Bố già trở lại - Phần II - Chương 11 - Phần 2

Nàng khụy xuống trên đôi gối và nắm lấy nó đưa vào miệng nàng nhanh đến nỗi chàng không kịp nói không. Một luồng rùng mình khủng khiếp chạy xuyên suốt người chàng. “Đừng,” anh nói, vừa xốc nách nàng để đỡ nàng lên ngang mặt chàng.

Nàng có vẻ bị tổn thương. (Em muốn bú c... anh mà anh còn không cho em b... hả?!)

“Anh không khoái chuyện ấy,” chàng nói. “Đừng... đau đớn vì chuyện đó, okay? Nào, tiếp tục hôn anh đi.”

Nàng vâng lời. Chàng giữ tay nàng trên người mình và kéo chiếc xì - líp Sears có hoa của nàng xuống và mân mê chim nàng. Hai anh chị hôn nhau một hồi nữa.

Nàng có vẻ như một người tình muốn làm tình với chàng theo kiểu tình cho không biếu không. L’Amour c’est pour rien là một bài ca Pháp mà. Và nàng là một cô gái Pháp nên nàng cũng sẵn sàng L’Amour c’est pour rien, Tu ne peut pas le vendre, L’Amour c’est pour rien, Tu ne peut l’acheter (Tình cho không biếu không, Ân tình ai cũng cho được nhiều, Tình cho không biếu không, Chớ nên mua bán tình yêu. Nhạc và lời Pháp: Charles Aznavour; Lời Việt: Phạm Duy). Cũng có thể là bởi vì nàng đã nghe lời xầm xì rằng thì là... chàng là một ông kẹ thứ dữ, nhưng cũng bởi vì chàng đã rất tử tế dễ thương đối với nàng khi có lẽ chàng không cần phải thế. Nhưng trên hết có lẽ là vì chàng đã quá sộp, đã tặng cho nàng đến những hai ngàn đô mà không phải vì cần làm chuyện ấy, trong khi đã có người trả trước cho nàng cả ngàn đô rồi. Nói cho cùng thì nàng cũng chỉ là một nữ vũ công thường thường thôi, loại múa phụ họa cho ca sĩ, diễn viên chính chứ đâu phải là ngôi sao màn bạc hay người mẫu nổi tiếng, vậy mà bỗng dưng được cái giá cao ngất ngưỡng, cao không tưởng như vậy bào sao nàng không cảm động muốn nhiệt tình báo tạ cú chơi đẹp đến sửng sốt của chàng hòa hoa công tử. Còn tiền đâu mà chàng chơi ngông kiểu đó - đồng tiền chính đáng hay đồng tiền xương máu... - thì nàng đâu phải là người có bổn phận đi “truy cứu trách nhiệm hình sự” đâu mà phải thắc mắc kiểu dở hơi! Thôi chúng ta gác lại những suy tư vớ vẩn bên lề để trở lại với hoạt cảnh có phần dềnh dứ rình rang giữa anh và ả.

Chàng thiết kế tư thế cho nàng trên hai gối và tốc cái áo dài đỏ của nàng lên, áp người vào và với bàn tay kia dò dẫm, mò mẫm, sờ soạng tìm của quý của nàng. Nàng vói tay ra sau ân cần hướng dẫn anh lối nào vào đào nguyên, đường nào lên thiên thai. Có cái vẻ gì đó về tính dễ tổn thương nơi tư thế đó khiến cái “năng cử khí quan” của anh bỗng chuyển qua điệu rock nặng trong bàn tay nàng và chàng đang đi vào cõi mê li từ cú tập kích đầu tiên. Chàng phải hành động và đừng suy nghĩ. Chàng vồ chộp hai bên eo nàng, bấu các ngón tay vào xương sườn nàng và dịu dàng xin em thứ lỗi cho nếu có làm em đau. Nàng bắt đầu nói về việc nàng thích chuyện đó đến thế nào và không ngừng hô vang, lặp đi lặp lại ôi anh tuyệt vời, tuyệt vời, tuyệt vời và anh nhắm mắt và tăng tốc, nhanh như sức mình có thể.

Thân xác anh căng cứng và anh hét lên.

“Phóng ra đi anh! Người tình tuyệt vời. Phóng ra đi anh.” Nàng thở hổn hển và rít lên the thé với giọng đầy ham hố, khát khao.

Nhưng anh không đủ sung mãn để phóng ra thành tia bắn mạnh. Anh ôm siết, lắc hông thành những vòng co giật rung rinh trên đôi mông vừa săn chắc vừa mềm mại êm ái của nàng, cuối cùng mới rỉ ra có mấy giọt chút xíu vào suối khe đã ngập nước của nàng. Sau đó sinh thực khí của anh quá nhạy cảm đến đau rát và anh phải lui quân. Có lẽ sẽ gơi dục biết mấy nếu ta nhỏ giọt những hạt ngọc trai ướt át lên mông nàng và lên chiếc áo đỏ kia. Còn gì hứng thú hơn? Anh không thể nói tại sao mình đã không làm điều đó.

Thật ra không phải thế. Anh biết. Anh thích khởi động chúng. Anh không thể nói tại sao. Dầu đấy cũng chưa phải là toàn bộ sự thật.

Anh thả ngửa người trên giường. Anh nhắm mắt và lấy cổ tay đập vào đầu khoảng nửa tá cú đập giật. Anh ghét mình, ghét mình thậm tệ.

Rita cuộn tròn một bên thành một quả bóng. Tự nhiên nàng lại bắt đầu khóc.

Anh ngồi dậy, đi đến cửa sổ và vén màn ra.

Thế là tốt hơn. Anh thực sự thích ánh đèn neon đó. Đêm không còn dài.

Điện thoại lại reo. Anh mang điện thoại vào phòng riêng. Anh bảo Figaro giữ tư thế sẵn sàng, anh sẽ lên ngay. Figaro nói rằng thật là tốt khi họ đã quyết định lái xe đi chứ không ở lại Los Angeles bởi vì có một vài tin tức mà Fredo có lẽ muốn đích thân nghe, và Fredo hỏi Figaro chàng ta có điếc không. Ta đã nói là ta sẽ lên ngay, rõ chưa?

Fredo rút ra một khăn tay sạch khác bằng len, loại thượng hảo hạng, và đặt xuống trên giường cạnh Rita. “Này, cưng ơi,” anh nói. Giống như một chàng cao - bồi, “Này, người đẹp ơi.”

Nàng khịt mũi và bỗng lặng đi như hoảng sợ chuyện gì.

“Anh sẽ trở về ngay,” chàng nói. Chàng nhìn đồng hồ - một thói quen chàng có được từ nhỏ - và thu xếp để tắm và cạo râu ria trong vòng không đầy năm phút. Chàng mặc vào một áo khoác thật dày và bước ra trở lại, và nàng vẫn còn đó.

“Em xin lỗi,” nàng nói.

Anh muốn nàng rời đi, đúng vậy, và ngay lập tức, nhưng anh không muốn cảm thấy mình quan trọng chuyện ấy. Tuy vậy, nàng không còn khóc nữa, hẳn là một tín hiệu gì đây.

“Chắc chắn là nhanh thôi,” nàng nói. “Em cần tắm sơ. Em xin lỗi. Em biết minh nên đi ngay.’

“Em cứ ở lại bao lâu tùy thích,” anh nói. “Còn anh, xin lỗi, phải đi gấp vì anh - ”

“Có việc quan trọng,” nàng nói hớt. “Em biết ‘gồi’. Em xin lỗi.” Nàng dụi mắt và chỉ vào phòng tắm. “Em sẽ nhanh thôi.”

Trong khi nàng vào phòng tắm anh đưa vào ít đồ dùng và gọi xuống quầy tiếp tân dưới nhà gọi taxi và trả luôn tiền xe cho nàng.

Mười hai phút đau đớn nhức nhối, căng thẳng đằng đẵng trôi qua và cô nàng mới bước ra khỏi phòng tắm với mái tóc chải gọn gàng và khuôn mặt hồng lên vì được chà rửa kĩ, với môi được tô son và người nàng toát ra mùi nước hoa thật nồng. Trên đời ít có thứ nào chàng thấy khó chịu hơn mùi nước hoa quá nồng. Chàng mở ti vi lên và đưa nàng vào đại sảnh.

“Chúng ta đã thương nghị, đúng không?” chàng nói khi nhấn nút thang máy.

“Đúng ‘gồi’. Nàng đưa bàn tay phải lên, hướng lòng bàn tay về phía chàng. Và nói với vẻ nghiêm túc: “Em là người biết trọng lời hứa.” Nàng gượng một nụ cười. “Chắc anh đang nghĩ là em sẽ không nói điều đó đâu. Chuyện đánh quả quá xá đã ấy - ”

Nói chuyện ấy hay không nói chuyện ấy thì có cái quái gì đâu mà quan trọng cơ chứ? Anh nghĩ có lẽ mình nên hỏi số điện thoại của nàng, nhưng thường thì chuyện này chỉ tổ rắc rối thêm.

Thang máy mở ra và giúp anh thoát khỏi nỗi khốn khổ của im lặng. Anh vỗ vào lưng nàng khi nàng bước ra.

“Chúc anh may mắn với công việc,” nàng mi gió anh. “Cor - le - on - e.”

Anh trông chừng hai cánh cửa thang máy khép lại. Anh nhìn hình ảnh mình bị méo mó trong hai cánh cửa bằng đồng thau được đánh bóng. Chẳng có gì nhiều để nhìn. Anh nhấn nút lên tầng thứ sáu, áp đôi lòng bàn tay vào mặt phẳng mát lạnh của kim khí rồi ôm cái đầu mệt lử, rã rời. Ai bảo là đời sống dễ dàng. Tuy vậy anh còn đứng đây. Anh đã phạm những sai lầm, như bất kì ai, và sống để nói về điều đó, không giống như phần lớn những người mà anh biết.

Cửa mở và anh đi vào phòng.

Thiên hạ vẫn nghĩ về anh như một anh chàng khá dễ thương song đồng thời cũng hơi yếu đuối, kém bản lĩnh, tài trí không bao nhiêu. Anh biết rõ như thế lắm. Nhưng mà, hẵng đợi đấy. Ai anh tài, ai tuấn kiệt, trong trần ai ai dễ biết tay ai? Xem nào. Có bao nhiêu kẻ có thể chống chọi những tình huống căng thẳng cân não trong một ngày như hôm nay và trụ vững kiên cường hơn Frederico Corleone này? Chàng đã thức dậy giữa một quyết định thực sự là tệ hại mà chàng không thể để cho mình nghĩ về nó nhiều hơn nữa, không biết ngay cả là mình đang ở đâu, không biết ngay cả là tại cái xứ sở nào. Tuy thế chàng cũng đã, ngay lúc trời vừa rạng sáng, kịp kéo mình ra khỏi nơi ấy, và nhờ vào bản năng kì diệu nào chẳng biết nữa, đã đi vào đúng hướng. Được rồi, chấp nhận là chàng đã để quên khẩu súng và cái bật lửa, nhưng ở một xứ sở khác, vậy nên bạn hãy nghĩ là chuyện đó xong rồi. Khẩu súng đó không đăng kí nên là của kẻ vô danh. Chàng có hơi sơ suất một tí khi ở hải quan, nhưng nhờ trời, chàng đã nhanh trí đúng lúc khi nói rằng những quả cam không phải của mình, và lượng rượu chàng uống chỉ vừa đủ giúp mở mắt thôi, chưa đến mức bị ghi phạt, và việc buông ra cái tên Joe Zaluchi là một đánh cược với may rủi nhưng có tính toán với xác suất thành công cao. Tất nhiên cũng có thể là chuyện ấy làm Fredo gặp rắc rối. Nhưng, okay, vận rủi đã không xảy đến. Thử hỏi, có bao nhiêu kẻ có thể giữ được máu lạnh như anh sau khi bị bắt giữ. Anh đã đi qua tuyến đường trắng đó như một nhà vô địch. Bọn hải quan khù khờ đã sợ anh. Hai lần diễn lại, lần nào cũng hoàn hảo. Anh đã không nói bất kì điều gì mà anh không bắt buộc phải nói theo luật lệ, anh đã không ngay cả gọi luật sư bênh vực. Mấy tên ngốc nghếch kia đã để anh đi và vẫn nghĩ rằng anh là Carl Frederick, phụ tá quản lí phụ trách Bãi Đậu Xe Moóc của Lâu Đài Trên Cát.

Cuối cùng là, lí do duy nhất khiến thiên hạ nghĩ Mike tài năng xuất sắc còn Fredo là anh chàng ngất ngư chẳng qua là do Mike mang tham vọng xây dựng một đế chế lớn còn Fredo chỉ muốn có thời gian vui vẻ thảnh thơi và anh muốn quản lí một công việc, dầu quy mô nhỏ nhưng chỉ thuộc về riêng mình anh thôi. Đại khái là một doanh nghiệp lớn hơn bãi đậu xe moóc nhưng nhỏ hơn General Motors. Như thế thì có gì là sai trái nào, nói nghe coi? Thế mà ngay cả cái đó cũng còn hơn là những gì mà Mike sẽ cho anh. Thay vì thế, hắn phong cho ta một cái tước vị hão. Sotto capo. Phó tướng. Nhảm nhí! Chẳng khác nào phong ta làm Anh Hề của Đức Vua hay Tên Vô dụng trên Con la hay những cái chức phó hữu danh vô thực. Ta thà làm đầu gà chẳng thèm làm mắt trâu.

Anh bước ra trên tầng sáu và dùng chìa khóa riêng để vào phòng trưng bày ma-nờ-canh. Toàn bộ việc sắp xếp ở đây do ai nghĩ ra? Là ý tưởng của Fredo. Ai cũng thích cách bài trí đó và có những kẻ còn yêu sách là cũng đã từng nghĩ như thế. Vậy sao trước đó không nói ra đi. Anh có nghe rằng nhiều casinos khác đã và đang sao chép lại thiết kế của anh. Chuyện lớn chuyện nhỏ, ta nào có kể công. Ta nào có khoe khoang. Nhưng mà, dầu sao, vuốt mặt phải nể mũi chứ.

“Ngài dùng rượu gì ạ?” tay bartender nơi bãi đáp bí mật hỏi.

“Ồ không,” Fredo nói. ‘ Một lon bia lạnh được rồi.”

Có lẽ anh nên lên cầu thang. Cơ hội để thấy nhiều điều hay. Nhưng mà anh đã mệt lử và li bia trong tay anh đem lại cảm giác mát lạnh và dễ chịu, và anh cũng còn chờ chiếc thang máy đến.

Khi thang máy đến, Figaro và Capra và hai trong số những tay mới tới từ New York, bước ra. Trông họ không có vẻ như những con người đến từ sự kiện vui vẻ mà họ vừa tham dự. Điều này không thể gán cho chuyện Figaro biết được rằng chàng ta đã để lỡ cái đêm quan trọng cho đời mình. Đây là anh chàng duy nhất tư trước đến giờ ở bên ngoài New York được dự trù kết nạp, vì vậy chàng ta sẽ chẳng bao giờ đoán được chuyện gì và cũng sẽ chẳng có ai nói cho chàng ta biết.

“Bố khỉ,” Figaro nói. “Chúng tôi đã tính cử một tổ tìm kiếm rồi đấy. Thực ra, chúng tôi đang là một tổ tìm kiếm. Ông ở đâu vậy?”

“Chú mày đã kêu vào phòng ta cả vài mươi lần mà chú mày đếch muốn biết ta đã ở đâu?”

“À không, tôi muốn nói là, cái gì mà lâu thế? Chỉ còn có ít người ở lại khi chúng tôi đến đó, nhưng bây giờ thì chẳng còn mống nào. Trừ Rocco. Anh ta còn đang chờ ông.”

Tin tức mà Fredo được cho là phải đích thân nghe.

“Chuyện gia đình ta?” Fredo lẩm bẩm.

Figaro lắc đầu. “Không có gì như vậy. Thực sự ông nên đi lên đó và gặp Rocco.

“Không có ai trên đó cả à?” Fredo hỏi. “Hay đúng hơn, ý tôi là, không còn nhiều người trên đó, ngoại trừ có mỗi mình Rocco?”

Capra - mà tên thật là Gaetano Paternostro, một cái tên quá là cầu kì kênh kiệu và cũng quá ư là đường bệ, vương giả cho một chàng trai quê mùa mặt như con nít này - chận Figaro lại trước khi anh ta có thể trả lời, để hỏi anh ta là Fredo nói gì vì cậu ta không nghe kịp - bởi cậu ta sinh ra và lớn lên ở miền quê Ohio, nghe chưa quen giọng New York của người kinh kì, mà Fredo lại nói quá lưu loát và quá nhanh nữa. Kể cả Figaro - cũng là dân quê Ohio, nên khả năng nghe cũng còn hạn chế. Anh chàng thợ cạo này, trong tư cách là tay cá cược, thì nhờ thạo ‘tuy - dô’ nên là tay kiếm tiền giỏi, nhưng cho đến nay vẫn còn khó cho Fredo để nhìn thấy cái gì xa hơn nữa mà Mike nhìn thấy nơi anh chàng này.

“Tôi hỏi anh bạn thợ cạo của chúng ta vốn có bệnh huênh hoang anh hùng rơm một tí,” Fredo nói bằng phương ngữ Sicily cho cu cậu Capra dễ hiểu, “là có bao nhiêu người bạn khác của chúng ta còn ở lại trên kia, trong phòng lớn đãi tiệc.”

Capra cười. Non lo so. Cinque o forse sei (Không nhiều lắm. Năm hay sáu người thôi. Vì trong nguyên tác không dịch ra tiếng Anh, còn phương ngữ Sicily thì người dịch mù tịt, chỉ đoán chừng là nó cũng hơi giống tiếng Ý nên dịch mò, dịch phỏng thế thôi, không bảo đảm là đúng hay sai).

Fredo gật đầu. Dầu sao thì anh cũng sẽ gút lại. Có được gì đâu khi lái xe đi tối nay thay vì đi máy bay ngày mai nếu như ngay cả xuất hiện cho có mặt thôi mà anh cũng không chịu khó một tí. “Xem này,” anh nói với Figaro. “Tại sao chú mày nghĩ ta phải lâu như thế?”

“Ông hỏi tôi còn tôi biết hỏi ai? Nào, Fredo. Tôi được cho một công việc. Tôi làm công việc đó. Với tất cả sự tôn kính đúng mức, xin ông làm ơn, non rompermi i coglioni? (Chỗ này thì người dịch chịu thua vì tra tự điển tiếng Ý không thấy có những từ nào giông giống với những phương ngữ Sicily này cả, nên... hết phép!)

Capra và hai anh chàng kia đã đi đến quầy bar. Cà phê lai rai.

“Không phải ta định thi hành kỉ luật chú mày đâu nhé.” Fredo nhướng một bên mày. “Chú mày có ý nói là chú mày không nghe tiếng cô nàng? Nơi bối cảnh đó?”

“Hẳn là ông đang đùa tôi.” Bởi vì đấy cũng là điểm chính trong lí do khoan miễn của anh sáng nay.

“Một kiều nữ Pháp. Nữ vũ công, tôi quên hỏi ở đâu. Tôi gặp nàng trên đường đi lên, rồi chuyện này kéo theo chuyện khác, chú biết đấy, ba cái sự vụ này rồi đi đến đâu.”

Figaro lớn hơn Fredo đến mười tuổi, đầu hói bóng chỉ còn lơ thơ mấy cọng, và có lẽ dầu mấy em có cọ quẹt gợi tình cũng hết còn ham vì khổ nỗi, đã lâm vào tình trạng trên bảo dưới không nghe! Lão ta lắc đầu. “Ông phóng đãng quá. Ông định lập kì lục vế chuyện đâm thọc mấy em đấy à?”

Ai đó đã đóng lại cái máy làm phòng khiêu vũ quay tròn. Không khí ngột ngạt khói thuốc và rượu tràn đổ. Tại một cái bàn được phủ bằng một khăn trải bàn màu trắng nhưng đã hoen ố bẩn thỉu bốn tay đã lớn tuổi thuộc phiên hiệu của Tessio trước đây, đang ngồi chơi domino. Hai trong số đó là anh em nhà Di Miceli, mà một trong hai người (Fredo không thể phân biệt được vì họ là anh em sinh đôi, giống nhau như hai giọt nước) có một cậu con trai vừa được khai tâm tối nay. Anh không biết hai người kia. Fredo thực sự không rành lắm về đám ở Brooklyn.

Ngồi lọt thõm trong chiếc ghế bành rộng màu lục ngọc biển, riêng một góc, là Rocco Lampone, đang nhìn trừng trừng ra ngoài cửa sổ và lẩm bẩm điều gì đó với riêng mình. Để riêng sang một bên cảnh trí, thì như thể Fredo bước vào một trong những nơi chốn ở Gowanus nơi những người lính chính quy bắt đầu buổi sáng với một cốc cà phê pha rượu brandy và, hoặc ngồi yên lặng trầm tư, hoặc tán gẫu về những bài ca phát ra từ chiếc máy hát tự động hay “bình loạn” chuyện thế giới đang đi về đâu.

“Xin chào!” một trong hai anh em nhà DiMicelis hét toáng lên. “Có phải ngài phó tướng của chúng ta đó không?”

Fredo chờ đợi ai đó còn tạo ra một lời đùa nặng đô hơn về chuyện này. Chứ đùa như thế hãy còn là quá nhẹ! Anh đâu có đòi hỏi phẩm hàm chức tước mà cũng đâu cần. Ba cái danh hão thì làm đếch gì! Anh biết thiên hạ nghĩ là anh yếu đuối. Anh biết người ta mù mờ về những trách nhiệm của anh hay về những lí do để Michael tạo ra chức danh này. Anh lại còn bỏ lỡ không tham dự cuộc họp quan trọng tối nay nữa, khiến càng thêm rách việc. Những người khác chỉ gật đầu và chào chiếu lệ, hello.

Rocco ra hiệu cho Fredo. Kế bên anh ta ở gần cửa sổ là một chiếc ghế inox để trống. Ngoài kia, một ban nhạc jazz sử dụng toàn kèn đồng và bộ gõ trên một sân khấu tạm ở sân thượng tầng dưới, chơi một bản từ loại nhạc nổi tiếng về người da đen. Toàn bộ sân thượng nhung nhúc người, mặc dầu không có ai nơi hồ bơi. Khoảng hai tá máy đánh bạc tự động, bốn bàn blackjack và hai bàn craps đã được bày ra tại đấy. Nhiều quầy bar đầy người và một tiệc buffet điểm tâm.

“Có chuyện gì vậy?” Fredo hỏi, chỉ tay.

“Anh đã ở đâu?” Rocco không trả lời mà cũng hỏi lại kiểu nhát gừng.

“Detroit. Los Angeles. Lỡ chuyến bay. Chuyện dài lắm.”

“Là một chuyện tôi nghe. Anh ở đâu kể từ khi anh quay về đây? Về khách sạn? Và bắt tôi chờ ở đây như thể tôi là - ” Rocco xoa hai đầu gối mỏi nhừ. “Và tôi phải ở đây, dài cỗ chờ anh, mỏi mòn.”

Một trong mấy người chơi domino cười sằng sặc. Fredo nhìn qua vai anh ta. Anh chàng cười sằng sặc đó xoa cái đầu hói của một ngươi không thich cười, đang ngồi bất đông, lấy tay ôm đầu.

“Một cách nghiêm túc,” Fredo nói, “chuyện gì xảy ra nơi đó vậy?”

“Vui lòng ngồi xuống.” Rocco chưa bao giờ là một người khéo nói và cũng không phải là người ưa nói nhiều. Từ tia nhìn nơi khuôn mặt anh ta rõ ràng là anh ta chưa hình dung ra cả chuyện phải nói cái gì lẫn chuyện phải nói như thế nào.

Fredo ngồi xuống. “Có phải chuyện Má?” anh buột mồm nói ra.

“Không phải.” Rocco lắc đầu. “Có một tai nạn,” anh ta nói. “Những người bạn của chúng ta. Tôi ăn nói dở quá nên không biết diễn tả sao cho có đầu đuôi, mạch lạc.”

Trên sân khấu ọp ẹp, thị trưởng Las Vegas - cũng là một cựu nữ vũ công nay vẫn còn đôi nét xuân tàn, Fredo nghĩ - điều chỉnh cái khăn quàng vai màu cam sáng rực trên đôi núm vú to đùng nhưng chẳng có công dụng thực tế nào của nàng tóc nâu đang cười rất tươi mà Hal Mitchell đã đặt tên là Hoa hậu Bom Nguyên tử. Nàng Bom Nguyên tử bới tóc cao thành búi được thoa bóng mô phỏng một đám mây hình nấm. Bà thị trưởng thử đặt chiếc vương miện được chế tác một cách thô thiển lên đầu nàng từ phía trước, song không thể được nếu không dựa vào hai núm vú của nàng, do vậy bà thử đặt từ phía sau và ngần ngừ ngắm nghía rồi trao vương miện cho nàng tóc nâu. Hoa hậu Bom Nguyên tử phải tự đội vương miện cho mình. Nàng không nao núng. Đây là một phụ nữ rất hạnh phúc. Bộ đồ tắm của nàng được thiết kế rất thoáng để bạn được thấy tối đa những gì được phép thấy. Chàng nhạc công trombone khởi động ban nhạc. Hoa hậu Bom Nguyên tử bước đến trước micro và bắt đầu hát bài “Praise the Lord and Pass the Ammunition.”

Các bàn chơi bài khai cuộc. Mọi máy đánh bạc được sử dụng. Người ta tản mác mọi nơi trên các ghế dài và bàn dã ngoại, ăn bằng các đĩa giấy chất đầy thịt trứng.

Fredo đã mang theo tất cả đến đây - đoàn tùy tùng đi cùng: Figaro và Capra thêm hai trợ thủ từ New York, những cái bóng của anh ta cho đến khi bất kì chuyện gì xảy ra bởi vì những cái chết kia ở Cleveland đã xảy ra - trước khi anh có bất kì ý niệm nào về chuyện gì đang xảy ra.

Hoa hậu Bom Nguyên tử nhún nhảy trong khi hát và đang cười toét miệng với vẻ thành thật lộ rõ khiến bất kì con người nào biết điều có lẽ đều muốn khen ngợi nàng hoặc làm vỡ tim nàng, bắt đầu hát “Take the A Train” (Hãy lên chuyến tàu hạng A) nhưng với ca từ mới “Drop the A Bom” (Hãy thả bom A).

Fredo rất máu chuyện tán tỉnh các em nai tơ nhưng bây giờ anh đã quá đủ. Anh hướng đầu về phía lối ra và các vệ sĩ của anh nhìn theo chủ nhân của họ.

Ngay lúc đó, không vì một lí do rõ ràng nào, mọi sự bỗng nhiên yên lặng. Ban nhạc ngừng chơi, tiếng xì xồ của khách khứa dường như bị nuốt ngược vào trong cỗ họng của họ và những tiếng động của xe cộ lưu thông dưới đường cũng làm cho người ta để ý bằng cách đột nhiên ngưng lại. Fredo nhìn lên và hóa ra là thế: một quả cầu nở bung ra toàn khói trắng trên bầu trời đông bắc.

Và sau đó âm thanh trở lại.

Đó là chuyện ấy?

Mọi nơi trên sân thương người ta đi thơ thẩn và nhảy nhót. Nàng hoa hậu dường như là người duy nhất vỗ tay. Và rồi:

Một luồng hơi nóng cồn cào dữ dôi như trút ra từ lỗ thông thoát của lò cao áp sắp hàng với những đèn cực tím khiến anh phải quay nhanh đầu lại. Fredo dùng cả hai tay che đôi mắt mình.

Mấy giây trước đó, trên một bãi ruộng muối cách nơi này sáu mươi lăm dặm, có một địa điểm gọi là Doomtown - một loạt các ngôi nhà kiểu Mỹ được xây dựng theo nhiều cách khác nhau (không có hai nhà nào giống nhau), mỗi nhà được làm đầy với mùi vị của một trong những món ăn Mỹ (không có hai món nào giống nhau), đang nguội lạnh đi trên bàn ăn, mỗi bàn được vây tròn bởi những mặt người mặc quần áo khác nhau mang nhãn hiệu JC Penney mới toanh. Bên trong và chung quanh Doomtown, tại những khoảng cách khác nhau so với ngọn tháp cao năm mươi bộ vốn là điểm trung tâm của thành phố, là hàng tá những con heo bị nhốt lại, riêng từng con, và chúng im lặng một cách kì lạ. Trong lúc hai trăm người lính Mỹ quan sát, ngồi thu mình trong những giao thông hào do chính họ đào cách vành đai của Doomtown một dặm, chính quyền Mỹ cho nổ một quả bom hai mươi chín kiloton. Trong giây đầu tiên sau vụ nổ, nhà cửa, những người nộm, thức ăn và các chú, các cô heo gần nhất với ngọn tháp liền trở thành lửa, gió và bụi. Xa hơn nữa, như các cameras ghi lại, là các người nộm bị chặt đầu bốc cháy và bị nghiền nát. Những con heo đang cháy vừa chạy vừa la hét trên những lối đi và nổ tung. Nửa giây khác vụt qua, và tất cả cũng trở thành tro bụi. Trong nửa giây sau đó, một ngọn gió nóng ghê gớm hơn cả hai mươi cơn giông tố cuốn đi phần lớn những gì còn lại của thành phố. Đá vụn li ti từ cát muối, thủy tinh, thép, gỗ hay uranium hay từ xương heo, bắn đi với tốc độ siêu âm xuyên qua mọi thứ.

Các giao thông hào đổ sụp. Những người lính bị chôn sống, nhưng tất cả đều sống sót nhờ người ta đã dự kiến tình huống này và đã chuẩn bị sẵn sàng những toán cứu hộ.

Phần lớn những con heo ở xa hơn một ngàn yards tính từ ngọn tháp sống sót nhưng bị cháy nặng nên người ta đã bắn hạ chúng trước khi có bất kì ai đi vào để thu gom những máy đếm Geiger (phát hiện và đo độ phóng xạ).

Sân khấu chính đúng là Doomtown (Thành phố chết/ Thành phố ngày tận thế).

Sân thượng của Lâu Đài Trên Cát chính là cảnh chờ đợi. Trong thời gian Fredo Corleone cần để nghĩ đến việc dùng cả hai tay che mắt cho đến thời điểm bàn tay anh chạm vào mặt, hơi nóng mãnh liệt đã giảm đi nhiều. Sau đó, bụi nhỏ li ti rớt xuống, quá nhỏ để thấy và chỉ vừa đủ lớn để cảm nhận. Phần lớn người ta lờ đi. Thiên hạ vẫn tiếp tục tìm vui với cây bài lá bạc.

“Chuyện này chẳng hay ho gì đâu,” Fredo nói.

“Ông muốn chỉ cái đám bụi kia?” tay thợ cạo nói, chỉ vào đám bụi (thật ra thì có thấy đâu, chỉ cảm nhận lơ mơ thôi), vào không khí.

Anh chàng chăn dê lè lưỡi ra như thể đang bắt lấy những bông tuyết.

“Bọn Đỏ muốn chúng ta nghĩ đó là cái gì có hại,” tay thợ cạo nói, “nhưng đó chỉ là một âm mưu để làm cho Mỹ ngưng mọi thí nghiệm để cho bọn Nga có thể bắt kịp chúng ta. Tin tôi đi. Cái này chẳng là gì cả. Tro bụi. Còn kém hơn cả không là cái đinh gỉ gì cả! Thôi, chúng ta đi.”

“Chẳng là gì cả,” Fredo thì thầm để tự trấn an, vừa phủi những hạt bụi vô hình khỏi tay áo mình.

Ngay bên trên, hai trong số những cửa sổ lớn lắp kính của phòng khiêu vũ được che khuất bởi tường chắn trên cùng của casino đã bay đi. Mấy tay chơi domino đứng đó nhìn thấy rõ nhưng không tin nổi mắt mình. Fredo không nhìn lên. Tại sao anh phải nhìn. Các cửa sổ đã đổ sụp vào bên trong. Từng mảnh vụn của thủy tinh vỡ đều được hút vào bên trong.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3