Bố già trở lại - Phần III - Chương 12 - Phần 1

PHẦN III

Mùa Thu - Giáng sinh 1955

Chương 12

Những cái chết của Toni Molinary và Frank Falcone - đến trong lúc họ đặt chân lên ngưỡng cửa của cái từng được nhìn như là một nền hòa bình lâu dài - đã truyền đi những làn sóng sốc xuyên suốt thế giới ngầm của cả nước. Đứng bên ngoài, thì bất kì ai có lẽ cũng giả định rằng cú rớt máy bay là một tai nạn: bão tố mạnh, những túi không khí do hiệu ứng mặt hồ (lake - effect air pockets) và thế là xong, vụ việc được xếp lại. Sự biến mất vẫn chưa được giải mã của Gerald O’Malley, người sống sót duy nhất từ tai nạn đó làm nổi lên những nghi ngờ, như những lời nói lộn xộn của anh ta truyền về tháp kiểm tra không lưu ở Cleveland đã gây nên, trong đó anh ta rõ ràng đã tự hỏi không biết máy bay có bị phá hoại hay không. Mặc dầu điều này, giọng của anh vẫn còn điềm tĩnh cho đến ngay trước cú va chạm, khi anh ta hét lên, “Sotto fottuto,” mà báo cáo của Cơ quan Quản lí Hàng không Liên bang dịch ra là “Tôi toi đời rồi!.” Những người điều tra không tìm thấy bằng chứng cụ thể nào của phá hoại Họ gán câu khẳng định của viên phi công vào sự thiếu kinh nghiệm của anh ta. Họ cho cú rớt máy bay là một tai nạn. Do lầm lẫn của phi công.

Xét theo bất kì thước đo nào thì sự kiện tang lễ cuối cùng mà bốn người vừa chết kia cùng tham dự, là đám ma của Vito Corleone, cũng chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Thế nhưng theo một niềm tin huyền bí của Mafia, mà những nguồn gốc được xác chứng ở Sicily từ thế kì mười chín cho đến nay, thì mọi hành vi của con người - dầu nhân từ độ lượng hay độc ác dữ dằn, có chủ tâm hay ngẫu nhiên, dầu phát sinh từ thói hung hăng hiếu chiến hay từ bản năng tự vệ để sinh tồn, từ đam mê mù quáng hay từ lí trí lạnh như băng - đều là một phần của mạng lưới tuy mong manh nhưng bao phủ xuyên suốt trong đó không một rung ngân xôn xao nào, không một rộn ràng xiết buốt nào là quá nhỏ để không tạo nên cảm ứng khắp nơi (Điều này khiến chúng ta - người đọc ở Đông phương - dễ liên tưởng đến những quan niệm Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất thất - Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt - của Đạo gia hay quan niệm một vi trần - hạt bụi rất nhỏ - cũng có tác động đến sáu cõi luân hồi của nhà Phật. Chú thích của ND.) Đối với một người Sicily - mà tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ duy nhất trong thế giới phương Tây không có thì tương lai - thờì quá khứ và hiện tại là một. Đối với một người Sicily mà dòng máu đã phải chịu đựng từ sáu ngàn năm bao cuộc xâm lăng và chiếm đóng, từ những đạo quân Sparte, rồi Carthage, đến những đạo quân Hồi giáo của đế quốc Ottoman rồi đến những đạo quân của Napoléon, của vương triều Bourbon... thì một tai nạn hay một trùng hợp ngẫu nhiên thì không vô nghĩa hơn cũng không có ý nghĩa hơn một hành vi có chủ ý. Mỗi một hành vi hay một sự cố đều không thể tách biệt với hành vi hay sự cố khác. Đối với một người Sicily, không có gì xảy ra mà ở bên ngoài một khung cảnh. Nói nôm na là mọi chuyện đều có dây mơ rễ má với nhau cả.

Những người cứu hộ của Lực lượng Phòng vệ Duyên hải đã đặt O’Malley lên xuồng cao tốc và đưa anh ta đến một bệnh viện gần đó, nơi mà cô điều dưỡng nhận bệnh nhân căn cứ vào giấy phép lái xe của bang Nevada cấp cho nạn nhân, tìm thấy trong túi áo trước của anh ta - đã tiếp nhận anh vào lúc 10.25 tối như là “Gerald O’Malley, nam, gốc Caucasian, 38 tuổi.” Cái chân gãy của anh ta được điều trị bằng phương pháp kéo giãn liên tục, những xương sườn gãy được băng bó, những vết thương khác được khâu lại. Anh ta không có vẻ bị bất kì nội thương nghiêm trọng nào nhưng còn cần thực hiện những kiểm định. Anh ta vẫn bất tỉnh nhưng triển vọng lâu dài thì rất tốt. Tình trạng của anh ta được cải thiện từ nguy kịch đến nghiêm trọng. Theo phác đồ điều trị, các bác sĩ đã kết thúc việc điều trị cho anh vào lúc 4.18 buổi sáng. Ghi chú cuối cùng trên bệnh án là vào lúc 4.30 sáng - dầu ghi chú này có vẻ dường như là giả mạo. Không có gì khác được ghi nhận nhưng thời gian và một vài chữ cái không đọc được thì không một ai ở bệnh viện có thể nhận dạng.

Vào thời điểm đó, những mảnh linh tinh từ chiếc máy bay và từ bốn thi thể khác đã hoặc là tự nổi lên mặt nước hoặc được người ta trục vớt lên.trong ánh sáng xám nhạt của ban mai.

Những cái xác nọ vẫn chưa được nhận dạng - vì đều tung tóe ra thành nhiều mảnh chứ không xác nào còn nguyên vẹn, và cuộc bạo loạn giữa đám phóng viên và các viên chức thi hành pháp luật mà những cuộc nhận dạng kia sẽ kích hoạt, vẫn chưa được tháo ngòi nổ. Kế hoạch bay ở Detroit được chỉ ra như là đã được lập hồ sơ, nhưng không ai có thể tìm ra hồ sơ đó. Máy bay rời Detroit vào buổi sáng và như vậy ắt là đã dừng lại đâu đó trong mười hai giờ tiếp theo nhưng khi viên phi công tiếp xúc bằng sóng phát thanh với tháp kiểm soát không lưu ở sân bay Burke Lakefront, anh ta báo rằng anh bay trực tiếp từ Detroit đến đó. Tháp không lưu cố tìm cách có được lời thông báo rõ ràng hơn, nhưng những đợt truyền thanh của máy bay - có lẽ vì do sấm chớp - nên chỉ là những âm thanh nhiễu rồ rồ. Khi nghe rõ được lại chính là lúc máy bay sắp bị nạn, mọi chú ý của phi công chỉ còn dành cho việc làm thế nào đáp xuống an toàn nhất trong những điều kiện đó.

Công ty đóng gói thịt mà logo nằm ở một bên lườn máy bay có trụ sở bên ngoài Buffalo, New York. Chủ tịch công ty, giọng ngái ngủ, lúc đầu nói với viên chức điều tra rằng ông ta đã gọi nhầm số rồi, rằng công ty của ông không có máy bay nào, mặc dầu khi người điều tra hỏi gằn lại là ông có chắc về điều ấy không thì vị chủ tịch giữ yên lặng một lát rồi nói, “Ừ, đú-ú - úng, máy bay của chúng tôi đấy,” và gác máy. Vào thời điểm những cú gọi khác vang lên và các tay cảnh sát bang vù đến căn nhà trước mặt hồ của ông để mang ông về phỏng vấn, thì ông ta vừa mới tắm rửa, cạo râu xong, mặc vào bộ com-lê, ngồi đợi nơi phòng khách, bên cạnh có luật sư, vị này có thời từng là tổng chưởng lí bang. Nhân danh khách hàng của mình vị luật sư thông báo cho các sĩ quan cảnh sát biết rằng, việc sử dụng không giới hạn trong vòng một tuần chiếc máy bay đang được nói đến đã là một thứ quà tặng từ khách hàng của ông cho người bạn của ông ấy, Joseph Zaluchi - người hai lần được giải danh giá Michigan Philanthropist of the Year (Giải Người Nhân ái của Năm, bang Michigan) và là Thành viên Hội đồng Quản trị từ năm 1953 của Detroit, Hurray! - để hỗ trợ việc chở các khách mời đến dự đám cưới ái nữ của vị này vào dịp cuối tuần vừa rồi ở Detroit, mà vì có một cuộc hẹn khác trước đó nên thân chủ của ông đã không tham dự. Khách hàng của ông không biết gì về những người trên chuyến bay đó hay bất kì chi tiết nào khác về chuyến bay ngoài những gì mà bàn dân thiên hạ đều đã biết. Luật sư hỏi các viên chức cảnh sát liệu họ có trát của tòa để điều tra hay giam giữ không, sau đó cám ơn họ về thời gian họ đã bỏ ra và cám ơn về việc đã để cho khách hàng của ông một mình để ông ấy có thể bắt đầu than khóc cho cái bi kịch đầy bất hạnh này.

Một luật sư của Joseph Zaluchi nói rằng ông Zaluchi không biết gì về người đã làm rơi máy bay ngoài chi tiết anh ta là một phi công thương mại có giấy phép lái máy bay, làm việc cho một hãng cho thuê máy bay có tiếng tăm ở New York. Anh ta được một phụ tá của ông Zaluchi thuê qua điện thoại. Ông Zaluchi bày tỏ lòng tiếc thương sâu sắc đến các nạn nhân và gia đình của họ.

Gerald O’Malley biến mất khỏi bệnh viện trong khoảng thời gian giữa lời ghi chú lúc 4.18 trên bệnh án và khoảng năm giờ, khi một nhân viên tạp vụ đi vào phòng và thấy chiếc giường trống trơn và những ống truyền dịch đong đưa vốn trước đó được kết nối vào hai cánh tay bệnh nhân. Cái ròng rọc vốn được buộc vào cái chân gãy của bệnh nhân đã biến đâu mất và tài sản cá nhân của anh ta cũng thế.

Nick Geraci từng bị bắt nhiều lần (dầu chưa từng bao giờ bị kết án), do vậy dấu vân tay của anh ta hẳn là có lưu lại trên chỉ bộ. Nhưng khi anh ta đến bệnh viện, thì đâu có lí do gì để lấy dấu vân tay anh ta. Phòng của anh ta sau đó đã được dọn dẹp sạch sẽ.

Hai cô điều dưỡng trực phòng mà trách nhiệm lẽ ra là phải kiểm tra thường xuyên bệnh nhân được nhập viện như là Gerald O’Malley thì cô nào cũng khai là mình chắc chắn rằng bệnh nhân đã được giao cho người kia để đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau. Cô điều dưỡng trưởng sau đó đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về lỗi lầm đó và từ chức trong sự thất sủng. Cô chuyển về Florida và nhận một công việc lương thấp hơn cho một công ty cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà. Nhiều năm sau bà đã chết một cách bình yên khi đang ngủ. Khi chúc thư của bà được công bố thì những đứa con của bà đã vui sướng biết bao nhờ vào thói quen tiết kiệm của thế hệ những người Mỹ được trui rèn trong thời kì Đại Suy thoái, nên bây giờ họ được thừa hưởng từ bà mẹ chỉ suốt đời làm nghề điều dưỡng kia một di sản tuy không lớn lắm nhưng cũng vượt ngoài sự tưởng tượng của họ.

Nhiều cơ quan thi hành pháp luật và vô số phóng viên cố gắng trong nhiều tháng trời để giải mã “huyền nhiệm về người phi công mất tích” (the mystery of the missing pilot).

Nhưng tất cả đều thất bại. Nhiều thành viên của Thượng viện Hoa Kỳ, lợi dụng sự mê hoặc của công chúng đối với vụ việc, bắt đầu tranh luận xem liệu có nên cho phép nghe lén về chuyện này và về những vấn đề khác liên quan đến mối đe dọa đang tăng lên từ các nghiệp đoàn tội ác có tổ chức và có lẽ không loại trừ sự nhúng tay của Cộng sản nữa, ở Mỹ, và họ gọi những biện pháp đó là ‘ ngăn chận từ xa,” là “không thể tránh ‘ nhưng là “chuyện vạn bất đắc dĩ phải làm” vì “sự an toàn của vợ con chúng ta” và cả để bảo vệ “lối sống Mỹ” nữa.

Bằng lái không phải là giả, nhưng chứng thư khai sinh mà Bang Nevada có trên danh bộ lưu thì thuộc về một trẻ sơ sinh chết non, được chôn trong nghĩa trang New Hampshire..

Thông tin mà đám cảnh sát liên bang có được về O’Malley liên quan đến giấy phép phi công của anh ta tất nhiên cũng đưa đến cùng cái nghĩa trang New Hampshire đó.

Tại sao lại có sự vụ như thế, chuyện đó chỉ có... Thượng đế và Tom Hagen biết. Cái nghĩa trang kia nằm cạnh một con đường, cách nhiều dặm về phía Bắc đã trở thành điều trở ngại của thành phố nơi Kay Adams Corleone lớn lên. Không lâu sau khi Michael ra lệnh thủ tiêu chồng của em gái mình và nói dối với Kay về chuyện này, cô li thân với anh. Cô đem theo mấy đứa con về nhà bố mẹ ruột. Michael chỉ gọi điện cho cô có mỗi một lần. Một tuần trôi qua. Một buổi sáng Hagen xuất hiện trong chiếc Limousine. Tom và Kay cùng tản bộ vào rừng. Mike muốn Kay biết rằng nàng có thể có bất kì cái gì nàng muốn và làm bất kì điều gì nàng thích bao lâu mà nàng vẫn chăm sóc tốt cho mấy con, và rằng chàng yêu nàng và - theo một kiểu đùa dụng công một cách rất đặc trưng - nàng là Lãnh chúa, là Trùm của chàng. Hagen chỉ truyền lại thông điệp này sau khi tiết lộ cho nàng biết một vài trong số những việc mà Mike đã làm - một hành vi thách thức nguy hiểm có thể khiến Hagen toi đời như chơi. Nhưng nó có công hiệu; cuối cùng Kay về nhà. Trên đường trở về New York, Hagen dừng lại ở một thư viện công bất kì nào đó, lướt qua một tập cũ của tờ báo địa phương, và đọc câu chuyện buồn về Gerald O’Malley, bị bệnh bạch hầu và được Chúa cho về bên Người lúc mới mười một tháng tuổi. Hagen đậu xe ngoài xa khuất tầm nhìn của những người ở thư viện và đi vào tòa án. Anh ta là người không có điểm gì đặc biệt nên rất khó phân loại; anh biết cách xử sự thế nào nơi thư viện hay nơi tòa án để cho người ta sẽ quên anh ngay khi anh rời đi. Những cuộc du hành thường xuyên của anh đến nhiều nơi đã cho phép anh thu thập nhiều bản sao chứng thư khai sinh có công chứng từ khắp mọi miền đất nước, không bao giờ ở cùng một tòa án đến hai lần. Anh có một cuốn dày như cuốn catalog của Sears. Khi Geraci yêu cầu một chứng thư khai sinh mang một cái tên Ái Nhĩ Lan, tên bé O’Malley hiện ngay trên cùng.

Một khi những chi tiết lí lịch của người chết được xác nhận và sau đó được công khai, bất kì ai biết hay nghi ngờ Vincent Forlanza là gì và loại tình huống nào ông đã gặp trên Đảo Rắn Rung Chuông đều giả định ngay rằng chiếc máy bay đã qua cả buổi chiều ở đó - điều này, mà không hề có ý niệm mơ hồ nào rằng viên phi công là nghĩa tử thực sự của Forlenza. Những người có thẩm quyền tất nhiên chẳng chứng minh được gì.

Forlanza, bị hỏi cung hai ngày sau khi tai nạn xảy ra, cũng với sự hiện diện của các cố vấn pháp luật nổi tiếng, đã tự hỏi phải chăng quý vị thi hành pháp luật đã coi ti vi chiếu phim găng-x-tơ quá nhiều nên bị lậm, nhìn thấy đâu cũng là găng-x-tơ. Cả trên hòn đảo yêu dấu vẫn được ông coi là thánh địa của mình cũng có găng-x-tơ? Thế thì thiên hạ sắp đại loạn đến nơi rồi! Bây giờ ông đã nghe mọi chuyện; trong bất kì trường hợp nào thì ông cũng đã ở nhà suốt cả kì nghỉ cuối tuần, ngoại trừ chiều chủ nhật, khi những kẻ bị gọi là găng-x-tơ đó được giả định là đã đáp xuống đảo Rắn Rung Chuông để thực hiện một thứ gì đó? Một cuộc họp thượng đỉnh? Một hội thảo? Cũng chẳng thành vấn đề. Forlanza bảo rằng ông đã qua cái ngày được nói đến đó như là khách mời tại cuộc đi chơi trên bãi biển (clambake) vào ngày Lễ Lao động được một công đoàn đia phương tài trợ, cùng nhau quây quần dưới một cái lều cực lớn, uống bia ướp lạnh của công đoàn sản xuất, cùng nhậu hải sản tươi sống và vui đùa hỉ hả trong ngày lễ quan trọng của quốc gia, một câu chuyện được bất kì thành viên nào trong văn phòng thường vụ của Nghiệp đoàn Xe tải Cleveland xác nhận.

Sự mô tả ngoại hình của O’Malley mà cảnh sát tổng hợp lại từ những cuộc phỏng vấn các nhân viên cứu hộ và nhân viên y tế không hứa hẹn gì nhiều. Họ đã nhìn thấy những thương tích của con người đó nhưng không nhìn rõ mặt mũi hình dáng của anh ta bởi lúc đó họ quan tâm nhiều hơn đến những dấu hiệu của sự sống nơi nạn nhân hơn là lo quan sát kích cỡ đôi tai anh ta, hay hình dáng đôi mắt (nhắm nghiền) của anh ta, hay là những điểm tinh tế trên cái rìa có cạnh lởm chởm của cái lỗ mũi từng bị dập nát nhiều lần của anh ta (xin độc giả nhớ lại: Nick Geraci từng một thời gian khá dài kiếm sống bằng nghề đấm bốc nên chuyện bị nện cho dập mũi là chuyện thường) và trong tai nạn này thì mũi anh còn bị dập nặng hơn, sưng phồng lên và thâm tím khiến anh chàng trông... đẹp trai hơn cả Dracula!

Không ai ngoài hai tổ chức Corleone và Forlanza có thể đoán ra rằng Gerald O’Malley cũng chính là Nick Geraci. Không ai ngoài những Gia đình này biết gì nhiều về Nick Geraci là ai và anh ta làm những chuyện gì. Bảy năm lăn lộn trên sàn đấu, ngay cả với những trận đấu có luật lệ quy định hẳn hoi, đã “sắp xếp lại” khuôn mặt của anh ta đủ khiến cho bạn bè thời niên thiếu cũng khó còn nhận được ra anh ta. Anh ta thượng đài dưới nhiều tên giả đến nỗi chính anh ta cũng không nhớ hết. Các tay đấm bốc hàng ngày được tuyển làm loại tay sai chỉ đâu đánh đó hoặc làm vệ sĩ sẵn sàng chịu đấm ăn xôi, lấy thân che chắn cho ông chủ, và bất kì tay cơ bắp trung thành nào có được nửa phần óc não cũng có thể trở thành những chỉ huy cấp thấp cỡ tổ trưởng tổ tam tam hay bán tiểu đội trưởng hay tiểu đội trưởng chẳng hạn. Nhưng những tay cơ bắp loại đó không thể trở thành những tay kiếm được nhiều tiền, càng hiếm kẻ kiếm được mảnh bằng cao đẳng hay đại học. Geraci là một biệt lệ: anh ta vừa biết cách kiếm được nhiều tiền mà lại biết dâng nộp cho chủ nhiều hơn là dành cho mình, lại vừa tranh thủ đi học lớp đêm để có được mảnh bằng đại học một cách danh chính ngôn thuận, sau đó còn phấn đấu học thêm bằng hai về luật nữa. Anh chàng này quả là đáng gờm với tham vọng không giới hạn, gặp thời thế có thể trở thành đại gian hùng chọc trời khuấy nước chớ chẳng phải tay vừa! Ở New York Geraci được biết đến như là bộ hạ dưới cánh của Sally Tessio, nhưng những chuyện khác mà anh ta đã làm có lẽ sẽ khiến cho bất kì ai muốn thử ráp nối những mảnh rời đó lại với nhau đều sẽ thấy hầu như là... bất khả thi! Một con người càng trở nên biệt lệ thì chỗ đứng của anh ta trong thế giới càng tìm kiếm một thái cực tương tự. Giống như là anh ta sẽ hoặc là được mọi người biết đến hoặc là không ai biết anh ta là ai cả. Anh ta sẽ hoặc là rất dễ nhận thấy, mặc dầu phần lớn mọi người sẽ không bao giờ thấy anh ta bằng xương bằng thịt, hoặc là anh ta sẽ tan biến, ngay cả nếu anh ta ngồi sát bên bạn tại một quầy ăn trưa ở Tucson, đang ngân nga một bài ca từ đĩa mới ra của Johnny Fontane và đập một đồng mươi xu lên bàn Formica, chờ sử dụng điện thoại trả tiền liền.

Đó là một thế giới điên rồ quái quắc. Trong nhiều tháng, Nick Geraci vừa ở bên ngoài mà vẫn ở bên trong thế giới đó, tại một nơi nào đó. Khó có ai biết là ở đâu. Và cũng hầu như không ai quan tâm tìm kiếm anh ta.

Richard “Khỉ không đuôi” Aspromonte, có một lần duy nhất bị một người đàn bà mù hỏi bằng cách nào mà anh ta mang cái hỗn danh đó, được chôn cất ở Los Angeles, tiếp theo bởi cuộc tiếp tân sau đó tại câu lạc bộ ăn tối của Gussie Cicero. Đến lúc chúc rượu, cả bốn anh em Aspromonte đều nhìn vào Jackie Ping-Pong, người chẳng biết gì nhiều về Khỉ không đuôi, nhưng tỏ ra có tài lợi khẩu, nói năng lưu loát hoạt bác biết lựa lời an ủi bà mẹ đau khổ của người quá cố. Ở San Francisco, bố mẹ của Lefty Mancuso thu vén để làm đám tang anh ta nhỏ thôi. Nhân vật có tiếng tăm duy nhất đến dự tang lễ là DiMaggio, một người bạn thời trung học của Lefty. Thành viên duy nhất của Gia đình Molinari đến viếng tang là Nicodemo, em của Toni. Để tỏ lòng tôn kính, ngay cả các vệ sĩ của anh ta cũng đứng ở ngoại vi, ngay trước bộ khung nhỏ của các tay cớm và những người hiếu kì.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3