Bố già trở lại - Phần II - Chương 10 - Phần 1

Chương 10

Frank Falcone đánh cá một trăm ngàn đô vào cuộc đấu tại võ đài Cleveland Armory. Lão ta sắp sửa phải ngồi cạnh võ đài, lão bảo Nick Geraci, cho dầu Geraci phải bơi vào bờ với Falcone thúc mạnh vào sau lưng. Don Forlenza đề nghị dùng một trong các chiếc thuyền của ông ta. Laughing Sal Narducci chỉ ra rằng những võ sĩ nặng cân hơn đã vào cuộc đấu. Không còn gì ngoài mấy chiếc thuyền câu không thích hợp để đi xa đến mức đó giữa biển khơi trong giông bão.

Đây chẳng phải là một chuyến bay dài: có lẽ chỉ độ mươi lăm phút. Geraci bảo họ đừng lo lắng gì, anh đã từng bay trong những điều kiện còn tệ hơn gấp trăm lần thế này - chuyện này dĩ nhiên chỉ là phét lác để trấn an thôi - và anh đến sửa soạn cho máy bay sẵn sàng cất cánh. Anh báo cho đài kiểm soát không lưu ở Sân bay Burke, nơi này ra một cảnh báo kiên quyết là không được cất cánh vào thời điểm này. Anh làm bộ không nghe thấy gì.

Chiếc máy bay hai động cơ chở theo Toni Molinari, Frank Falcone, Richard “Khỉ Cái” Aspromonte, Mancuso Tay trái, và viên phi công, chính thức trên danh sách là Gerald O’Malley, cất mình lên cao từ Đảo Rắn Rung chuông lao vào bầu trời đen kịt. Từ lúc họ lên máy bay, chuyến bay quả là một cuộc vật lộn với giông bão để sống còn. Phi công quá bận tâm đối phó với cơn giông quét qua đường bay nên không còn biết chắc là có chuyện gì trục trặc với nhiên liệu không. Có lẽ là không. Anh đã kiểm tra cả hai thùng đựng xăng trước khi cất cánh. Anh chuyển sang thùng xăng kia không phải vì muốn cẩn thận dự phòng nhưng bởi vì anh cần hướng tiêu điểm vào chuyện khác. Khi anh căng mắt, qua bầu trời đục như nước cháo, để tìm những ánh đèn từ Cleveland, anh nghĩ là mình nghe được tiếng động cơ đang khục khặc, lốp bốp, và không phải suy nghĩ, anh tự động chuyển đổi nguồn tiếp nhiên liệu và buột mồm nói ra điều gì đó cho tháp kiểm soát không lưu về chuyện phá hoại, điều mà trong những điều kiện này, sẽ khó để đánh giá, ngay cả với một phi công dày dạn kinh nghiệm gấp mười lần Geraci.

Chiếc máy bay thực hiện cuộc tiếp cận đầy rủi ro đến Cleveland. Những lời cuối của phi công gửi đến tháp kiểm soát là “Sono fottuto”. Dịch thẳng: “Tôi bị đéo rồi.”

Thế rồi, còn cách bờ độ một dặm, máy bay đâm sầm xuống mặt nước sủi đầy bọt của Hồ Erie.

Geraci từng bị va chạm thô bạo khi chơi bóng đá ở trường, và còn bị nặng hơn nhiều trên võ đài. Một lần nơi hồ Havasu, anh ngồi trong một thuyền cao tốc do bố anh lái và đâm vào một kè tàu bằng nhôm. Một cú va đập thật nặng nề, một cú đấm quá ư tàn bạo và chiếc thuyền cao tốc vỡ ra mà anh vẫn sống sót với đầy đủ đầu mình chân tay còn dính liền nhau quả là... nhờ phước đức mấy đời ông bà để lại! Song chuyện này cũng mới chỉ là... một nửa phần tệ hại so với việc tát vào mặt Hồ Erie bằng một chiếc máy bay với ta ngồi cầm lái chiếc máy bay đó!

Chiếc máy bay bật lên rồi lao xuống lại, cày một luống sâu vào lòng nước. Một lát sau, Geraci mới cảm nhận mình ở dưới nước. Cửa buồng lái bị hóc, không mở ra được. Anh rút đôi chân lên dùng hết sức tống mạnh cho thủng một lỗ lớn nơi tấm kính chắn gió trước mặt. Nước hồ hoàn toàn đen ngòm ùa vào. Trong lúc anh cố gắng chui qua cái lỗ, một bàn tay bấu chặt vào cánh tay anh. Tối đen nên chẳng biết đó là tay ai. Anh cố gắng lôi người ấy theo mình, xuyên qua cái lỗ nơi tấm kính chắn gió. Nhưng người kia bị kẹt lại. Nếu Gerari chịu trận thì cả hai đều sẽ chết. Anh sắp hết hơi thở. Sức bấu của bàn tay kia rất mạnh, các ngón tay cắm sâu vào da thịt cánh tay anh. Geraci nạy các ngón tay ấy ra, cảm nhận và nghe được các đốt xương kia gãy ra.

Geraci bơi xa khỏi xác chiếc máy bay đang chìm. Anh nghe ngóng âm thanh của tiếng mưa rơi nặng hạt để tìm hướng lên mặt nước. Phổi anh co thắt và yết hầu anh phập phồng một cảm giác tê tê, râm ran suốt hai cánh tay anh. Anh cảm nhận một cơn đau nhói nhức nhối, hầu như một cảm giác căng cứng, nơi đỉnh đầu. Anh sắp bị ngộp nước. Thôi thế là tiêu đời. Hãy có một tư tưởng cuối cùng tốt lành, một ý nghĩ cao cả, xứng đáng, nhưng tất cả những gì mà anh có thể nghĩ về chỉ còn là dòng nước bẩn thỉu kinh tởm này đây nơi anh sắp chết ngộp, chết chìm trong đó. Nhưng anh vẫn tiếp tục bơi. Mẹ anh xưa kia cũng thích bơi lắm. Mẹ ơi! Ô, đó là một ý nghĩ cuối cùng tốt lành. Anh yêu quý mẹ. Bà là một hiền mẫu, một hiền phụ. Anh có thể thấy bà. Bà còn trẻ hơn cả khi anh thấy bà lần cuối. Bấy giờ bà đang nhâm nhi li martini và đọc một tờ báo điện ảnh bên cạnh một hồ bơi ờ gần nhà. Nhưng nay bà đã chết rồi.

Johnny Fontane, cùng với những khách mời rất đặc biệt của anh, Buzz Fratello và cô bạn khả ái, đầy tài năng, Miss Dotty Ames, hoàn thành sô tấu hài của họ tại Phòng Ốc Đảo Xinh Tươi của Lâu Đài Trên Cát với một buổi diễn tạp kĩ gồm những bài hát, những ứng tác tung hứng về chuyện say sưa chè chén, trình diễn cho một đám đông vẫn chưa biết gì về vụ tai nạn trên đây. Đây là một công chúng khán thính giả chỉ gồm toàn là khách mời, phần lớn là các viên chức nghiệp đoàn Xe tải trên khắp nước Mỹ, cùng với các bà vợ (hay các em bồ nhí). Michael Corleone, như một cành ô - liu (biểu tượng của hòa bình, hòa giải), cũng đã mời một ít đại diện chọn lọc khác từ các ngành kinh doanh thực phẩm, khách sạn... Bởi vì là một party thân mật, nên ngay cả những người mà thông thường thì không thể đặt chân vào Las Vegas cũng có thể tham dự. Chẳng hạn: ngay trên sân khấu là người em Butchie của Don Molinari (một tay chuyên bắt cóc đòi tiền chuộc, chận cướp xe hàng, tống tiền... ) và nhiều tay đầu sỏ khác từ San Francisco. Trong phòng vệ sinh quý ông, đang cố rặng đái một cách khó khăn vì dính bệnh lậu mủ và đang chửi thề um sùm cái thằng nhỏ hư đốn của mình bằng tiếng Ý, là quý ông Carlo Tramonti (một tay giết người, một tay ăn trôm cỡ lớn, kẻ cố ý gây hỏa hoạn và lừa đảo bảo hiểm), hiện là ông chủ ở New Orleans và là một thế lực đang lên ở Havana. Các Gia đình tội ác khác của New York đều có ít nhất một thành viên đại diện cho mỗi gia đình, mỗi người đều có vợ và các vệ sĩ tháp tùng. Người mặt nhợt nhạt đeo đôi kính râm khổng lồ đứng đàng xa kia là Louie Russo Mặt Đéo (kẻ sở hữu đồ trộm cắp, chủ mưu những vụ hành hung gây trọng thương, hối lộ các viên chức... ), được một số thành viên FBI tin là đang vận động để chạy đua vào địa vị hãy còn trống capo di tutti i capi (thủ lĩnh của mọi thủ lĩnh/ Thống lĩnh) của toàn bộ tổ chức được mệnh danh là La Cosa Nostra. Tụ họp lại với nhau, sự xuất hiện của tất cả những con người này đã cung cấp đủ vỏ bọc để du hành nhanh đến những người cộng tác của gia đình Corleone từ New York mà không làm dấy lên nghi ngờ. Cũng đáng lưu ý - đặc biệt là từ khi họ đứng sát ngay sân khấu, là cặp tân hôn đang hưởng tuần trăng mật, mặt mày đỏ hồng lên với hạnh phúc, nàng Susan, nguyên là vợ của Zaluchi với ông chồng mới Ray Clemenza.

Trong chỗ đứng trải nhung đen dành riêng cho mình Michael Corleone hơi ngửa người ra sau và rít một hơi thuốc dài. Anh nhìn đồng hồ. Một chiếc đồng hồ Thụy Sĩ đã hơn năm mươi năm tuổi. Trước kia chiếc đồng hồ này thuộc về một tay Thủy quân Lục chiến tên là Vogelsong, trong giờ lâm tử đã dùng hơi thở cuối cùng để nói rằng mình muốn Michael giữ kỉ vật này.

Giờ đây, nếu mọi chuyện diễn ra đúng kế hoạch, thì tất cả những người trên chiếc máy bay kia đều “nên” giã từ cuộc đời cả rồi!

Michael đã từng thấy những chiếc máy bay vỡ tan. Rất gần. Quá dễ cho anh hình dung ra vẻ hãi hùng trên những khuôn mặt người khi máy bay lao đầu xuống. Anh lắc đầu. Anh không muốn nghĩ về chuyện đó nữa.

Thay vì thế, anh sẽ nghĩ về chuyện này: Kế hoạch của anh tiến hành suông sẻ. Anh có gặp những trở lực, những tổn thất không lớn lắm, những điều chỉnh giữa dòng, nhưng cuối cùng mọi chuyện đều hanh thông.

Giờ đây Ủy ban Tối cao có thể họp mặt. Hagen đã nhầm: không có thỏa thuận nào dài lâu trừ phi có đám Chicago dính vào, nhưng không có hòa bình nào gồm cả Chicago lại phù hợp với quyền lợi tốt nhất của Corleones trừ phi Louie Russo đi đến bàn hội nghị với tâm trạng rất khích động. Cú rơi máy bay vừa rồi hẳn là đủ khích động lão ta.

Michael có lẽ chưa bao giờ hút nguyên cả một điếu thuốc nhanh đến thế hay thưởng thức thêm một điếu nữa. Anh đốt điếu khác và hít vào sâu.

Anh đã làm điều anh cần làm. Phải thế thôi. Vì lẽ đó, anh sẽ ngủ ngon, ngủ phẻ phắn, không “iêu tư” ray rức gì cả. Xét cho cùng chuyện này rồi cũng sẽ được phủ che và rơi dần vào quên lãng trong vòng vài ba tháng nữa thôi. Anh sẽ đi nghỉ ngơi và ngủ mười hai tiếng mỗi ngày. Từ khi lớn khôn, anh có lúc nào được nghỉ ngơi đâu. Những năm tháng anh buộc phải đi ẩn mình ở Sicily cũng phải đối phó với bao nhiêu chuyện chứ đâu có lúc nào nghỉ ngơi. Trong thời chiến anh đã có những lúc thảnh thơi với các kì nghỉ phép ở Hawaii, New Zealand. Nhưng một cuộc nghỉ ngơi với gia đình? Chưa bao giờ. Anh và Kay và đám trẻ có lẽ nên tới Acapulco. Có thể lại đến thăm Hawaii vào thời bình. Tại sao không? Vui đùa làm trò hề với Anthony và Mary theo kiểu Bố vẫn đùa với anh em chàng hồi nhỏ, chôn người trong cát, xoa dầu chống nắng lên đôi mông căng phồng hấp dẫn của Kay, có lẽ nên xem xét nghiêm túc chuyện có nên cho nàng mang bầu vài chầu nữa không. Chàng sẽ mặc áo chim cò hoa lá và nhảy điệu Mambo.

Chúng ta đã làm điều đó, Bố à, chàng nghĩ. Chúng ta đã thắng.

“Ôi Chúa Toàn năng,” Clemenza nói, mặt đỏ gay vì cười và chỉ một ngón tay mập núc ních vào Fratello, anh chàng này đang chay nhanh quanh sân khấu như một tên nghiện ma túy đang lên cơn. “Này, hắn diễn hay đấy chứ nhỉ?”

“Vâng, cũng coi được”

Fontane đã lùi về phía sau, thực hiện những tiết mục câm như những trò đùa chơi phù phiếm nhưng vẻ xuất sắc mà anh toát ra ngay cả khi anh không cố gắng - có lẽ lúc đó sẽ càng đặc biệt hơn - quả là một cái gì thật đẹp. Anh ta là một tên du đảng điếm đàng nhưng anh ta cũng là một nghệ sĩ, thực thế. Michael đã không thể chấp nhận cái cung cách của Fontane thể hiện trong buổi chiều, nhưng theo cùng lẽ đó, anh lại không thể còn cố chấp để bực bội với anh chàng này nữa.

Còn Fratello? Một trường hợp gây bối rối. Đây là một anh chàng đã quanh quẩn bao năm như là “kẻ vụng về thô kệch với cây kèn saxophone” (the cafone on the saxophone).

Thế rồi anh ta bỏ cây saxophone xuống, bắt đầu ca hát như một chàng da đen nhưng với giọng Ý kiểu mamma - mia, kết hôn với một nàng chân dài tóc vàng bằng nửa tuổi chàng, và đùng một cái trở thành Buzz Fratello và Dotty Ames, hai ngôi sao của Chương trình Tạp kĩ Thường nhật The Starbright.

Fratello kết thúc tiết mục bằng cách chạy nước rút qua sân khấu, nhào lặn xuống sàn, trượt dài đi khoảng mười bộ xuyên qua giữa đôi chân của Dotty, dừng lại rất đúng thời điểm để anh ta có thể lăn tròn, rồi nhìn lên đũng quần của nàng và dụi mắt trong một kiểu nghi ngờ hài hước. Fontane tiến tới. Dotty giúp Buzz đứng lên và cả ba cúi người chào. Đám đông đứng bật dậy. Các diễn viên rời sân khấu. Sự hoan hô nhiệt liệt vẫn tiếp tục. Các thành viên ban nhạc tiếp tục bản nhạc chào mừng (fanfare); rõ ràng sẽ có lời yêu cầu biểu diễn tiếp.

Michael cảm nhận một bàn tay trên vai mình.

“Điện thoại,” Hal Mitchell thì thầm. “Từ Tom”

Michael gật đầu và dụi điếu thuốc đang hút dở. Thời điểm diễn sô đây. Anh liếc mắt qua bàn của Louie Russo. Ai đó cũng đang thì thầm điều gì đó vào tai lão ta và khi Michael tiếp nhãn với kẻ thì thầm, anh chàng đó quay lơ chỗ khác. Michael rướn người lên và vỗ vào Clemenza.

Mấy giây sau - trong khi ban nhạc diễn tấu khúc Mala Femmina quyến rủ và Buzz, Dotty, và Fontane móc tay nhau, nhảy nhót nô giỡn trở lại sân khấu để biểu diễn tiếp - thì một vài những hàm ý về những gì có thể đã xảy ra hay có thể đã không xảy ra trên Hồ Erie, hẳn là đã đến tai Louie Russo. Nhưng khi lão ta nhìn qua cặp kính râm hướng đến chỗ đứng bằng nhung đen ở một góc phòng, thì chỗ ấy trống không. Ngay cả ngọn nến cũng đã bị thổi tắt.

Đầu của Nick Geraci bung lên khỏi mặt nước. Lỗ mũi anh vồ chộp lấy không khí, ngấu nghiến. Không khí tràn dâng xuống đôi cánh tay, xuống đôi chân anh và rồi anh rú lên tiếng tru man dã của con sói đồng hoang gặp nạn. Đó là lần đầu tiên anh cảm nhận cái đau khốc liệt từ những chiếc xương sườn dập nát và từ chiếc ống chân nứt gãy.

Cách anh khoảng một trăm yards, một vệt dầu loang đánh dấu nơi chiếc máy bay đâm xuống Hồ Erie. Bập bềnh giữa khoảng dầu loang đó là một trong hai cánh máy bay, với một khoanh lớn của một bên thân máy bay mang logo con sư tử trên nó, và nửa phần trên của cái hóa ra là... thây ma của Frank Falcone!

Geraci rất lơ mơ về những gì đã xảy ra hay là lỗi của ai, bởi cơn đau và chất adrenaline tiết ra nhiều khiến cho khó mà nghĩ được cái gì cho rõ ràng. Anh chỉ còn được buộc vào lí trí bởi niềm xác tín rằng nếu mọi người ở đằng kia đều chết, thì chắc là anh cũng đã toi đời. Sự cứu nạn có thể có nghĩa là được giải thoát bởi... cái chết! Anh vẫn lơ mơ giữa đôi bờ hư thực, chẳng biết đâu phù du mộng ảo, đâu thực tướng chân như. Anh đang trôi bềnh bồng giữa tử sinh xuôi ngược đôi dòng...

Qua màn mưa anh có thể thấy được làn sương mù mỏng dâng lên từ chân trời Cleveland. Anh bơi ra xa khỏi nơi ấy. Hướng về phía bắc. Quay lại Đảo Rắn Rung Chuông, đến Canada, tìm một chiếc thuyền đi qua. Một nơi nào đó anh có thể kiếm cho mình thời gian để lần ra manh mối mọi chuyện. Một nơi nào đó để anh phục hồi nghị lực và kiểm soát vận mệnh mình. Cái ống chân nứt gãy làm anh cảm thấy như là nó đang được nướng trên lò lửa với cơn đau tàn khốc và mấy chiếc xương sườn bị dập của anh làm cho anh thở rất khó khăn, thế nhưng vào lúc chiếc thuyền cao tốc của Đội Tuần Duyên bờ Đông Canada phát hiện ra anh, Geraci đã bơi xa khỏi địa điểm tai nạn khoảng một phần tư dặm, bị sốc đến cùng cực, ngất đi, hai buồng phổi đầy nước, bất tỉnh hoàn toàn.

Được che khuất sau những bức tường chắn của ngọn tháp cao nhất trong ba ngọn tháp hình củ ấu kiểu đền đài Hồi giáo của Lâu Đài Trên Cát và được bao bọc trong ngọn tháp bằng kính phản chiếu nhau là một phòng khiêu vũ quay tròn nơi buổi lễ sẽ diễn ra.

“Tôi cá rằng anh sẽ được ngửi mùi mực in liền bây giờ thôi,” Clemenza nói, vừa thúc chỏ nhẹ vào Michael. “Chú gần như có thể nếm được nó, đúng không nào? Ở trong cổ họng mình, ấy? Giống như dầu, nhưng tởm hơn nhiều.”

Hình ảnh phản chiếu của Michael trong các cửa thang máy bằng đồng bóng loáng đang uống từng ngụm nước ướp lạnh từ một chiếc bình pha lê. Trông anh vững chãi, đường bệ, bất khả xâm phạm, một kẻ đang gặp vận hanh thông, thuận buồm xuôi gió.

Clemenza từng là người đã mang Michael đến lễ khai tâm, vài tuần sau khi anh quay về Mỹ sau tám năm tự lưu đày ở Sicily để tránh bị bắt sau khi hạ sát một tay cớm.

Trên đường về nhà, họ dừng lại nơi, khi Michael rời xứ sở, từng là văn phòng của một tờ nhật báo. Một trong những tay cho vay nặng lãi của Clemenza đã được quyền chiếm hữu tòa nhà đó. Clemenza nói rằng ông cần nhìn qua nơi chốn đó để hình dung ra là nên đem cho thuê, hay đem bán nó đi hay là đốt quách nó đi cho rồi. Mọi khả năng đều có thể là thật.

Khi họ bước vào căn phòng trống rộng thênh thang nơi trước kia là phòng in ấn thì ở đó, trong ánh sáng nhợt nhạt cuối mùa hè, ngồi sau một cái bàn dài mà nước sơn màu xanh đang bong ra, có mặt Tessio và bố của Michael, Vito Corleone. Trên bàn là một ngọn nến đã được đốt lên, một thiếp ghi tên thánh, một khẩu súng ngắn và một con dao. Michael biết điều gì sắp diễn ra: họ sắp làm lễ khai tâm cho anh vào Gia đình. Sau tất cả những gì đã xảy ra thì chuyện này chỉ còn là thủ tục. Chuyện giết hai người này chính là ý tưởng của Michael - một người, Sollozzo, là kẻ đã dàn xếp vụ tấn công Vito Corleone và người kia, Mc Cluskey, một tay cớm được móc ngoặc, là kẻ đã đấm vỡ mặt Michael. Lúc đó Sonny, tạm quyền Ông Trùm, đã chấp thuận những vụ chém giết đó nhưng Tessio lại phản đối cho là chưa phải lúc.

Sau này Vito đã biện hộ rằng ông chẳng bao giờ muốn cuộc sống đó cho Michael nhưng rồi hiển nhiên là ông nghĩ rằng không ai khác có thể xứng tầm với trọng trách. Trong lễ khai tâm Michael, ông bố lầm bầm những từ khó hiểu trước khi vai ông bắt đầu phập phồng. Ông bắt đầu thổn thức. Clemenza cũng làm theo như thế. Tessio kết thúc buổi lễ bằng một phối hợp giữa tiếng Sicily và tiếng Anh, với một kiểu hùng biện lờ đờ. Sau đó họ bẻ cổ hai chai Chianti. Vito vẫn không thể ngừng sụt sịt. Mùi mực và dầu mỡ bốc lên trên Michael nhưng dường như không phải do nồng độ của chúng. Ngày hôm sau quần áo anh toát mùi hôi thối đến lợm giọng khiến anh phải vội vàng tống khứ chúng vào sọt rác. Tuần lễ sau tòa nhà phát hỏa và đổ sập thành một đống hoang tàn. Tay chỉ huy trưởng sở cứu hỏa đã bị chi phối để chùng chình cho quân đến thật trễ khi tòa nhà đã... không còn gì để cứu! Một tháng sau vụ đó, anh chàng bị bay chức, từ giã sở cứu hỏa và chuyển về Florida. Giờ đây anh ta phụ trách những chiến dịch rửa tiền ở đó - những cửa hàng bán rượu, máy bán hàng, bất động sản - và đã đính ước với nàng góa phụ của Sonny, Sandra.

Hai cánh cửa thang máy mở ra. Michael và Pete bước vào và cùng lên tầng trên cùng.

“Forlenza hẳn không bao giờ khử chính nghĩa tử của ông ta.” Clemenza - người từng theo lệnh của Michael, khử Carlo Rizzi, cha đẻ của nghĩa tử của Michael - nêu nhận xét. “Tôi cũng không nghĩ là có khả năng một kẻ nào đó từ bộ sậu khác lại có thể đặt chân lên hòn đảo chết tiệt đó mà Trùm Do Thái lại không biết. Tôi cho rằng kết luận hợp lí nhất là tai nạn,” lão chốt vấn đề.

Thông tin đáng giá nhất mà Hagen có thể thu thập được đó là trong vụ rớt máy bay nọ, có một kẻ sống sót. Điều này chưa được xác nhận. Nếu như kẻ sống sót đó là một trong hai Ông Trùm hay một trong những thủ hạ của họ như thế có vẻ tốt hơn. Chứ nếu kẻ đó là Geraci thì chuyện gì sẽ xảy ra sau này khó mà hình dung được. Người ta có thể hoặc không thể coi anh ta là một phi công riêng nào đó có tên là O’Malley chẳng liên hệ gì với Gia đình Corleone. Cũng còn có vấn đề là hầu như khó có thể tìm hiểu anh ta đã biết gì hay đã có thể hình dung ra chuyện gì. Và rồi còn có vấn đề cơn bão tố. Bão tố có thể gánh chịu lời nguyền rủa cho mọi chuyện, điều này càng giúp cho vụ rớt máy bay kia có được hiệu ứng đầy đủ. Nhưng Michael đã dự trù làm thế nào để vận dụng mọi sự mơ hồ nào về nguyên nhân của tai nạn một cách có lợi cho mình. “Tai nạn không xảy ra,” Michael nhận định một cách sâu sắc, “đối với những ai coi tai nạn như là một sự xúc phạm riêng tư.”

“Vậy là do phá hoại?”

“Tôi không biết. Tôi đồng ý là Don Forlenza không thể nhẫn tâm đến độ khử chính nghĩa tử của mình, ngay cả nếu như ông ta có lí do để làm điều đó. Theo chỗ chúng ta biết thì ông chẳng có lí do nào để buộc phải làm điều đó. Nhưng tôi lại không chắc lắm về chuyện lẻn vào hòn đảo ấy là hoàn toàn bất khả.”

“Nếu không phải là Forlenza - ”

Michael nhún vai, nhướng một bên lông mày, và giữ đôi mắt chiếu tướng Pete.

“La testa di cazzo” (Thống lĩnh giang hồ). Clemenza một tay kéo núm stop khẩn cấp, tay kia đấm ầm ầm vào tường. “Tên Mặt Đéo Russo.”

Michael gật đầu, như thể chìm trong suy nghĩ. “Một chiếc máy bay,” anh nói,” và ai bị thương? Chúng tấn công chúng ta, tấn công Molinari, tấn công Falcone, một kẻ vô pháp vô thiên mà chúng nghĩ có lẽ đã bước chân quá xa khỏi lãnh địa của mình, và mọi chuyện có vẻ như Forlenza đã ra lệnh. Bốn kẻ cạnh tranh lớn nhất của họ không phải ở đây, Las Vegas, mà là ở nửa phần phía Tây của xứ sở này.”

“Mọi thứ ở phía Tây của Chicago là của Chicago,” Clemenza nói giọng chế giễu. “Một tiêu ngữ bố láo thật!”

“Chú nói chí phải,” Michael đế thêm. “Tên nhố nhăng đó quả là mục hạ vô nhân quá. Hắn tưởng trên đời này hết còn ai là anh hùng hào kiệt nữa hay sao?” Anh lắc đầu theo cái cách khiến anh trông rất là thành thật lấy làm tiếc!

Clemenza hít đầy không khí cho phùng má lên, thở ra chầm chậm, rồi nhấn nút vào. Khi hai cánh cửa thang máy mở ra, khoảng vài ba chục người đã có mặt ở đó, rải rác khắp phòng khiêu vũ. Clemenza vỗ vào lưng Michael. “Đừng để chuyện nhảm đó làm hỏng chuyện ở đây,” ông thì thầm. “Hãy hưởng cuộc vui, okay? Và hãy ngạo với nhân gian một nụ cười. Cho dầu chỉ là một nụ cười ‘ đờ - mi’ thôi!”

Michael đã nói dối.

Cũng không hẳn là nói dối. Giống thế này hơn: anh dắt một con ngựa xuống nước và Pete Clemenza đã lom khom nhìn và say mê. Nếu Pete nhanh chóng nguyền rủa Russo như thế, thì không chỉ có mình ông ta mà thôi.

Sự thật là Michael Corleone đã tìm cách sát thương cả bốn kình địch phía Tây của anh ta. Phần việc đó thì dễ thôi. Cái khó là làm sao thực hiện được chuyện đó mà không bị ai nghi ngờ hay nguyền rủa. Bằng cách “hòa âm phối khí” sự cố sao cho không một linh hồn sống nào khác biết rõ về chuyện anh làm (Cả Hagen lẫn Pete đều không biết, không ai biết cả), anh cũng có thể làm được chuyện đó.

Frank Falcone là một mối đe dọa. Kể từ khi Michael đã sai người giết Moe Greene, thì Falcone là vật cản lớn nhất đối với sự bành trướng của gia đình Corleone đến Las Vegas. Pignatelli có vẻ phục tùng Chicago hơn là Falcone thế nhưng vì mối quan hệ làm ăn với Corleones - cả việc tham gia vào dự án Lâu Đài Trên Mây lẫn túi tiền mặt mà hắn ta nhờ Johnny Fontane giao nộp như một cống phẩm để giết Falcone - hắn ta không đặt ra một đe dọa thực sự nào.

Tony Molinari là một đồng minh lâu đời, đúng vậy, nhưng sự cảnh giác ngày càng tăng của hắn ta về việc Michael thiết lập căn cứ tác chiến tại Hồ Tahoe, cách San Francisco khoảng vài trăm dặm, là một vấn đề trên đà leo thang. Bất hạnh thay là hắn ta đã trở thành một khối ung thư mà tốt nhất là nên dùng phẫu thuật laser để loại trừ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3