Bố già trở lại - Phần II - Chương 10 - Phần 2
Forlenza đã là một lão già ngồi xe lăn. Làm cho lão mất uy thế, mất đi sự kính nể của giới giang hồ thì hay hơn là giết lão. Suốt nhiều năm trời lão từng khoe khoang khoác lác với các ông Trùm khác về cái pháo đài ngầm cực kì kiên cố, với những ứng dụng kĩ thuật số tiên tiến nhất, nơi hòn đảo Rắn Rung Chuông của lão (cái pháo đài sẽ bảo vệ cho lão cùng với thân nhân và những bộ hạ trung thành của lão sống sót cả sau cuộc chiến tranh nguyên tử tổng lực giữa Mỹ và đồng minh với Liên sô và chư hầu. Ghê thế đấy!). Lão sẽ phải gánh chịu toàn bộ hay một phần lời nguyền rủa về vụ rơi máy bay. Ngay cả nếu không ai đến báo thù lão, cũng vẫn sẽ có áp lực từ chính những người của lão buộc lão phải... “thoái vị khỏi ngai vàng”. Sal Narducci, caporegimecủa lão - người đã đi đêm với Michael Corleone và đã đích thân làm đốc công giám sát quy trình kĩ thuật để phá hoại chiếc máy bay - sẽ trở thành Ông Trùm. Sau hai mươi năm chờ đợi để được ngồi vào chiếc ghế quyền lực này, chắc chắn đây là cú đánh cá với xác suất thắng cược cao nhất trong việc giữ cho lão im miệng về chuyện bằng cách nào lão đã đạt được ngôi cao quyền lực. Kiến lập Narducci vào địa vị ấy cũng có nghĩa là cắt đứt mọi quan hệ giữa bộ sậu Cleveland với gia đình Barzinis.
Phần hay nhất của kế hoạch này là hiệu ứng nó tạo ra trên đám Chicago. Sẽ là bất khả để chứng minh rằng Russo đứng đằng sau vụ này và cũng bất khả không kém để phản bác nó. Nhưng một khi Michael cho các thành viên của Ủy ban Tối cao biết rằng viên phi công tử nạn O’Malley thực sự là capo mới của anh, thì mọi người có suy nghĩ đúng đắn sẽ nhận định ra ai là kẻ được lợi nhất trong chuyện này.
Lẽ nào Forlanza lại đang tâm giết chính nghĩa tử của ông ta? Không thể nào.
Lẽ nào Michael Corleone giết tay capo vừa mới được chính anh bổ nhiệm? Ai tưởng tượng nổi điều ấy?
Chỉ còn lại đám Chicago.
Michael đã khéo léo thu xếp để chơi đám Chicago một vố đau mà không giết một mống nào trong bộ sậu của Russo. Nhờ vậy Michael sẽ không phải lo lắng chuyện Russo tìm cách trả thù. Sự mất mát rõ ràng nhất mà Russo phải chịu đó là giờ đây lão ta phải đến bàn hòa nghị trong tư thế yếu. Nhưng Michael cũng chỉ cần có thế.
Quyết định khó khăn nhất mà Michael phải ra, đó là giết Geraci.
Không còn gì phải bàn cãi về việc Geraci đã hoàn thành một công việc xuất sắc với công cuộc kinh doanh ma túy, thế nhưng tính hiếu chiến của anh chàng này là một vấn đề. Tham vọng của chàng ta là không giới hạn, lớn hơn là chính chàng ta tưởng. Mặc dầu từng tỏ ra trung thành một cách kiên định, chưa bao giờ quờ quạng, chuệch choạc song mối liên hệ của chàng ta với Forlenza vẫn luôn là một yếu tố đáng phải quan tâm. Chàng ta có lẽ sẽ còn mãi đau đớn với chuyện Tessio. Và khi Michael phong Fredo làm sotto capo, Geraci đã hỏi anh, giữa công chúng, là anh có mất trí không. Sau đó họ đã cùng ăn tối ở Patsy’s. Không có ai khác ngồi chung bàn. Không có ai khác nghe. Geraci đã xin lỗi. Nhưng ít có Ông Trùm nào chịu tha thứ một sự mao phạm bất kính như thế.Chuyện đó có vẻ nhỏ nhặt nhưng đã thuyết phục Michael Corleone rằng tất cả những ưu tư nhỏ hơn về chàng ta là có cơ sở và càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Thế nhưng mối ưu tư sau cùng được biện minh đã khiến Geraci bị giết. Cho dầu chuyện ấy đã được tha thứ. Không có chuyện phản bội. Những tài sản Geraci làm ra dễ dàng vượt quá trách nhiệm của anh ta. Michael thích anh chàng ấy.
Hy sinh Fausto Geraci Jr. là chuyện mà một người như Vito Corleone sẽ không làm.
Đúng hơn đó là hành vi của một tay Thủy quân Lục chiến, kẻ đã từng chứng kiến hàng ngàn người tốt mà vẫn chết, dường như chỉ là chuyện hên xui: một điều ác cần thiết để đánh đổi cơ hội hoàn thành một điều thiện lớn hơn.
Một kế hoạch hoàn hảo, trừ phi đúng là có một trong những người kia sống sót.
Và cũng đúng là... người tính sao bằng trời tính!
Còn Clemenza cũng đã nói dối.
Buổi lễ khai tâm cho Michael không phải là lần duy nhất mà ông đã thấy Bố già trong tình trạng đó. Lúc hãy còn xanh xao yếu ớt vì những vết thương do đạn bắn từ cuộc mưu sát mà ông may mắn thoát chết, Vito đã quay về nhà từ đám ma của Santino, bị suy sụp với nỗi đau buồn sâu sắc đến độ cảnh tượng đó ám ảnh mãi tất cả những ai đã từng chứng kiến. Lúc đó Michael đang lẫn trốn ở Sicily nên không thấy cảnh đó. Những người đã - mẹ của Michael, em gái anh và chồng cô ấy, anh em của anh, Tom và Fredo, và Pete Clemenza, người, không bao lâu sau khi tiếng nức nở bắt đầu, đến ôm lấy bạn mình rồi cáo từ về nhà, để cho gia đình họ với nhau - mang theo với họ hình ảnh của con người bị suy sụp đó và âm thanh của những tiếng kêu gào than khóc khủng khiếp của ông. Họ không bao giờ nói về chuyện ấy, không nói với nhau và chắc chắn là không nói với bất kì ai khác, ngay cả với Michael.
Nhiều người có mặt tại sô diễn của Fontane xuất hiện nơi phòng khiêu vũ quay tròn. Một cuộc tiếp tân, dường như tất cả chỉ là thế. Không có cuộc xuất hành hàng loạt của các viên chức công đoàn, các thành viên ban nhạc hay của phụ nữ. Trong mức độ mà mười ba người mới đến có thể đoán, thì đã có một lúc mấy người kia có mặt nơi đây. Tiếp đến, những thành viên cũ của Gia đình Corleone đang mang hai chiếc bàn dài được phủ khăn trải bàn bằng len trắng đến sàn nhảy bằng gỗ và từng mỗi người bên ngoài đều đi ra.
Ai đó tắt hết đèn.
Khắp cả phòng, người ta đặt tay lên vai những người được bổ nhiệm và chúc mừng họ bằng những lời thì thầm khàn khàn (lẽ ra phải là mười bốn người nếu như Fredo không làm cho Figaro lỡ chuyến bay). Đây là những con người mà đám lính mới ngước nhìn lên từ bao năm - những kẻ mặc các bộ côm - lê đặt may, lái những chiếc xe sang trọng, đèo những cô nàng chân dài đài các, ban phát ân huệ và tìm kiếm ân huệ cho mình, sinh hoạt trong một thế giới dường như huyền bí, đầy quyền lực và không thể vươn tới. Bên ngoài phòng khiêu vũ đang chìm trong bóng tối kia, những du khách tìm lãng quên đang nghịch nước nơi hồ bơi trên sân thượng.
Khi những ngọn đèn trong phòng khiêu vũ sáng trở lại, bàn đã được bày biện: mười ba bộ lễ khí, mỗi bộ gồm một cây nến tạ ơn, một thiệp tên thánh, một con dao găm, và - trong một cử chỉ nhằm nói lên sự bành trướng của Gia đình về Miền Viễn Tây (một ý tưởng của Fredo, nói cho công bằng), một khẩu Colt 45 lấp lánh.
Mười ba người mới được chỉ vào chỗ ngồi. Những người khác - khoảng năm mươi người, một số từng dự sô diễn, một số vào thành phố và vào Lâu Đài Trên Cát chỉ vì vụ này - ngồi ở những chiếc ghế chung quanh vòng tròn.
Michael Corleone ngồi với số còn lại của đám thuộc hạ. Anh tạo ra yên lặng. Anh không phải là một người mê tín, nhưng anh đang làm việc với những người mê tín và anh biết rằng họ đang đếm đi đếm lại số người ngồi ở giữa và không thích sự kiện con số vẫn là mười ba. Nhưng nguy cơ để cho tâm trí họ loay hoay với sự trùng hợp ngẫu nhiên kia dường như đáng với sự tưởng thưởng để mặc kệ cho những người hiện diện cảm thấy bất an trong nỗi bối rối cố che giấu của họ. Đối với một người, họ rõ ràng đang cố gắng để làm như đây chính là một thời điểm đặc biệt ngoại lệ trong cuộc đời họ, nhưng họ lại không mấy thành công trong cố gắng đó. Họ biết anh là ai và anh đóng vai trò gì ở đây, và do vậy hơi tức cười khi thấy họ cố gắng không nhìn vào anh. Anh có thể nghe giọng của Trung sĩ Bradshow, huấn luyện viên cũ của anh trong quân đội: Ngươi bác bỏ nỗi sợ hãi. Một Thủy quân Lục chiến không sợ phải chấp nhận nỗi sợ hãi. Ngươi cười nhạo và chế giễu nguy hiểm. Ngươi phớt lờ nguy hiểm. Đối mặt với nguy hiểm, một THỦY QUÂN LỤC CHIẾN... PHỚT LỜ... KHÔNG CÁI GÌ CẢ!
Cuối cùng, Michael đứng lên.
“Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện của một cậu bé,” anh nói, vừa tiến gần lại các bàn. “Cậu bé sinh ra trước đây một ngàn một trăm bốn mươi năm ở một miền quê trên đảo Sicily, gần thị trấn Corleone. Thời niên thiếu của cậu trải qua trong giàu có và hạnh phúc cho đến khi cậu mười hai tuổi, thì những đoàn quân Á rập trên đường bắc tiến qua các rặng núi, đã tàn sát tất cả già trẻ lớn bé trên đường chúng đi qua, trong đó có bố mẹ của cậu bé. Cậu bé núp trong một cái chum bằng sành, lén nhìn ra ngoài và thấy lưỡi gươm cong của quân man rợ chặt bay đầu mẹ mình nhưng từ đôi môi nơi chiếc đầu đã đứt lìa của bà vẫn thét lên những lời yêu thương dành cho đức con duy nhất của mình. Những cuộc chém giết đó chỉ là những hành động bạo tàn thuần túy. Bọn Á rập giết người vô tội chẳng phải để bảo vệ cái gì hay để trả thù cho cái gì. Chúng coi việc giết người chẳng qua cũng như hái một trái cà chua nơi vườn cây, hái một chùm nho nơi cánh đồng, một trái ô - liu từ khu rừng nhỏ. Chuyện vặt. Chúng ông đây giết người vì chúng ông khoái giết người. Sao, bọn giun dế chúng bây có thắc mắc khiếu nại gì không? Ra đây, lưỡi gươm của quý ông đây sẽ giải đáp cho! Khà khà! Chúng mày tức hả?Uất ức hả? Thì cũng làm đéo gì được chúng ông nào? Khà, khà, khà!
Rồi chúng nghênh ngang tiến về mục tiêu, thành phố Palermo.”
Michael rút một điếu xì gà từ cái túi ngực của chiếc áo tuxedo. Hơn một người trong số những người hiện diện chùi bàn tay nhơm nhớp mồ hôi lên chỗ đùi mình.
“Tên của cậu bé,” Michael nói,” là Leolucas.” Michael dừng lại, đốt điếu xì - gà và để cho tầm quan trọng của cái tên vừa được xướng lên đó ngấm sâu vào đầu óc người nghe. “Mặc dầu mới mười hai tuổi cậu không chỉ xoay xở để quản lí điền sản gia đình mà còn làm việc đồng áng nặng nhọc với thời gian dài chẳng kém một chàng lực điền gấp đôi tuổi mình. Nhưng rồi với năm tháng qua đi, chàng trai nghe ra, trong nỗi cô đơn giữa những cánh đồng, ơn kêu gọi cho chàng biết thiên mệnh đích thực của mình. Chàng bán hết gia trang điền sản, đem tiền của cứu giúp người nghèo khó, và vào dòng tu. Sau nhiều năm, trở thành tu sĩ, ông quay về ngôi làng thời tuổi trẻ, hành vô lượng công đức và được mọi người biết đến ông yêu mến. Ông ra đi trong thanh thản yên bình khi đã thành một vị bách tuế thượng thọ.”
“Cent’anni!” (Một trăm tuổi!) Clemenza kêu to lên. Mọi người cạn li chúc mừng.
“Năm trăm năm sau,” Michael kể tiếp, đi vòng mọi người quanh các bàn, “lời cầu xin hộ của Leolucas đã bảo vệ thị trấn Corleone khỏi cuộc bùng phát của Trận Dịch Đen. Và vào năm 1860, hơn một ngàn năm sau khi ông mất, Leolucas báo thù những kẻ giết cha mẹ mình bằng cách hiện ra như một tháp lửa trắng trước đạo quân xâm lược, làm cho chúng hoảng sợ tháo chạy khỏi Corleone và rơi vào vòng vây của đại quân Garibaldi và người anh hùng này đã đuổi quân xâm lăng khỏi Sicily. Những phép lạ này, và nhiều phép lạ khác tại di chỉ phần mộ của ông, đã được Đức Thánh Cha ở La mã xác chứng. Leolucas giờ đây và mãi mãi là - ” Michael rít một hơi đầy khói xì - gà thượng hạng, sải bước từ bàn này đến bàn kia, từ từ nhả ra từng đợt khói thơm lừng, và cầm lấy tấm danh thiếp thiêng liêng từ trước mặt Tommy Neri vốn là một trong mười ba môn đệ tân tòng. Anh trân trọng hôn vào tấm thiệp rồi đặt xuống lại. “- vị thánh bổn mạng của Corleone. Này quý đạo hữu?”
Anh làm một chuyển động quét với bàn tay. Từng người một trong đám mười ba người cung kính hôn bức ảnh bằng giấy bồi của Thánh Leolucas.
“Chỉ ít năm sau lần xuất hiện gây kinh hoàng trong hình trạng tháp lửa trắng của Thánh Leolucas,” Michael nói, “nơi một túp lều tranh giáp với những cánh đồng xưa kia thuộc quyền sở hữu và được canh tác bởi bậc thánh nhân Leolucas, một đứa bé khác ra đời. Tuổi thơ của cậu bé cũng vui vẻ hạnh phúc cho đến, cũng vào độ tuổi mười hai, có những kẻ đến giết bố cậu. Cuộc mưu sát hoàn tất với ba phát từ lupara. Mẹ cậu bị đâm chết rồi bị moi ruột, như đối với một con vật. Bị tử thương, bà cũng cố gào lên những lời yêu thương dành cho con mình. Cậu bé chạy trốn. Những kẻ sát nhân chạy đuổi theo cậu, biết rằng một ngày nào đó cậu sẽ tìm cách giết chúng.Tên của người đó - ”
Michael lại rít một hơi dài từ điếu xì - gà. Anh cảm nhận định mệnh của chính mình chảy xuyên qua người đó. “ - là Vito Andolini. Chàng trai đó một mình di cư đến những bờ biển lạnh giá của nước Mỹ, ở đó, để cho những kẻ sát nhân không tìm ra mình, chàng ta đổi họ, lấy tên làng cũ làm họ của mình. Đó là một trong những cử chỉ tình cảm hiếm hoi mà ông từng thể hiện, tất cả đều phải phù hợp với la famiglia (gia đình) - và đến đây anh dùng nắm tay vỗ vào ngực – “với figliolanza (đứa con) yêu quý của ông” - và đến đây anh chạm vào cằm mình. “Chàng trai làm việc cật lực, giúp đỡ bạn bè, xây dựng nên cơ ngơi đồ sộ và không bao giờ dung dưỡng một tư tưởng thiếu khiêm tốn. Ngày nọ ông thực sự quay về Sicily và báo thù cho cái chết của cha mẹ mình. Vito Corleone, người mới đầu năm nay đã ra đi thanh thản nơi khu vườn yêu thích của ông, là cha tôi. Tôi, Michael Corleone là con trai của ông. Nhưng” - và anh chỉ những người ở vòng ngoài - “những con người danh dự này, cũng là la famiglia Corleone. Nếu các bạn mong muốn cùng một nhà với chúng tôi, chúng tôi mời các bạn tái sinh như thế.”
Michael ngồi xuống. Fredo đã được dự định để thực hiện phần kế tiếp. Bất kể những gì mà những người như Geraci nghĩ, việc Michael lập anh mình làm sotto capo (phó tướng) vẫn là một phương tiện để khích lệ hơn là một công việc. Fredo đã được giao cho một ít trách nhiệm được định nghĩa một cách hạn hẹp, một đám nhỏ những người tin cậy nhưng tầm thường, một nhà thổ trong sa mạc, mà anh ta, với tính khí thất thường, đã thoái thác. Michael phải ẩn nhẫn chuyện này. Bạn có đánh đập, có huấn luyện thế nào cũng không thể biến một con lừa thành con ngựa đua được.
Clemenza cắm cây gậy xuống sàn, càu nhàu lớn tiếng và đứng lên.
Chắc chắn là từng người trong số mười ba người này đều đã hiểu những thủ tục của buổi lễ. Nhưng có những quy ước phải tuân thủ. Clemenza bắt đầu bằng cách giải thích cơ cấu của Gia đình. Michael Corleone là Nghĩa phụ, là Cha đỡ đầu với uy quyền tuyệt đối. Frederico Corleone là sotto capo. Rocco Lampone và chính ông, Pete Clemenza, là các caporegimes. Clemenza không nhắc đến vai trò của consigliere. Chuyện này là một trường hợp kể từ khi cái chết của Genco Abbandando, trước tiên bởi vì Hagen, vốn không phải là dân Sicily, không bao giờ có thể tham dự vào, quan sát, hay ngay cả được nêu lên trong những nghi lễ này, và rồi trong thời gian ngắn mà Vito làm consigliere, sổ sách vẫn còn đóng lại. Clemenza chẳng nhắc nhở tí gì đến Nick Geraci.
“Trước khi các bạn đến với chúng tôi,” Clemenza nói,” các bạn cần hiểu rõ một số điều.” Ông đổi sang tiếng Sicily và tiếp tục, đi cà nhắc quanh chu vi mười ba người. “Chuyện chúng ta sắp nói đây không phải là chuyện làm ăn mua bán mà là một vấn đề danh dự. Nếu bạn đồng ý gia nhập, thì chuyện của chúng ta phải đến trước cả chuyện của đất nước. Trước cả Chúa Trời. Trước cả chuyện vợ con bạn, trước cả cha mẹ bạn. Nếu bạn được triệu tập và lúc đó mẹ bạn đang trên giường lâm tử, bạn cũng chỉ hôn bà rồi từ biệt để thi hành nhiệm vụ cấp trên giao phó.”
Ông dừng lại trước chiếc ghế nơi ông đã bắt đầu. Ông nghiêng người về phía trước, tựa lên chiếc gậy, xa đến nỗi có vẻ như ông sắp ngã lộn mèo. “Các bạn hiểu chứ? Các bạn đồng ý không?”
Những người kia không ngần ngại chấp thuận.
Đáp lại, Clemenza chầm chậm gật đầu và ngồi xuống.
Michael lại đứng lên và, như thể là bù trừ cho vẻ yếu ớt của Clemenza, anh tiến đến các bàn bằng những bước sãi dài, manh mẽ, oai vệ. Anh đã ăn quá nhiều, uống quá nhiều, làm việc quá nhiều và ngủ quá ít. Acid dâng lên nơi cổ họng anh.
“Có hai điều luật,” anh nói, “mà các bạn phải phục tùng không điều kiện. Các bạn không bao giờ được phản bội những bí mật của hội kín chúng ta, phải tuân thủ truyền thống omerta (luật im lặng) từ xa xưa. Hình phạt đối với việc vi phạm điều luật này là cái chết. Các bạn không bao giờ cưỡng hiếp vợ hay con của một thành viên khác. Hình phạt đối với việc vi phạm điều luật này cũng là cái chết. Các bạn có thề, bằng chính mạng sống của mình, giữ những điều luật này không?”
“Xin thề!”
Những người lớn tuổi hơn có lẽ nhận ra sự vắng mặt của điều luật thứ ba, được nêu lên trong mọi lễ khai tâm mà Vito Corleone từng thực hiện:Bạn không bao giờ dính líu vào việc buôn bán ma túy. Không ai nói lời nào về chuyện này, ngay cả một tiếng xầm xì cũng không.
“Các ngươi đi vào là người sống,” Michael nói, “và các ngươi đi ra là tử thi” (You come in alive and you go out dead).
Ngày anh cầu hôn em, Kay, anh nói rằng những việc kinh doanh của chúng ta sẽ trở thành hợp pháp trong năm năm nữa.
Michael tiến gần lại Tommi Neri. “Những công cụ giúp bạn sống và chết là khẩu súng” - đến đây Michael cắn giữ điếu xì - gà và một tay cầm khẩu Colt lên - “và con dao.” Tay kia anh nắm lấy con dao găm. Anh sắp hai vũ khí đó xuống trước mặt Tommi, đặt chúng chéo vào nhau.
“Các bạn có đồng ý,” Michael nói, “rằng, khi được kêu gọi đến, các bạn sẽ sử dụng súng và dao để giúp Gia đình này?”
“Vâng, thưa Nghĩa phụ”
Michael rít mạnh một hơi xì - gà và dùng đầu điếu thuốc để châm cháy ngọn nến dâng cúng của Tommi Neri. Rồi anh chỉ vào tay phải của Tommi. Tommi xòe rộng bàn tay ra. Michael cầm con dao găm lên, chích máu nơi ngón tay lẫy cò của Tommi, kẹp ngón đó trong lòng bàn tay anh và bóp thật chặt, cẩn thận ấn sức ép xa khỏi vết thương và nhờ vậy tăng cường số lượng máu nhỏ ra.
Từng người một, mười hai người kia đưa ra cùng câu trả lời giống vậy và phục tùng cùng nghi lễ đó.
Michael quay lại phía cuối bàn. Anh vỗ lên nắm tay khép của Tommi. Tommi mở nó ra rồi để hai bàn tay lại gần nhau, bàn tay nhỏ máu phía bên phải và bàn tay sạch phía bên trái, quay lòng bàn tay lên và khum lại thành hình chén. Michael nhặt lên tấm thiệp tên thánh của Thánh Leolucas, đốt cháy tấm thiệp bằng ngọn nến dâng cúng tạ ơn và thả nó rơi vào hai lòng bàn tay của Tommi Neri. “Qua lại liên tiếp,” anh thì thầm.
Tommi tung hứng ảnh vị thánh đang cháy từ tay này qua tay kia.
“Nếu có khi nào bạn phản bội bạn bè mình,” Michael nói, “bạn sẽ cháy thiêu.” Anh thổi một hơi nhỏ khói xì - gà vào khuôn mặt không nao núng của Tommi. “Giống như bức hình vị thánh bổn mạng yêu kính của chúng ta hiện đang đốt cháy lòng bàn tay đã chích máu để hội thề của bạn. Bạn chấp nhận điều này không?”
“Vâng, thưa Nghĩa phụ.”
Michael trông chừng cho tấm thiệp hoàn toàn thành tro tàn. Sau đó, dịu dàng như một người tình, anh xoa tro vào hai lòng bàn tay của Tommi, rồi hôn chàng ta, dịu dàng, lên mỗi bên má.
Từng người một, mười hai người kia phục tùng cùng nghi lễ đó và đưa ra cùng câu trả lời đó.
“Gli uomini qualificati” (Giờ đây các bạn đã là những con người đủ phẩm chất), Michael nói. “Nào các bạn, hãy tự giới thiệu với huynh đệ của mình.”
Căn phòng nổ bùng ra trong một hỗn hợp tạp âm của những lời chúc tụng, nút sâm banh nổ lốp bốp, những lời reo hò chúc mừng bằng tiếng Ý. Những người ở vòng ngoài giữ nguyên vị trí của họ để bảo đảm rằng các thành viên mới thực sự đi vòng quanh phòng đúng như quy định để tự giới thiệu họ, hôn vào má của mọi người ở vòng ngoài, không để sót em nào. Michael đã hôn họ cả rồi. Anh chuồn ra cửa sau và xuống cầu thang. Anh biết rằng điều đang chờ đợi anh ở nhà có thể là tin tức về sự leo thang những rắc rối của anh. Nhưng cũng may là ngày trọng đại này cũng qua đi suôn sẻ. Cũng may là anh có thể nghỉ ngơi đôi chút để ngày mai còn tiếp tục lao vào cuộc chiến với một đầu óc tỉnh táo hơn. Anh đã cảm thấy đỡ hơn nhiều khi bước ra khỏi căn phòng đó, xa rời mùi khói thuốc và mùi rượu nồng. giờ đây, những nụ hôn duy nhất mà anh mong muốn là những nụ hôn từ vợ con mình.
Bạn đi ra là tử thi.
Anh đi đến chiếc xe. Trong khi chờ Al Neri thu gom các khẩu súng ngắn và giao nộp lại cho anh, Michael bỗng thấy bao tử mình nhộn nhạo. Anh cố chống chọi lại. Nhưng rồi không chịu nổi anh phải quỳ gối xuống và bắt đầu nôn. Mọi thứ tuôn trào ra - rượu strega, rượu whiskey, những thức ăn mà Enzo đã chăm chút chế biến cho thật ngon miệng, mọi thứ từ cuộc đi chơi dã ngoại, cho đến cả những hạt bắp rang cuối cùng ăn trong lúc xem phim.
“Ông ổn rồi chứ, thưa ông chủ?” Những khẩu súng ngắn nằm sát vào nhau trong hộp có gối lót và Al Neri đã mang chúng phóng xuống bao nhiêu bậc cầu thang, qua nhiều phòng khách và nhiều hành lang. Mệt phờ người.
“Ồ, vâng,” Michael đáp. Người anh đầm đìa mồ hôi. Dầu còn loạng choạng, lảo đảo, song anh vẫn cố đứng lên. Anh làm rách gối chiếc quần. “Tôi ổn rồi. Đi thôi.”
Những con dao găm từng được dùng để chích ngón tay lãy cò của người nào thì người ấy giữ luôn bên mình. Những con dao găm bằng thép cực tốt, ánh lên sắc xanh lạnh, tay cầm nạm mấy viên đá quý. Một tặng phẩm đặc biệt của Gia đình và trở thành vật bất li thân trọn đời cho gia môn tử đệ.