Bố già trở lại - Phần IV - Chương 14 - Phần 3

Quả thực, anh có nói như thế, một lần. Bố anh vẫn thường nói rằng một lời hứa là một món nợ. Ogni promessa è un debito. Chỉ khi chính anh cũng trở thành bố - và hơn nữa với cuộc sống nghề nghiệp đầy bất trắc của mình - anh mới thấm thía bài học này.

“Giờ đây anh thấy từng ngày trôi qua đối với em như thế nào,” Charlotte nói. Tuy vậy nàng lại có vẻ vui khi nói điều ấy. Nàng không làm ra vẻ như là mình đã cố gắng tảo tần, nặng nhọc. Nàng mỉm cười và nâng khuôn mặt bầm tím của chồng trong đôi tay mình và hôn vào đó. Không có vẻ đam mê nồng nàn, nhưng là một nụ hôn vợ chồng bình thường, hơi lần lữa kéo dài một tí, loại nụ hôn mà người chồng có thể được hưởng vào buổi sáng nơi bàn ăn điểm tâm. Đó không phải là loại nụ hôn mà Geraci từng chờ đợi đón nhận, suốt thời gian nằm trong một quan tài với những chiếc xương sườn được băng bó và một cái chân gãy - và, ai biết được, có lẽ là một chấn thương sọ não mới - trong khi dàn đồng ca đám ma đang rì rầm ở phòng trên đang hát để tiễn đưa linh hồn một kẻ khốn khổ nào đó. Mặc dầu, thành thực mà nói, với Charlotte có lẽ không có loại nụ hôn nào là đúng nhất cho một cơ hội như thế này.

“Em có thể đưa tay cho anh nắm được không?” chàng nói. “Để đi ra.”

“Bố anh đang đơi trong xe,” nàng nói. “Em có nên ra đón ông vào đây?”

“Không.” Tất nhiên không nên để cha anh phải nhọc sức đến đây chào anh. “Anh chỉ cần em đưa tay để anh đi ra. Rồi chúng ta đi đón bố.”

Chàng nương vào tay nàng bước ra khỏi quan tài. Hai cô bé tiến tới, bước đi rất hoàn hảo. Chúng đã diễn tập những động tác này nhiều lần. Hai đứa trao cho bố cặp nạng giống như thể chúng là những thần dân cung kính dâng hiến một món quà lên Đức Vua của mình.

Rồi chúng đổ sụp xuống, và trong một thời gian lâu anh chẳng biết làm gì hơn là giữ lấy vòng ôm của các con. Đến một lúc, Bev thì thầm,” Bố đã hứa,” và anh đáp lại,” Cho đến giờ này, mọi sự đều tốt đẹp.”

“Đón anh trở về mẹ con em thật là vui,” Charlotte nói.

Bên ngoài, bãi đậu xe phủ đá cuội có lẽ đủ lớn để làm một trung tâm mua sắm. Có lẽ đủ cho năm mươi chiếc, nhưng bố anh, Fausto, dĩ nhiên là được dành cho khoảng không gian tốt nhất, gần nhất với cửa chính. Dường như ông đã đến đây từ hôm qua, ngắm nghía tình hình đậu xe, rồi đến đây từ nhiều giờ trước để chắc ăn rằng mình có được vị trí đó. Ông ngồi sau tay lái chiếc Oldsmobile của mình, nhìn thẳng ra trước và nghe nhạc Mễ tây cơ qua radio. Ông vặn máy lạnh đến tối đa, có lẽ chẳng vì lí do nào khác hơn là tạo ra nhu cầu cho ông để mặc chiếc áo jacket cũ mang logo của công đoàn địa phương trên lưng. Ông chờ Nick thôi loay hoay làm quen với đôi nạng và ngồi vào nơi ghế hành khách, xoay người để đối mặt ông.

“À, à, à,” Fausto Geraci lên tiếng, “Ta đâu phải tài tử Eddie Rickenbacker đâu.”

Một toán thợ mộc địa phương đã được thuê để làm những cái bàn dài bằng gỗ thích đặc biệt cho các cuộc thương nghị hòa bình. Những cái bàn được bố trí thành một hình chữ nhật lớn bên trong một phòng khiêu vũ trước kia từng là chuồng gia súc. Lớp véc - ni trên các mặt bàn đã khô nhưng còn quá mới nên vẫn bốc mùi. Mùi gỗ và mùi véc - ni thì cũng không khó chịu lắm cho đến khi căn phòng dày đặc khói xì - gà và khói thuốc lá. Họ mở tất cả các cửa sổ, nhưng tay “quân sư quạt mo” (consigliere) của Philly, vốn mắc bệnh khí thũng, và Don Forlenza từ Cleveland vốn kị nắng nóng, cả hai phải ngồi nghe từ phòng kế bên. Nhiệt độ bên ngoài là bốn mươi độ. Ngoại trừ Louie Russo, còn trong thời kì thử thách phải chứng tỏ một cái gì đó, những người chủ trì cuộc họp vẫn mang khăn quàng và mặc áo khoác.

Điều mà mọi người có mặt tại bàn thương nghị đồng ý tin vào vì mục đích hòa bình là thế này: Vụ rơi máy bay ở Hồ Erie chẳng phải lỗi tại ai. Frank Falcone thực sự có đánh cá một trăm ngàn đô vào cuộc đấu ở Võ đài Cleveland và ông ta đã nằn nì phải đi chứng kiến trận đấu, dầu cơn bão có tệ hại đến thế nào cũng bất chấp. Lúc máy bay đâm đầu xuống, có người nơi tháp kiểm tra không lưu nghe Geraci nói đến từ phá hoại, nhưng Geraci chỉ thoạt nghĩ đến trong lúc tâm trí bị khủng hoảng tột cùng và người ta đồng ý loại trừ phá hoại. Sấm chớp đã làm cho các sóng truyền thanh trở thành khó nghe. Máy bay rơi và mọi người chết tại chỗ, trừ Geraci, cũng gần chết. Don Forlenza được tin về những cái chết thảm khốc của các vị khách mới đây của ông và ông cũng nghe phong thanh rằng nhà chức trách nghĩ là tai nạn máy bay này có thể là hậu quả của phá hoại. Ngay lập tức Don Forlenza cam kết rằng không có ai trong tổ chức ông ta đã phá hoại chiếc máy bay. Sau đó ông giải cứu nghĩa tử bị nạn của ông từ bệnh viện. Còn làm cách nào khác hơn? Giả dụ như Don Falcone và Don Molinari bị giết hại như hậu quả của phá hoại thì chắc là người ta sẽ đổ lỗi cho tổ chức Cleveland. Và cũng có thể đổ lỗi cho nghĩa tử ông - anh chàng này sau tai nạn đã bất tỉnh cả tuần, không có khả năng tự bảo vệ mình, cũng không thể trả lời chuyện gì. Ai trong phòng này lại không hành động như ông để lo cho nghĩa tử của mình. Và cũng vì Geraci là một thành viên của Gia đình Corleone, Don Forlenza cũng lo ngại rằng nghĩa tử của mình có thể trở thành mục tiêu bạo lực của một trong những Gia đình New York khác. Geraci đã tỉnh lại. Nhà chức trách liên bang đã loại trừ phá hoại. Vụ rơi máy bay là... một hành động của Thượng đế! (an act of God). Don Corleone đã cho những thành viên khác của Ủy ban biết rằng viên phi công mất tích là Geraci. Như Don Corleone đã nói lúc đó và xác nhận lúc này, cái tên giả trên giấy phép lái máy bay của Geraci chỉ nhằm đánh lạc hướng không ai khác hơn ngoài những viên chức thi hành pháp luật, cũng không khác với chuyện bằng lái xe mang tên ngươi khác mà rất nhiều người có mặt ở đây vẫn đang dùng. Trong trường hợp này, cái tên giả đã làm được việc. Trong khi mọi người trong phòng này đều đã biết từ nhiều tháng nay rằng Gerald O’Malley trong thực tế là Fausto Geraci Jr., thì nhà chức trách lại nghĩ rằng O’Malley là cái tử thi bị chuột gặm nơi khe núi kia.

Quả là một công trình xây dựng phù hợp cho bốn người chết khiến cuộc tranh luận khởi đầu giúp hiểu được vụ rớt máy bay nhanh chóng mở rộng sang các vấn đề khác. Và rồi ngay sau đó một hiệp ước hòa bình lâu dài đã được thảo ra - một hiệp ước mà tất cả đã đến đây để chuẩn y.

Trên đại thể, câu chuyện chính thức là đúng nhưng không một ai có mặt trong trang trại kia, vào thời điểm đó, tin hẳn mọi lời của câu chuyện.

Mặc dầu không có bằng chứng nào được đưa ra ánh sáng, nhưng dường như ít có nghi ngờ nào rằng người của Louie Russo đã xâm nhập vào pháo đài nơi tiểu đảo của Vincent Forlenza và phá hoại chiếc máy bay. Xét cho cùng, những người trong chiếc máy bay đó thực sự đại diện cho bốn đại kình địch của Chicago ở Las Vegas và ở Bờ Tây. Vụ rớt máy bay đã thành công trong việc làm cho Don Forlenza trông giống như một lão già khờ. Những cuộc đấu đá ở New York đã cho Russo một khai mở và lão chộp ngay cơ hội. Lão đã lập được liên minh với nhiều Ông Trùm khác - Carlo Tramonti ở New Orleans, Bunny Coniglio ở Milwaukee, Sammy Drago ở Tampa, và ông chủ mới ở Los Angeles, Jackie Pingpong. Khi Russo đi Cuba, lão ta ở trong Dinh Tổng thống. Không ai ngoài những đồng minh của Russo hứng thú với việc trở lại quyền lực của đám Chicago, nhưng mọi người đồng ý rằng Russo ít tạo nên một mối đe dọa khi có được một ghế ngồi trong Ủy ban hơn là khi lão ta làm kẻ đứng ngoài nhưng sẵn sàng vồ lấy mọi thứ cho mình. Đối với phần lớn những người ngồi tại bàn hội nghị hôm ấy, việc cố gắng chứng minh Russo chịu trách nhiệm đối với vụ rớt máy bay là không quan trọng. Vấn đề chính là xoay lại sự chú tâm đầy đủ vào công việc của mỗi người. Đèn nhà ai nấy sáng. Đừng rỗi hơi làm tài lanh, việc người thì sáng việc mình thì quáng. Ngay cả Butchie Molinary cũng đã được khuyên giải (bởi chính Ông Trùm Michael Corleone, ghê chưa!) để công khai tuyên bố rằng mình chấp nhận phiên bản chính thức về vụ rớt máy bay và hứa không tìm cách trả thù.

Louie Russo và tay consigliere của lão không có ý định phủ nhận lời kết tội mà không ai công khai đưa ra ngay cả nếu họ biết rằng nó sai lạc. Russo không ra lệnh tập kích vào những người trên máy bay đó. Còn nếu như lão ta có những lí thuyết riêng của mình về chuyện ai, nếu có bất kì ai, thì lão cũng không lộ ra.

Russo, dĩ nhiên, có biết một đôi điều. Jackie Ping-Pong cũng biết một đôi điều. Sal Narducci - người, vì sức khỏe của Forlenza có vấn đề, nên ngồi một mình ở bàn đầu, như thể lão đã điều hành Cleveland - biết được những chuyện khác.

Người mà Narducci thuê để phá hoại chiếc máy bay được thưởng công để đi vui chơi ở Las Vegas - cờ bạc, rượu chè, gái gú thỏa thích - trong mấy ngày và sau đó không còn ai thấy mặt ở đâu nữa.

(Hay đúng hơn là, hắn ta không còn khả năng để cho ai thấy mặt kể từ khi Al Neri một kẻ không bao giờ thắc mắc cũng chẳng bao giờ bận tâm người mình giết là ai và tại sao phải giết, đã bắn rồi chôn anh chàng kia trong sa mạc Nevada mênh mông.)

Riêng Clemenza biết rất nhiều, nhưng chưa phải là tất cả.

Michel Corleone khá chắc chắn rằng mình đã bao che mọi vết tích đủ kín đáo để không một ai - dầu bạn hay thù, cớm hay đầu lĩnh (capo) có thể ráp nối mọi sự kiện với nhau thành một câu chuyện mạch lạc.

Ai mà có thể giả địng hay phỏng đoán rằng không những chính Michael ra lệnh thủ tiêu Barzini, Tattaglia và cả tay đầu lĩnh số một của chính anh ta là Tessio, và cả chồng của em gái ruột của mình - đó là chưa kể bao nhiêu những vụ giết chóc khác phái sinh từ những vụ này - thế rồi sau đó anh ta lại thương lượng một cuộc ngưng bắn và lợi dụng cuộc đình chiến còn bất an kia để hoạch định một cuộc tập kích vào những người trên chiếc máy bay nọ, kể cả nick Geraci, người anh ta vừa mới thăng cấp lên chức đầu lĩnh, và Toni Molinari, một đồng minh kiên định từ lâu? Không có lời đồn nào là có người nào đã phản bội anh ta - tất nhiên, do phần lớn là họ không.

Ai có thể hình dung ra cái túi mà Fontane chuyển giao cho Michael đựng cái gì và để làm gì? Ngay cả Hagen cũng đã cho là - mà không thắc mắc - đó là một phần góp vốn đầu tư vào casino sắp mở ở Hồ Tahoe.

Từ nơi Michael Corleone ngồi, vỗ nhẹ vào chiếc đồng hồ Thụy Sĩ cổ do Hạ sĩ Hank Vogelsong trao tặng trước lúc tử trận, ai có thể - ngay cả những người đã từng đọc về những máy bay Thần phong cảm tử Kamikazé của người Nhật nổ tung thành những quả cầu lửa khi chúng đâm đầu xuống các tàu chiến chở đầy binh lính Đồng minh (Mỹ, Anh, Pháp... ) và cắt đôi những chiếc tàu này - nghĩ rằng một người từng thấy những gì Michael đã thấy nơi Thái Bình Dương lại có thể giết bất kì người nào bằng cách ra lệnh dàn xếp một vụ rơi máy bay?

Mỗi buổi sáng, Fausto Geraci - đúng ra phải phát âm là Jair - AH - chee, nhưng mà thôi, nhân danh chín tầng địa ngục, bàn dân thiên hạ cứ đọc tên ta theo cách nào tùy thích - luôn luôn là người thức dậy đầu tiên. Ông sẽ nấu nước pha cà phê và đi ra khoảng sân sau của căn nhà nhỏ trát vôi vữa của mình, mặc quần soóc của dân đánh bốc và một áo thun, ở đó ông sẽ ngồi trên chiếc ghế nhôm đặt trên sân cỏ, đọc báo buổi sáng và hút liên tục những điếu Chesterfield Kings theo kiểu dây chuyền - dùng điếu sắp hết đốt điếu mới. Một khi đọc xong tờ báo, ông ngồi nhìn trừng trừng vào cái hồ bơi cạn khô. Ngay cả việc có mấy đứa cháu gái trong nhà vì chúng đang nghỉ hè cũng chỉ đem lại hiệu ứng rất nhỏ trên tâm trạng của ông.

Trái tim Fausto Geraci bị ngâm trong một dung dịch chua cay với cường độ ăn mòn còn mạnh hơn cả a - xít lon - nít! Ông là người đã tin chắc rằng cái thế giới chó má này đã đẩy mình ra rìa. Năm này qua năm khác cứ ra khỏi giường là lại leo vào buồng lái lạnh buốt của một chiếc xe tải nào đó và kéo đi bất kì cái gì mà người ta có thể tưởng tượng và hàng lố những các cái mà không ai muốn tưởng tượng ra! Tự mình lên hàng và xuống hàng những chiếc xe tải “đặc nhiệm” mà nếu bị “lộ hàng” thì cứ gọi là gỡ lịch triền miên! Lái những chiếc xe có lẽ là xe ăn trộm mà chính ông cũng không biết, mà có biết thì cũng cứ phải lái. Ông đã tốn gần cả đời đứng vững chống lại những ai chống lại người Ý, và ông vẫn trung thành với cái lão Vinnie Forlenza và tổ chức của lão cho đến lúc “lão lai tài tận” thì được cho về vườn. Ông từng biết bao lần ngồi tù thế cho bọn họ. Mà nào có than thở một lời nào đâu? Không. Đối với họ ông chỉ là Bác tài xế Fausto, một thân trâu ngựa lặng lẽ, chịu cày sâu kéo nặng, phục tùng mọi mệnh lệnh vô điều kiện. Ông đã làm mọi việc đó cho họ, những việc đã đày linh hồn ông xuống địa ngục từ lâu và ngay cả bà vợ ông cũng nói rằng bà đã thôi không cầu nguyện cho ông nữa vì cái “khối lượng hoành tráng” những tội lỗi của ông đã đến mức vô phương cứu chữa rồi! Ấy thế mà người ta có đối xử với ông như một người bình đẳng không? Không hề! Ông kiếm được chút ít tiền, hẳn nhiên phải thế rồi, nhưng họ trả công cho những tên Do Thái và những tên da đen hậu hĩnh hơn rất nhiều mặc dầu công việc của chúng chẳng cực nhọc bằng mà cũng ít nguy hiểm hơn. Họ cho là ông phải biết ơn họ vì họ đã “cài đặt” ông vào công đoàn. Ha ha! Thì cũng chỉ là con bù nhìn cho họ giật dây thôi. Lương lậu thì tương đối cũng khá đấy nhưng chưa đủ để bù đắp cho việc phải ngồi bàn giấy suốt ngày và chịu để cho hai cái lỗ tai bị hành hạ bởi những lời mè nheo than vãn lảm nhảm linh tinh từ những quân biếng nhác, ăn như xáng xúc, làm như lục bình trôi. Thế nhưng ông vẫn chịu khó để cho hai cái lỗ nhĩ bị hiếp dâm liên tục từ ngày này qua ngày khác, mà gần như chẳng nói gì nhiều, cứ thế mà cắm cúi cặm cụi công tác tốt! Ông đã tiêu phí bao năm tuổi đời để giải quyết những vấn đề của thiên hạ, nhưng có ai thèm nhấc một ngón tay vì công chuyện của Fausto Geraci, hở? Thế rồi sau bao nhiêu những năm tháng cúc cung tận tụy, cuối cùng được thăng hạng “nô tì bậc trung” thì một ngày kia: vèo! Thôi hãy về... vui thú điền viên! Tổ chức đã bố trí công việc này cho người khác (Fausto đủ lõi đời để biết rằng tốt nhất là đừng nên “théc méc” tại làm sao... con bò lại trắng răng!) và bố trí cho Bác tài Fausto về hưu non. Với một cục tiền đấm mõm. Cũng có nghĩa là bỏ tiền vô túi, sẵn sàng đi xa. (Hush money, go - away money) Và ông làm gì? Ông lặng lẽ ra đi, lặng lẽ ngắm... lá vàng rơi Vèo trông lá rụng đầy sân, Công danh phù thế có ngần ấy thôi! Vẫn trung thành đến đoạn cuối. Trung thành quá đoạn kết luôn! Cái lão Fausto này tốt đấy. Một tấm gương nghĩa bộc tuyệt vời, đáng đưa vào luân lí giáo khoa thư!

Và Chúa ôi! Đừng có nói với ông là tuổi già vui với con cháu. Con gái của ông là một cô giáo nhưng là một cô gái già khô quắt, đã chuyển công tác từ Youngstown đến Tucson chỉ để làm cho cuộc sống của ông thêm phần bực bội khó chịu - mỗi tối sau giờ tan trường cô tạt vào thăm ông và dặn dò hãy ăn cái này, đừng ăn cái kia, hôm nay bao nhiêu điếu thuốc rồi hả bố? Cứ cái điệp khúc đó nghe mãi đến phát hãi! Còn con trai, người mang cả họ cả tên của ông, Fausto Geraci, chỉ thêm chữ Con? Cái thằng ngựa non háu đá ấy, hiếu thắng tự phụ lúc nào cũng vênh váo cho rằng ta đây hơn người. Mẹ nó từ nhỏ cũng nuông chiều con, khuyến khích nó nuôi dưỡng cái ý tưởng kiêu căng đó. Cho đến bây giờ mọi chuyện xem ra có vẻ thuận lợi cho nó. Lấy một con vợ tóc vàng với bộ ngực lớn hơn hai trái bưởi năm roi. Học trường Luật, lớp đêm. Và chuyện lái máy bay. Cũng chỉ là một cách để chứng tỏ với thiên hạ rằng ta đây đã vượt qua bố - một phi công tư nhân đắc sô, xem nào, vi vu giữa trời mây, chứ đâu phải một tài xế xe tải rề rề trên mặt đất. Từng mỗi hơi thở mà tên vô ơn đó thở ra cũng là một thách thức ngạo mạn. Ngay cả phát âm cái tên mình cũng theo kiểu lai tạp, không còn thuần túy theo cội nguồn. Lại còn bày đặt lớn lối với cái hỗn danh Geraci Con Át chủ bài. Trèo cao ngã đau đấy con. Hắn nghĩ ai đã lót đường cho mình? Vinnie Forlenza, chắc là hắn nghĩ thế. Hay là những thằng bú c... kia ở New York.

Khi những người khác bắt đầu thức giấc, và trước khi họ có thể bắt đầu làm phiền ông, Fausto đứng dậy từ chiếc ghế nơi bãi cỏ và đi vào garage. Ông để sẵn một cái áo làm vườn và đôi dép nhựa ở đó. Ông mang vào và ra làm vườn một hồi cho đổ mồ hôi. Trên đường đến trường, Barb và Bev, cầu phúc cho chúng, sẽ ra vườn gặp ông nội và hôn ông trước khi đi. Ông muốn bảo vệ cho những đứa cháu còn hồn nhiên thơ ngây đó khỏi cái thế giới nó sẽ làm chúng thất vọng và rồi hủy hoại chúng, thế nhưng thay vì thế, ông chỉ đứng ngây ra đó, tay cầm ống nước hay cái cào, cười như một người nông dân hạnh phúc và vẫy tay chào tạm biệt các cháu.

Rồi ông vào nhà, tắm rửa và lái xe qua mấy con phố đến chiếc xe moóc dùng làm nhà (house - trailer) của Conchita Cruz. Nàng ta chẳng nói được mấy tí tiếng Anh, còn ông không phải là người ham nói, nhưng trời xui đất khiến thế nào họ đã gặp nhau trong một quán bar không lâu sau khi ông dọn nhà về đây và họ đã tiến đến chỗ dàn xếp một tạm ước như thế này. Ông cũng không nhớ rõ lắm là mọi sự diễn ra như thế nào song ông thấy “chuyện đôi ta” mà hai người làm cho nhau giúp cho ông thấy rất chi là thư giãn vàthoải mái! Hair - Ah - see,nàng phát âm tên ông, còn gần đúng hơn nhiều so với cách phát âm của chính thằng con ông. Thỉnh thoảng họ fuck nhau, nhưng thường hơn thì họ trải qua một vài giờ bên nhau mà không hỏi han gì. Chỉ đơn thuần là... hiện hữu (Just existing). Chiếc ti vi thật đắc dụng cho chuyện đó. Những lúc khác có thể họ chơi bài, chơi domino, mát-xa chân. Họ sẽ ăn trưa, hoặc tại nhà, hoặc tại quán nơi góc phố, và rồi ông sẽ hôn nàng lên trán. Họ không tuyên ngôn tình yêu cũng chẳng thề non hẹn biển gì với nhau, và cô sẽ đi làm ca hai tại nhà máy đồ hộp còn ông sẽ lái xe chạy một đoạn ngắn vào sa mạc. Mọi ngày, trừ Chủ nhật, trên cùng một đoạn đường thẳng đó, ông sẽ nhấn ga và xua đi khói bụi trong động cơ - và cả trong lòng mình. Có lần ông chôn cây kim chỉ tốc độ vào khoảng đen vượt quá 120. Rồi ông buông ga, thả lỏng tốc độ và nhịp tim mạch cũng như mọi dây thần kinh ông chùng xuống. Rồi ông về nhà, nơi kẻ trùng tên vênh váo của ông với cô vợ người Thụy điển lắm mồm của hắn có lẽ là đang cãi nhau. Lúc mới dọn về đây, Charlotte là một cô vợ gương mẫu, và Nick tỏ ra khiêm tốn vì tình trạng sức khỏe và thương tật còn tệ hại. Nhưng chỉ vài tuần sau, lúc anh ta bỏ cặp nạng ra, những cuộc cãi nhau lại bắt đầu. Ngay cả chuyện bật tắc ti vi xem kênh này hay kênh kia, đài này hay đài nọ cũng đủ là lí do để tranh cãi. Ngày qua ngày hai vợ chồng họ hành xử càng lúc càng giống với Fausto và bà vợ quá cố của ông trước đây, một cách mà cậu con dường như chủ ý làm để... chọc quê ông!

Đây là thời gian họ được nghỉ dưỡng để thưởng công cho Geraci sau những lần xông pha trận mạc, chịu thương tích đầy mình vừa rồi. Vì thế nên hai vợ chồng chẳng có chuyện gì để làm. Hoàn toàn không. Thế cho nên mới “nhàn cư vi bất thiện” khiến hai cái miệng muốn kiếm chuyện cãi nhau cho... bớt huỡn! Khối lượng thời gian mà họ phung phí làm cho Fausto Geraci muốn phát ốm. Charlotte ra ngoài và mua sắm lung tung những thứ mà nàng chẳng cần để làm gì. Nick lái chiếc xe thuê chạy lòng vòng, gọi điện thoại từ những trạm điện thoại trả tiền nào đó và tạt vào một bar ổ chuột, bù khú với mấy đám tạp nham ba bứa, nhưng phần lớn thời gian anh ngồi lòng vòng đọc sách và nói chuyện với những người ghé lại để trao cho anh những tin nhắn.

Ngày nọ, Fausto về nhà thấy Nick đang cho đầy nước vào cái hồ bơi chết tiệt. Fausto chỉ hơi nhíu mày, và Nick dài dòng giải thích rằng thì là mặc dầu má anh đã chết trong cái hồ bơi đó khi trái tim suy yếu vì bệnh ung thư của bà hờn dỗi không thèm đập nữa nhưng bà đã chết trong khi làm điều mình thích. Bà đâu có trăn trối là nên rút hết nước và để cho hồ cạn khô. Một cái hồ bơi mà để cạn khô, không dùng vào việc gì cả, thế thì phí quá! Cái thằng nhãi ranh lớn xác này thì biết gì về những chuyện đó? Hắn đâu phải là người vớt cái xác chết của bà ta khỏi nơi ấy. Thằng du côn ích kỉ. Bà ấy có ước nguyện hay không ước nguyện gì cũng chỉ là cái cớ. Nick chỉ muốn cho nước vào đầy hồ để hắn có thể sử dụng. Chắc chắn rồi, ngày hôm sau khi Fausto về nhà sẽ thấy không chỉ Nick đang bập bềnh trên một cái bè bằng cao su thổi phồng lên mà còn đang đọc một quyển gì đó về Eddie Rickenbacker. Lại thêm một trò chế giễu lếu láo. Đã bao nhiêu tuần rồi hắn không ngừng lời với những câu chuyện về các phi công tài ba lỗi lạc, các tay đua xe siêu tốc cừ khôi, những chuyện lạc giữa biển khơi, chuyện những ông trùm trong ngành hàng không. Ờ, thì là một con người đáng kể đấy, Fausto Geraci không thể phủ nhận: người hùng nước Mỹ và bao nhiêu thứ vân vân. Nhưng biết ba cái chuyện đó để làm gì nào. Eddie Ricken - ba que hay bốn que thì cũng kệ mẹ hắn chứ! Việc gì mà ông đây phải mệt trí để nhớ thêm một cái tên bá vơ chẳng có ích lợi gì cho mình sất! Để dành khoảng không gian tâm trí cho những cái tên Conchita, Margarita, Madonna v.v... và nhớ lưu số điện thoại của các em vào “dế” để khi nào hứng thì a - lô cho các em, hẹn hò vi vu không thú hơn sao?

Nick đối xử với hai cô con gái như là đối với con trai, nhất là con bé Bev tội nghiệp, nó sùng kính bố và lớn lên có lẽ sẽ trở thành một giáo viên thể dục gái già cũng giống như bà cô khô quắt của nó. Hắn và Charlotte đem mấy đứa bé đến với mọi thứ dưới ánh mặt trời: vườn bách thú, rạp xiếc, phòng hòa nhạc, những trận bóng, phim ảnh - giống như chúng đang cố gắng thích nghi mọi sự cho lũ trẻ.

Nói chung, mấy bé gái này đã thích nghi tốt với việc dời chỗ ở về đây. Chúng đã kết bạn với đám trẻ láng giềng, học hành khá. Chúng hạnh phúc được làm trẻ con nhưng cha mẹ chúng lại không thể thấy điều đó.

Khi thấy buồn chán với cuộc sống trầm lặng ở đây và muốn quay về lại Long Island, thì Charlotte đến thưa chuyện với ông. Còn cậu con đắt sô của ông hình như chẳng thèm bận tâm đến những cảm nhận của ông bố. Fausto Geraci búng tay một cái kêu đánh tách. Ông không tự hào gì, nhưng ít ra một lần ông phải trải lòng mình, nói ra ý nghĩ thật của mình. Mấy đứa cháu gái của ông đã phải chuyển trường giữa học kì để đến đây và đã thích nghi tốt, và rồi bây giờ, chuyện gì đây? Vợ chồng chúng nó lại bắt mấy đứa nhỏ tội nghiệp phải chuyển trở về nhà cũ, chỉ hai tháng trước khi năm học kết thúc? Lũ vị kỉ, chẳng nghĩ gì đến cảm nhận của người khác, ngay cả của con cái mình! Bộ chúng không biết là bọn trẻ phải khó khăn lắm mới thích nghi được với môi trường sống mới? Ông không đành lòng để mặc như thế. Nick cứ về nhà nó đi. Cả Charlotte nữa. Ở New York thì có nhiều chỗ để tiêu tiền cho sướng tay hơn là ở đây. Nhưng mấy đứa nhỏ phải ở lại đây cho đến hết năm học đã. Bộ mẹ chúng nghĩ rằng Fausto Geraci này, sau cả một đời lo chuyện cho thiên hạ, lại không thể lo cho hai cháu mình vài tháng hay sao? Mẹ chúng chắc gì đã lo cho chúng tốt hơn ông nội này?

Khi ông la lối cô ta như thế, ông đã, đúng vậy, đập bể một số đồ đạc, nhưng đó là đồ đạc của ông. Nước mắt ông đổ ra là nước mắt giận dữ. Bây giờ lũ con trời đánh lại bắt ông đi cho bác sĩ khám có mắc bệnh tâm thần không.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay