếp tân hỏi móc. Người bán hàng nói rằng mình sẽ trả năm đô để có một miếng bánh giao tận phòng. Anh chàng tiếp tân nói anh ta sẽ đến ngay.

Người bán hàng cần gọi vợ mình. Chuyện này từng xảy ra trước đây. Anh ta đã nói rằng đó là với một cô thư kí. Anh ta đã hứa với vợ sẽ không tái phạm. Anh ta bắt đầu quay số rồi nhận ra rằng mình cần đến nhân viên tiếp tân để tiếp cận đường dây gọi ra ngoài. Nhân viên tiếp tân hẳn đã đi ra ngoài để mua bánh.

Anh chàng này có một việc làm tốt, vợ hiền con ngoan, nhà cửa tươm tất. Anh ta lại mới được kết nạp vào Phù luân hội. Vậy mà anh ta lại ở đây, sau một đêm bù khú với mấy thành phần bất hảo đường phố, làm những chuyện ấy, rồi thức dậy vào một buổi sáng chủ nhật trong một nơi chốn như thế này đây.

Anh ta lại ngồi dậy đi tìm mấy quả cam. Thật không may. Anh ta thấy quần của mình nhưng lại không thấy cái áo sơ-mi màu vàng của mình ở đâu. Anh ta cũng không thể tìm ra cái mũ chóp bằng vành cong lên của mình. Anh ta không nhớ tên cái quán rượu nhếch nhác nơi mình đã để lại chiếc xe. Anh ta sẽ phải kêu taxi về nhà, không có áo sơ-mi, rồi nhờ vợ lái xe đưa mình chạy lòng vòng mấy khu láng giềng lụp xụp đi tìm chiếc xe bỏ quên ở nơi nào không nhớ. Có khác nào mò kim đáy bể. Thế thì mua một chiếc xe mới có lẽ là dễ hơn.

Anh ta chộp lấy khẩu súng.

Khẩu Colt nặng hơn anh ta tưởng. Anh ta vuốt ngón tay dọc theo nòng súng. Anh ta há miệng. Anh ta để mũi súng lên lưỡi mình và giữ yên ở đó.

Anh ta nghe tiếng rít hãm lại của các bánh xe ở bên ngoài. Đó là một chiếc xe lớn, anh ta có thể khẳng định như thế từ âm thanh của cửa xe đóng sầm lại. Hẳn là Troy. Trở lại vì anh ta. Rồi cửa xe thứ nhì đóng lại.

Hai người.

Họ đều đến từ Chicago. Nhưng họ không đến vì anh ta, mặc dầu anh chàng trần truồng kia không biết điều đó. Họ đã theo dõi anh ta từ nhiều giờ rồi, điều này anh ta cũng không hề biết. Anh chàng trần truồng kéo khẩu Colt ra khỏi mồm, đứng lên và chĩa mũi súng vào cánh cửa. “Hẹn gặp nhau ở Địa ngục!” anh ta thì thầm. Anh đã nghe ai đó nói câu đó trong phim. Anh ta chẳng phải là một tên côn đồ hung bạo, nhưng với mấy ngón tay nắm vòng báng súng cẩn ngọc trai của khẩu súng sáu kia anh ta thấy thích mê nó.

Ở Hollywood, Florida, dưới chỗ đậu xe của ngôi nhà màu san hô, nơi cô gái đã sống từ khi cha cô, Sonny, chết vì tai nạn xe cộ (cô chẳng có lí do nào để tin bất kì điều gì khác hơn là những gì mà người thân đã nói cho cô), Francesca Corleone nhấn còi xe của mẹ cô liên tục cả mười giây. “Dừng đi”, Kathy, chị em sinh đôi của cô nói, vừa bò qua chỗ ngồi phía sau, đang đọc một quyển tiểu thuyết Pháp trong nguyên tác. Kathy đang hướng tới Đại học Barnard. Cô muốn trở thành bác sĩ giải phẫu. Francesca đang đến bang Florida, thủ phủ Tallahassee, với mong muốn cháy bỏng là thoát ra khỏi nhà để sống tự lập và tự chủ. Mặc dầu với mọi chuyện khủng khiếp đang diễn ra ở New York và làm thế nào mà khía cạnh đó của gia đình đã khiến cho tên tuổi gia đình cô phơi đầy trên các tờ báo, cho dầu tất cả có toàn là dối trá đi nữa, thì lúc này chẳng phải là thời điểm thuận lợi nhất để bắt đầu một cuộc sống mới. Kathy lại muốn vào đại học ở New York, một phần là để được gần mọi người trong gia đình ở đó. Giờ đây, dĩ nhiên, mọi người đã chuyển đi xa, trừ bà nội Carmela và cô Connie đáng sợ. Bề ngoài thì có vẻ như chú Carlo đơn giản là đã biến đi - một trong những anh chàng đi ra ngoài mua gói thuốc và chẳng hề quay lại: xử sự như thế quả là quá tệ, cho dầu với một con người đáng tởm như chú ấy, nhưng Francesca phải thừa nhận rằng bất kì ai lấy cô Connie cũng phải xem xét cẩn thận chuyện ấy. Kathy, đặc biệt là khi lên New York, có lẽ hàng ngày sẽ bị hạch hỏi, ngay cả bởi thầy cô của mình, rằng cô có liên hệ gì không với mấy ông găng-x-tơ nổi tiếng như cồn của nhà Corleones đó. Nếu mấy tháng vừa qua ở Hollywood không có chỉ định nào, Francesca có lẽ cũng phải chuẩn bị tinh thần cho chuyện này, ngay cả ở Tallahassee.

Mẹ cô, một bà đanh đá ưa kiểm soát chặt, đang lái xe chở cả hai cô con gái. Cầm lái! Đi New York! Tạ ơn Trời, Francesca sẽ xuống xe trước tiên. Cô lại bấm còi.

“Làm phiền quá!” Kathy càu nhàu.

“Làm như cô em đang thực sự đọc quyển sách đó vậy.”

Kathy trả lời bằng tiếng Pháp, chẳng biết có chuẩn không hay là tiếng Tây... giả cầy.

Francesca chưa học ngoại ngữ nào và dự định tránh né vấn đề bằng cách chọn tiếng Ý - mà thực ra cô ta cũng chỉ biết rất lơ mơ - hoặc định chọn ngành nào không đòi hỏi ngoại ngữ. “Chúng là là người gốcÝ”, Francesca nói.“Vậy tại sao em không học tiếng Ý?”

Sei una fregna per sicuro” Kathy trả lời.

“Nhanh mồm nhạy miệng đấy!”

Kathy nhún vai.

“Cô em có thể chửi thề bằng tiếng Ý”, Francesca nói mỉa, “nhưng cô em lại không đọc được tiếng Ý.”

“Tôi chẳng đọc được gì trừ phi cô làm ơn câm miệng giùm.”

Mẹ của chúng ở cửa kế bên nơi nhà của ông bà nội, và đã ở đó từ rất lâu đưa ra những khuyến cáo vào phút cuối về chuyện ăn ở, học hành cho hai cậu em của Francesca và Kathy là Frank, mười lăm tuổi và Chip, mười tuổi. Tên thực của Chip là Santino Jr. và cho đến khi cậu bé trở về nhà sau buổi tập bóng chày vào một ngày của mùa hè này và thông báo rằng từ nay cậu ta sẽ chỉ trả lời khi ai gọi “Chip”, thì cậu được gọi bằng cái tên “Tino”. Francesca có thể cũng sẽ làm như thế. Cô có thể vào đại học và lấy tên khác. Fran Collins, Franny Taylor, Frances Wilson, thí dụ thế. Cô có thể nhưng cô sẽ không làm như vậy. Họ đã Mỹ hóa cách phát âm từ Cor-le-o-nay thành Cor-lee-own rồi, và như thế là đã thay đổi đủ rồi. Cô gái tự hào về tên họ mình, tự hào là người Ý. Cô tự hào là bố mình từng nổi loạn chống lại ông bố và những người anh em găng-x-tơ của mình và đã trở thành một doanh nhân hợp pháp. Dầu sao thì tên của Francesca cũng sẽ thay đổi vào đúng thời điểm, khi cô tìm được tấm chồng ưng ý.

Francesca lại nhấn còi xe. Có chuyện gì mà ở trong đó lâu thế? Nonna và Poppa sẽ lờ đi mọi lời mà mẹ Franscesca nói. Những tay đó bỏ đi xa với vụ giết người, nhất là Frankie, nhất là một khi trận đấu bắt đầu. Francesca lại nhấn còi một lần nữa. Kathy càu nhàu: “Đừng làm mọi chuyện thêm rối, được không?” và Francesca giọng chịu đựng: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.” Kathy thở dài, theo kiểu chỉ một cô gái Mỹ mới có thể thở dài như thế. Một lát sau, cô dịu dàng mân mê đuôi tóc của Francesca. Hai chị em sinh đôi này suốt mười tám năm qua chưa từng có một đêm ngủ riêng.

Khách sạn và Casino “Lâu Đài Trên Cát” của Hal Mitchell không lúc nào đóng cửa. Trong những ngày này Johnny Fontane cũng bận rộn không ngừng, mỗi ngày hai sô và còn dành thời gian bù khú với những người thân thiết và cặp kè sát bên là hai em gà quốc tế loại chiến trông rất mướt. Một em là gà mái “gô-loa” tóc vàng từ Pháp sang chuyên nhảy “cuổng trời” theo giai điệu Tabu huyền bí, man rợ và mê hoặc của rừng thẳm Phi châu, từng xuất hiện trong một phim của Mickey Rooney quay ở đây năm rồi, bộ phim mà trong đó Mickey đóng vai người thăm dò khoáng sản trong sa mạc và rồi có một vụ thử bom khiến anh ta lãnh một liều lượng phóng xạ nhiều đến độ làm cho bất kì cái máy đánh bạc nào mà anh ta chạm đến cũng nhả tiền ra. Thế mà không có cảnh nào mà những tay đầu gấu “nựng” cho anh chàng này phải té đái vãi phân cả. Chuyện vô lí lãng xẹt như vậy mà thiên hạ vẫn khoái coi, kì thiệt! Nhưng nghĩ cho kĩ thì cũng chẳng có chi lạ. Vì chuyện phim này đã gãi ngứa đúng chỗ vào cái máu tham của con người luôn ao ước có được những đồng tiền dễ kiếm. Đơn giản là thế. Còn em kia là một nàng tóc nâu trông rất ngon xơi với đôi môi mọng bóng láng và ướt át, đôi mắt lẳng cực kì và nụ cười mời gọi mây mưa. Khi chàng Johnny mở lời, rất lịch sự tao nhã, hỏi xem có em nào cảm thấy có vấn đề khi lên giường không - Sao cơ? Cả ba chúng ta? - thì các em cười rúc rích và bắt đầu màn thoát y, sinh động và nhiệt tình. Em tóc nâu, tên là Eve, tỏ ra có năng khiếu nhạy bén về chuyện đó, biết chính xác khi nào thì đến lượt em tóc vàng mút cu cho anh Johnny (khi thấy kích cỡ của chú nhóc, cô nàng cười nhăn nhở và thì thầm, “Ối chà, đã quá!”) hay khi nào thì đến lượt em làm chuyện đó bên suối nước phun ở giữa phòng trong khi em tóc vàng dùng lưỡi xoa mông chàng. Eve biết lựa đúng thời điểm đẩy Johnny nằm ngửa xuống và thu xếp cho em tóc vàng bập vào cần số chàng còn nàng bắt đầu vê các đầu vú của em tóc vàng và hôn nàng ta. Cảnh tượng này kích thích mạnh Johnny khiến chàng ta phóng ra ào ạt trong cơn cực khoái. Đó là một món quà của lòng ưu ái để tặng cho thần tượng. Nàng tóc vàng, tên Rita (gọi tắt của Marguerite); chàng không bao giờ quên tên các em vào sáng hôm sau - vẫn còn nằm ngủ ở đó, khi chàng rời phòng để lên hồ bơi trên sân thượng. Chàng ném chiếc áo khoác ra và nhảy xuống phía sâu của hồ. Khi cú sốc qua đi, chàng lặn sâu trở lại, giữ hơi thở và đếm đến hai trăm theo nhịp năm, mười, mười lăm, hai mươi...

Đầu chàng đập thình thịch, mà không phải vì ở sâu dưới nước. Chàng cũng không uống nhiều như người ta nghĩ. Bí quyết? Đi từ bàn này đến bàn kia, tụ này đến tụ khác, để lại những li uống nửa chừng, mà không ai nhận ra, trong khi đồng thời nhận mọi li mời, điều mà mọi người đều thấy. Bất kì tay bợm rượu háo thắng nào muốn đọ sức li chọi li với chàng ta đều lãnh hậu quả là đổ gục nơi ghế sau taxi và được gởi về nhà, do sự ưu ái của Johnny Fontane! Chàng kiểm soát được việc nạp tửu lượng của mình. Chàng kiểm soát được việc mình làm và làm điều gì với ai.

Chàng trồi lên mặt nước. Chàng bơi mấy sải để khởi động, rồi hít vào một hơi dài và lặn xuống trở lại. Chàng lặp lại bài tập luyện này ba lần nữa và ra khỏi hồ nước. Ở đầu kia của mái che có một bảng thông báo: HÃY CHỨNG KIẾN TẬN MẮT! NHÌN THẤY RÕ BOM NGUYÊN TỬ NỔ TỪ LAS VEGAS! Bên dưới bức tranh một đám mây hình nấm màu cam đỏ tía, là thời điểm, bằng những con chữ chuyển động, ghi sáng ngày mai. Sáng sớm ngày mai. Johnny đã nghe là họ sắp xây một quán bar, một chỗ bán buffet điểm tâm với một loại bánh mì được đặt tên là Hoa Hậu Bom Nguyên Tử. Những ai sẽ chịu khó dậy thật sớm vào lúc rạng đông để nhìn xem một quả bom nổ cách đó sáu mươi dặm? Có lẽ là những kẻ nghĩ rằng nhờ đó mình sẽ sáng rực lên và điều khiển được những cái máy đánh bạc phải ói tiền ra cho mình tha hồ xài thỏa thích! Người ta muốn trả tiền để nhìn bom nguyên tử nổ, họ phải đi xem bộ phim mới rồi của Johnny. Chàng túm lấy chiếc áo khoác, bước xuống cầu thang hai bậc mỗi bước để trở vế phòng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay