Bố già trở lại - Phần VII - Chương 23
Chương 23
“Ông Fontane! Ông có được hứa một công việc trong chính quyền Shes hay không?”
Phòng khách của Đại sảnh Lập hiến đầy các phóng viên. Johnny Fontane đang ngồi sau một cái bàn trên một cái bục đông người, được kèm hai bên bởi hàng tá ngôi sao sân khấu và điện ảnh. Ngày mai sẽ còn có nhiều người bước lên sân khấu hơn nữa. Họ đang làm lịch sử. Không người nào từ chối khi Fontane yêu cầu họ trình diễn tại buổi khiêu vũ mở đầu nhiệm kì tổng thống Jimmy Shea. Nếu người Nga thả bom nguyên tử xuống Washington lúc đó chắc ngành kinh doanh trình diễn của Mỹ chẳng còn lại gì nhiều ngoài kịch nhà trường, nhạc rock và phim cấp bốn! “Một công việc” Johnny nói với vẻ kinh hoàng kiểu chế giễu. “Tôi đã là một ca sĩ thính phòng chuyên nghiệp và sống được với việc ca hát rồi, vậy tôi cần gì phải có một công việc khác.”
Câu trả lời né tránh khéo léo này nhận được một tràng cười... khích lệ từ công chúng khán thính giả. Anh vẫn muốn họ nghĩ câu trả lời mang hàm ý có. Ngài Đại sứ đã nói về chuyện bổ nhiệm Fontane làm Chánh văn phòng tại Nhà Trắng. Đích thân Jimmy - lúc ở nhà Fontane tại Vegas với Rita Duvall, người hiện cũng đang có mặt trên bục - đã gợi ý bổ nhiệm Fontane làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở Ý. Hoặc bạn nghĩ sao nếu mình đưa bạn đến một tiểu thiên đường nhiệt đới nào đấy với trời xanh biển biếc nắng gió trong lành và vô số kể những mảnh hến hơ hớ thơm ngon. Cả ngài Tổng thống sắp tuyên thệ nhậm chức lẫn chàng ca sĩ lừng danh đều đã khá say đến độ suồng sã, bỗ bã như thế.
“Người ta sẽ nói gì về nhiệm kì tổng thống của Jimmy Shea,” một giọng nói la lớn, “khi buổi khiêu vũ mở đầu nhiệm kì được dàn dựng bởi một người như anh vốn nổi danh về những liên hệ mật thiết với Mafia?”
Johnny không hề dự kiến và cũng không thể tin nổi chuyện này. Sao mà cái thằng cứt chó này lại dám la lối vung vít những lời bậy bạ - thật ra là đúng - giữa chốn thập mục sở thị thế này? Bể mánh hết! Làm sao bây giờ? Nhất thời chàng Johnny cũng vô kế khả thi đành chờ... phao cứu hộ!
Cái thằng xuột c... t (the jerk - off) đặt ra câu hỏi nhột gáy nọ đến từ một tờ báo ở New York. Johnny từng có lần bạt tai anh ta. Sau đó chàng đã chấp nhận một cuộc thu xếp bên ngoài tòa án tốn hết mười ngàn đô, nhưng chàng thấy đáng giá đến từng xu.
Bobby Chadwick - cậu em rể của tổng thống mới đắc cử - nghiêng người qua chiếc micro để cứu bồ. “Bởi một người giống như Johnny Fontane? Xin lỗi nếu bạn là một thông tín viên đến từ Diêm vương tinh và không quen với cách diễn tả của chúng tôi, nhưng nơi đây là Trái Đất, và rất an toàn để nói rằng không có ai giống như Johnny Fontane cả!”
Cuộc giải vây khá thông minh nhanh trí của Bobby cũng nhận được một tràng cười... khuyến khích tài năng trẻ, nhưng tràng cười lắng xuống nhanh và các phóng viên vẫn cứ nhìn vào Johnny chờ câu trả lời. Phải chi đây là một nhà hàng hay một hộp đêm thì Johnny chỉ cần nhướng mày lên tí xíu thôi và anh chàng nọ đã bị đá đít văng ra đường ngay tuýt xuỵt! Thế nhưng đây là Đại sảnh Lập hiến, một trong những nơi chốn tượng trưng cho “thể diện quốc gia” và bản thân mình cũng sắp làm quan lớn nên chàng Johnny đâu có thể hành xử theo cái kiểu du côn như trước đây được nữa. Quan trên ngó xuống người ta trông vào thì biết ăn làm sao nói làm sao. Cho nên chàng Johnny đã định thần để tìm phương đối phó và nhờ cuộc giải vây cứu bồ của Bobby chàng đã đủ thời gian nghĩ ra những chiêu để hóa giải và phản đòn.
“Nổi danh là một từ mà những anh phóng viên lười biếng sử dụng để thổi phồng mọi chuyện lên,” Johnny nói. “Để tôi cho bạn thấy vài sự kiện nhé. Có hơn năm triệu người Mỹ là hậu duệ của dân Ý. Theo một báo cáo của Thượng viện Mỹ được đưa ra hai năm trước đây thì có nhiều lắm là bốn ngàn người dính dáng đến cái gọi là Mafia. Tôi làm một con toán cho cậu em thấy nhé. Như thế là một ngàn ba trăm người mới có một người, bỏ đi số lẻ. Nhiều người giống như con chim bị ná sợ cành cây cong. Cứ nhìn thấy ai có cái tên mang âm hưởng Ý, thì những kẻ cố chấp hẹp hòi như cậu em đây lại hỏi chúng tôi có ở trong cái hội kín đó không.”
“Thế anh có ở trong hôi kín đó không?”
Gớm nhỉ! Thằng láu cá này lại chơi trò gậy ông đập lưng ông đây. Mi muốn tấn công trực diện vào tử huyệt của ta đấy à? Chàng Johnny liền né đẹp: “Ta sẽ không đem lại phẩm giá cho một câu hỏi ngu ngốc như thế đâu.” Và chàng vênh mặt lên ra vẻ cao đạo không thèm hạ cố ngay cả một cái bĩu môi! Thật ra chỉ là một cách gỡ thế kẹt đấy thôi. Vì trả lời có thì dứt khoát là không được rồi. Mà trả lời không thì cũng ngượng mồm và thẹn với lòng nên khó có thể nói ra một cách quả quyết và có sức thuyết phục được. Nên đành vận dụng chiêu “tiên ông thăng” vậy! Mặc kệ thiên hạ có nghĩ tiên ông thăng vì tiên ông bí thì cũng còn hơn là để lộ đuôi... chồn. Thì hết đường lùi!
“Có thể là tôi nhầm,” Ngài Oliver Smith - Christmas, diễn viên công huân của Anh quốc được phong tước Sir, ngồi ở rìa bục, lên tiếng, “nhưng không biết ông bạn phóng viên có đang lẫn lộn hay không giữa những người sở hữu các hộp đêm ở Mỹ với những người như ông bạn Fontane của tôi đây, chỉ trình diễn ở những nơi đó? Một ca sĩ thính phòng thì trình diễn ở đâu nếu không phải là trong các hộp đêm?”
“Ollie đã ghi được điểm tốt đấy,” Johnny Fontane nói. “Một khi thời đại băng đảng lớn qua rồi.”
“Việc Vito Corleone quá cố là bố đỡ đầu cho anh chẳng phải là sự kiện có thật hay sao?” tay phóng viên tiếp tục chọc nhột.
Không phải loại bố đỡ đầu như mi nghĩ đâu, đồ thằng đéo ngu ngốc. “Ông ấy đỡ đầu trong lễ rửa tội của tôi, đúng thế. Ông ấy là bạn của bố mẹ tôi.”
“Tổng thống mới đắc cử Shea có dính dáng gì với tội ác có tổ chức không?” Một phóng viên khác hỏi. “Michael Corleone, vốn ở trong số những người được gọi ra chứng thật trước Thượng viện hai năm trước đây, nay lại là thành viên trong đội ngũ cố vấn Tổng thống.”
“Tại sao bạn không đặt câu hỏi ấy với Michael Corleone, hở?” Johnny nói. “Tốt hơn nữa, tại sao bạn không hỏi tất cả những trẻ thơ đau ốm, côi cút bơ vơ mà bệnh viện và những cơ sở từ thiện của ông Corleone từng giúp đỡ? Mọi người hãy nhìn xem, đây là một thời kì hào hứng cho xứ sở chúng ta. Tôi nghĩ tôi có thể phát biểu thay cho mọi người ở đây khi nói rằng chúng tôi ủng hộ Tổng thống Shea một trăm phần trăm. Nhưng chúng ta hãy đặt những câu hỏi hướng trọng tâm hơn vào chủ đề của buổi khiêu vũ mở đầu, nhất trí thế nhé?”
“Anh lớn lên ở New York,” thằng xuột c... t lại la lớn,” nhưng anh lại chơi thân với Louie Russo ở Chicago và Ignazio Pignatelli ở Los Angeles. Em gái của Pignatelli được nêu tên như một cổ đông trong thương hiệu thu âm mới mà anh khởi đầu. Vấn đề theo tôi là liệu có thể hoán chuyển tư cách thành viên của anh từ...”
“Đừng buộc tôi phải bước xuống khỏi đây và chỉ dạy cho anh biết khôn ra.”
“Anh sắp cho người nện tôi một trận đấy hở? Từ chính xác mà các anh ưa dùng là gì nhỉ? Đục? Nện? Đòn hội chợ? Dần cho nhừ xương? Quết chả?”
“Này cậu kia, tôi làm gì mà biết được ba cái chuyện đó. Coi bộ cậu rành sáu câu hơn tôi nhiều, sao cậu còn hỏi tôi làm chi?” Johnny giả dạng qua ải. Có điều ai cũng thấy rõ cái sự giả dạng đó và tiếng xì xào rộ lên khắp phòng. Nhưng đấy không phải là điểm chính. Miễn sao qua lọt thì thôi. Có bị trầy trụa xây xát chút đỉnh cũng không sao!
Sau khi Kay Corleone li thân với chồng và rời Nevada, nàng tìm một chỗ dạy tại một trường nội trú hạng nhất ở Maine. Nàng và các con sống trong một căn nhà đá trên đất của nhà trường. Michael không thích chuyện đó, nhưng nàng cần một việc làm, không phải vì lí do tài chánh nhưng như một phương tiện để tạo ra một lí lịch tách rời khỏi tất cả những gì nàng liên hệ với chàng. Nàng chỉ nộp đơn ở những trường cách xa Hồ Tahoe cả hàng ngàn dặm. Nàng không chờ đợi Michael lại giành quyền giữ con quyết liệt đến thế và càng ngạc nhiên hơn nữa khi vì buồn quá chàng bảo với nàng là chàng đã nhìn vào ngôi trường nơi nàng đang dạy và quyết định rằng việc giáo dục các con sẽ được phục vụ tốt nhất ở nơi đó. Kay không có ý tưởng nào về chuyện điều gì đã khiến chồng mình đổi ý. Chàng ta cho rằng chỉ vì chàng nhận ra là mình đang dùng các con như những quân tốt đen trong vụ li dị và đã cảm nhận những gì chúng thực sự cần. Nàng muốn tin như thế. Nàng đã kiềm chế cảm xúc để không nói với chàng rằng nếu chàng quan tâm nhiều hơn đến trái tim hơn là đến cái đầu lạnh của chàng, có lẽ chàng đã không để mình rơi vào cái đám rối hỗn mang này ngay từ đầu.
Michael đến thăm Tony và Mary không thường xuyên lắm. Khi anh đến, anh thường đưa chúng lên máy bay và chở chúng đến New York để hưởng một kì nghỉ cuối tuần hoạt náo, vui nhộn: lướt ván trên băng, ngồi xe ngựa đi dạo, thăm các viện bảo tàng, nhà hát, sở thú - mọi thứ mà anh có thể tham gia. Họ về nhà mệt lử. Trong nhiều tuần sau đó, Mary, lên bảy tuổi và rất tôn sùng bố mình, sẽ kể những câu chuyện vô tận về khoảng thời gian bố con gần bên nhau. Tony, lên chín, lại rất ít khi nói về bố.
Khi Michael lần đầu tiên nói với Kay là thời dụng biểu của anh rất chặt và yêu cầu chính nàng đem các con đến New York lần này, nàng đã nói là không được. Khi anh nói với nàng về buổi khiêu vũ mở đầu nhiệm kì tổng thống và nàng cũng có thể đến dự nếu nàng thích, thì nàng đã từ chối. Washington có quá nhiều hoài niệm không hay đối với nàng. Tuy vậy nàng hi vọng chàng sẽ tìm ra biện pháp khả thi nào đó để đem Tony và Mary đến với chàng. Nhưng chuyện chàng sai một vài thuộc hạ đến Maine và đưa chúng đi New York thì không phải là một lựa chọn.
Mọi chuyện thay đổi khi Kay nghe về Jules Segal. Anh ta từng là bác sĩ của nàng ở Nevada. Nàng đã giới thiệu anh ta cho một người bạn; cô bạn chuyển đến đó và biết được rằng anh ta đã bị bắn chết trước đó cả năm rồi - nạn nhân của một vụ trộm vụng về, theo báo chí đưa tin.
Thế nên bây giờ, trong ngày diễn ra cuộc lễ khiêu vũ bắt đầu nhiệm kì đó, Kay chờ đợi trong một phòng ở Essex House, nơi dãy phòng nhìn ra Central Park. Mấy đứa bé đang xem ti vi. Chúng không còn một chiếc ở nhà nữa. Nhìn thấy chúng sững sờ mê mẩn với chiếc ti vi ở đây khiến nàng nghĩ rằng đây là một ý tưởng tốt. Nàng nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Chàng đã trễ. Một số chuyện không bao giờ thay đổi.
Cuối cùng, nàng nghe những tiếng nói trong sảnh. Michael và Al Neri mở cửa.
“Tai sao thằng bé chưa mặc đồ?” Michael hỏi, chỉ vào Tony. Michael đã lên bộ đầy đủ với tuxedo khoác bên ngoài.
“Con không đi đến cuộc khiêu vũ ngốc nghếch đó đâu,” Tony nói.
Kay đã đãng trí đến độ nàng không nhận thấy rằng Tony đã cởi bộ côm - lê ra và thay lại áo sơ-mi xanh và quần chinos cậu vẫn mặc đi đến trường hàng ngày.
Mary nhảy từ giường xuống chạy lại ôm bố. “Con đi!” Mary nói. “Bố trông con có giống công chúa xinh đẹp không?Ai đi dự khiêu vũ cũng xinh đẹp cả, đúng không nào?”
“Con xinh đẹp, đúng thế, con gái cưng của bố. Nào Tony, con cũng đi chứ. Con sẽ thích mà, bố bảo đảm như thế.”
Kay bảo Tony mặc lại bộ côm - lê. Cậu bé túm lấy quần áo và lê bước đến phòng tắm vừa làu bàu điều gì đó. Neri ngồi xuống ghế xô-pha, có vẻ bằng lòng với chương trình hoạt hình trên màn ảnh. Mary lượn một vòng, khoe chiếc áo dài của cô. Kay bảo cô bé đi xem phần còn lại của sô diễn trên ti vi, để mẹ nói chuyện riêng với bố. Rồi nàng kéo Michael vào phòng ngủ kế bên và đóng cửa.
“Anh đã làm chuyện đó xong rồi, Kay à. Anh đã rút ra khỏi - ờ, khỏi những phương diện nguy hiểm của công cuộc kinh doanh mà anh thừa hưởng từ bố anh. Anh đã hứa với em rằng anh sẽ làm cho mọi chuyện làm ăn của mình trở thành hợp pháp, và anh đã làm được.”
Nàng cau mày. “Anh đã đưa ra lời hứa đó mười năm trước đây.” Nàng cho rằng đó chỉ là một mánh khóe vụng về để dụ nàng trở lại với chàng. Tuy vậy, vì tương lai các con nàng lại hi vọng rằng chàng đang nói sự thật. Chứ cái đà này chẳng sớm thì muộn, chàng cũng sẽ bị giết hay phải vô tù, và nàng ghét nghĩ đến những chuyện đó sẽ tác động đến Tony và Mary như thế nào. “Dầu sao em cũng chia vui với anh, Michael à, Thực sự là em vui đấy.”
“Trông em tuyệt quá, Kay à. Ở Maine, đi dạy: thực sự là rất thích hợp với em.”
“Michael, em có điều này muốn hỏi anh. Em muốn anh nói sự thật cho em nghe.”
Trong chưa đến một giây, mặt chàng trở nên một chiếc mặt nạ không biểu cảm.
“Có phải anh đã ra lệnh giết Segal?”
“Không.”
Không chút do dự. Chỉ một tiếng không gọn lỏn. Đấy chẳng phải chính là điều mà một kẻ nói dối... thành tinh vẫn làm khi câu trả lời đúng ra là có?
“Em không nghĩ là em có thể tin anh,” Kay nói.
“Anh đã bảo em từ lâu là đừng hỏi về công việc của anh, Kay à.”
“Đây không phải là công việc của riêng anh mà là công việc của chúng ta. Anh đã ra lệnh giết Bác sĩ Segal vì em, phải không? Vì vụ...”
“Đừng nói nữa.” Ít ra thì hiện giờ chàng ta cũng có một nét biểu cảm trên khuôn mặt. “Anh không muốn nghe chuyện ấy.”
“Vụ phá thai. Anh có sắp tát tai tôi nữa không đấy?” Cái cách mà anh ta xử sự khi nàng bảo anh ta: cái bạt tai đã kết thúc cuộc hôn nhân giữa họ, trong một khách sạn khác, không phải ở Washington, nơi anh ta sắp đến.
“Không đâu, Kay,” anh nói. “Anh không phải như thế.”
“Bởi vì nếu vụ trộm đó là công trình dàn dựng của anh.”
“Anh không muốn bàn về đề tài này.”
“ - anh nên biết rằng không phải tại anh ấy.”
“Kay, thôi đi. Chúng ta đều biết rằng khi em - khi chuyện đó xảy ra, thì anh ta là người bác sĩ mà em đến. Gia đình này sở hữu bệnh viện đó mà, Kay.”
“Sẽ không khó khăn gì lắm đâu để xem lại mấy cuộn băng ghi hình và thấy rằng em đã bị sẩy thai.”
“Ờ, chắc rồi. Em bay đến Las Vegas để có thể có một vụ sẩy thai và ông bác sĩ chăm sóc cho em hóa ra lại chính là người từng thực hiện những vụ phá thai mỗi lần Fredo lỡ để em nào.”
Nàng cảm thấy dạ dày của mình như bị bóp thắt lại bởi đôi bàn tay mạnh mẽ. “Ôi, Lạy Chúa, Michael. Em biết điều đó. Em biết mà. Anh đã chỉ... Em rất tức giận. Em rất hãi hùng. Thật khủng khiếp khi sống trong nỗi sợ về những gì có thể xảy ra cho anh, nhưng tôi đã nhận ra rằng không có gì khiến tôi sợ hơn là anh.”
“Tôi? Tôi đã bảo vệ gia đình này, gia đình của chúng ta, trước bất kì điều gì và mọi chuyện gì khác.”
“Michael, anh đã kết hôn với một loại gia đình khác từ rất lâu trước khi chúng ta bắt đầu cuộc sống gia đình của chúng ta. Ngay cả người vợ đầu tiên của anh cũng đã là người vợ thứ nhì. Tôi là người vợ thứ ba của anh.”
“Không gì có thể xảy đến cho em. Hoặc cho các con của chúng ta. Sẽ chẳng bao giờ có gì xảy ra.”
“Thôi nào, Michael. Nhà của chúng ta ở Nevada từng bị tấn công, giống như một mục tiêu nào đó trong vùng chiến sự. Anh đã chẳng từng hứa với Apollonia rằng sẽ không có gì xảy ra với nàng ta đó sao? Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ còn biết cầu mong nhờ phúc đức chúng ta mới chưa nổ tung thành từng mảnh vụn.”
“Kay này.”
“Và anh có ý chỉ gì khi nói Sẽ không bao giờ có chuyện gì? Loại bảo hộ nào, loại người nào anh chỉ huy trong khả năng của anh như một doanh nhân hợp pháp? Doanh nhân hợp pháp. Chúng ta sẽ thấy. Anh có thực sự trông chờ tôi tin rằng bất kì chuyện gì vế anh đều đã thay đổi, rằng bất kì điều gì vế anh đều sẽ thay đổi? Tự gọi mình là hợp pháp điều ấy sẽ chẳng thay đổi những gì mà anh đã làm.”
Anh ta vẫn để đôi mắt chiếu tướng nàng trong khi thọc tay vào túi áo jacket. Trong một thời khắc kinh hoàng, nàng đã nghĩ chàng đang rút một khẩu súng hay một con dao. Chàng rút ra một điếu thuốc và đốt lên.
“Em đã thông suốt chưa?”
“Anh không hiểu rõ. Tôi không giống anh, Michael à. Tôi không bao giờ có thể giết con... của chúng ta. Tôi bay đến Las Vegas để giúp tổ chức việc huy động vốn cho một bảo tàng nghệ thuật, và ngay sau khi đến đó, tôi bị sẩy thai. Tôi chẳng nhận được lời nào từ anh trong suốt hai tuần lễ sau khi chuyện đó xảy ra. Hai tuần. Không người phụ nữ nào chịu đựng nổi khi đi biển mồ côi một mình với một nỗi mất mát đớn đau như thế, suốt một thời gian dài như thế. Tôi đã quyết định lìa xa anh. Tôi còn có những lí do khác, những lí do lớn hơn nữa, tất cả những lí do mà chúng ta từng bàn luận đến, nhưng đó là cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà. Tôi biết anh sẽ không bao giờ chịu li dị với tôi. Vì thế tôi bảo với anh tôi đã phá thai. Tôi muốn làm tổn thương anh và tôi đã dùng lời nói dối để làm chuyện đó. Tôi muốn nhìn thấy cái vẻ biểu cảm kia trên mặt anh, và tôi đã thấy. Tôi muốn nhìn xem anh sẽ làm gì và anh đã đánh tôi.”
Michael cúi thấp đầu và, rất khẽ khàng, gật đầu.
“Jules Segal là bác sĩ thường vụ của tôi, Michael à. Anh có thực sự nghĩ rằng bất kì ai, nhất là anh ta một người vốn biết rõ anh là ai cũng như bất kì ai ở Las Vegas, lại có thể đi thực hiện một vụ phá thai trên vợ của một - một người ở vị thế như anh? Segal sẽ chẳng dám... tôi không biết nói sao... đốt một điếu thuốc mà không được phép của anh. Không bao giờ, dầu trong những giấc mộng hoang tưởng nhất của tôi, hay trong những cơn mộng dữ ghê hồn nhất của tôi, tôi lại nghĩ rằng anh sẽ gửi những tên côn đồ đi thủ tiêu con người vô can nọ, kẻ vẫn luôn phục tùng anh một phép...”
“Chúng ta cần đi thôi,” Michael lớn tiếng, ngắt mạch rồi xoay chiều câu chuyện. “tôi đi đây.” Anh ta quay người đi vào phòng khác. “Mary, Tony, nào lại đây với bố. Ai muốn đi máy bay nào?”
Mary hét lên: “Con đi! Con đi!” còn Tony chẳng nói gì, nhưng chỉ trong một lúc hai đứa con nàng đều hôn nàng và từ giã me. Không ai tắt ti vi.
Kay Corleone - một đồng lõa trong vụ giết người trước khi sự việc xảy ra - đổ người xuống giường.
Nàng không thể trách ai ngoài chính mình. Michael là kẻ sát nhân. Nàng đã yêu chàng ta không phải bất chấp điều đó mà - như chàng bảo nàng về những gì chàng đã làm trong chiến tranh - vì chính điều đó. Nàng đã biết, tự trong thâm tâm mình, rằng chàng đã giết hai người kia trong nhà hàng. Nàng cũng từng biết về nhiều vụ giết chóc khác, và làm bộ như không biết gì. Nàng kết hôn với chàng và cải đạo - bỏ một tôn giáo cho phép li dị để theo một tôn giáo cấm li dị - để nàng có thể đi xưng tội và sống yên ổn với chính mình vì đã lỡ yêu một kẻ sát nhân. Khi cuối cùng nàng đã làm cho Tom Hagen căng thẳng thần kinh và phải nói thật với nàng rằng ngôi nhà ở Hồ Tahoe thực ra đã bị đốt và bị ủi đi bởi vì FBI đã cài nhiều máy nghe lén nơi các xà và nền, nàng đã từng nghĩ, Đây là cọng rơm cuối cùng. Nhưng không. Nàng vẫn ở lại. Nàng đã xây lại nhà. Khi những kẻ với súng máy khai hỏa và suýt giết chết các con nàng, nàng rời căn nhà nhưng vẫn ở với chàng. Cả đến khi chàng bỏ nàng vì vụ nàng để mất đứa con và đánh nàng và giết chính anh ruột của chàng nàng vẫn không làm điều gì mà một con người thực sự vô tôi đã làm từ nhiều năm trước rồi.
Một chương trình phát hình mới hiện ra. Câu chuyện dẫn đầu chính là việc tuyên thệ nhậm chức của vị Tổng thống mới. Kay nhìn lên. Trong một cú quay về đám đông, nàng nhìn thấy Tom và Theresa Hagen. Nàng lại đặt đầu xuống gối, thấy cô đơn đến cùng tận tâm hồn, và khóc mỏi mê cho đến khi ngủ thiếp đi.