Đời tôi (Tập 1) - Chương 03 - Phần 1

CHƯƠNG III: GIA Đ ÌNH VÀ HỌC ĐƯỜNG

Năm 1888 bắt đầu những sự kiện lớn trong đời tôi. Tôi được gửi đi học ở Ô-đét-xa. Sự việc diễn ra như sau: Mùa hè, một người cháu của mẹ tôi về làng, anh tên là Môi-xây Phi-líp-pô-vích Spen-xe [Moisei Filippovitch Spenzer], một thanh niên hai mươi tám tuổi, thông minh và tốt bụng. Theo cách nói đương thời, Spen-xe cũng hơi “để cháy mình” và vì thế sau khi tốt nghiệp trung học, anh không được vào đại học.
Anh cũng làm báo và làm thống kê đôi chút. Spen-xe về nông thôn để tránh bệnh lao. Mô-nhi-a [Monia] – tên gọi trong gia đình của anh - là niềm tự hào của mẹ và các chị em do những khả năng xuất sắc và tính tình của anh. Sự quý trọng ấy lan sang cả gia đình tôi. Ai nấy đều vui mừng từ trước khi anh đến. Cùng mọi người, tôi cũng rất mong anh. Khi Mô-nhi-a bước vào phòng ăn, tôi đang còn đứng trên bậc thềm một phòng nhỏ ở góc - vẫn thường được gọi là “phòng bọn trẻ’ - không thể nhích lên một bước vì cả hai mũi giày cao cổ đều há miệng toang hoác. Không phải vì nghèo khổ - hồi đó chúng tôi đã rất khá giả rồi - nhưng ở nông thôn người ta không chú ý đến những điều ấy, ai nấy còn phải làm việc cật lực và mọi nhu cầu thì không lớn lắm.
- Chào cậu, chàng trai nhỏ. - Môi-xây Phi-líp-pô-vích nói. - Lại đây nào...
- Chào anh. - Đứa bé trả lời nhưng không động đậy.
Giữa những tràng cười lúng túng, người ta kể cho khách biết sự thể và anh vui vẻ nhấc tôi qua ngưỡng cửa rồi ôm chặt vào mình, đưa tôi ra khỏi tình thế khó khăn.
Trong bữa trưa, Mô-nhi-a được tất cả mọi người chú ý: mẹ tôi tiếp anh những miếng ngon nhất, bà hỏi anh ăn có vừa miệng không và gạn hỏi anh thích những món gì.
Buổi tối khi đàn bò về chuồng, Mô-nhi-a nói với tôi:
- Mình đi uống sữa tươi mới vắt đi, cầm lấy cốc... nhưng chú ý đừng cho tay vào trong cốc nhé, cầm bên ngoài thôi, chú bồ câu bé bỏng của tôi ạ.
Tôi học được ở Mô-nhi-a nhiều điều trước đó tôi chưa biết: phải cầm cốc thế nào, tắm rửa ra sao, làm thế nào đọc cho đúng một số từ ngữ và tại sao sữa vừa vắt lại rất bổ cho phổi. Spen-xe đi dạo, viết lách, chơi ky; anh dạy tôi môn số học và tiếng Nga, chuẩn bị cho tôi vào lớp một. Tôi theo anh hào hứng nhưng cũng đượm một nỗi băn khoăn: tôi cảm thấy ở anh mầm mống của một kỷ luật với những nhu cầu cao hơn.
Đó là khởi đầu của nền văn minh thành thị.
Mô-nhi-a rất thân mật đối với mọi bà con của anh ở nông thôn, anh hay nói đùa và hát bằng một giọng nam cao mềm mại. Nhưng cũng có những khoảng khắc anh sa sầm mặt, lặng lẽ và kín đáo ngồi vào bữa trưa. Những khi ấy mọi người băn khoăn nhìn anh và gạn hỏi: anh làm sao thế, ốm à? Anh đáp ngắn gọn và lẩn tránh. Cứ không rõ ràng như thế và phải đến cuối kỳ anh ở với chúng tôi, tôi mới đoán ra nguyên nhân của những cơn lặng lẽ này: Mô-nhi-a bị chấn động bởi sự thô lỗ hoặc bất công của miền thôn dã.
Không phải chú hay dì của anh là những người chủ cay nghiệt, không, không có lý do nào để khẳng định như vậy - mối quan hệ với công nhân và nông dân ở đây cũng không tệ hơn các trang trại khác. Nhưng cũng chẳng khá hơn là bao. Nghĩa là người ta đối xử cứng rắn với họ. Một lần, anh thư ký dùng chiếc roi da dài quất vào một người chăn cừu vì anh này đã giữ bầy ngựa cho đến tối mịt bên bờ nước. Mô-nhi-a tái mặt và nghiến răng thì thầm:
- Đồ khốn kiếp!
Và tôi cảm thấy quả thực đó là điều khốn nạn. Không biết nếu không có Mô-nhi-a, tôi có cảm thấy như thế không? Tôi chắc là có. Nhưng rõ ràng anh đã giúp tôi thấy điều đó. Chỉ một việc này cũng khiến tôi biết ơn anh một đời.
Spen-xe chuẩn bị cưới cô hiệu trưởng một trường nhà nước ở Ô-đét-xa dành cho các nữ sinh Do Thái.
Ở I-a-nốp-ca không ai biết cô, nhưng ngay từ đầu, ai nấy đều cho rằng hẳn cô phải là người ưu tú: vì là nữ hiệu trưởng và vì là vợ tương lai của Mô-nhi-a. Người ta định vào mùa xuân sang năm sẽ đưa tôi đến Ô-đét-xa, tôi sẽ trọ tại gia đình Spen-xe và vào trường trung học.
Người thợ may trong khu quần cư may vội vã cho tôi bộ trang phục, mọi người bỏ vào một cái thùng to những lọ bơ, mứt và các thứ quà khác để biếu bà con ngoài thành phố. Phút giã từ kéo dài, tôi khóc to, mẹ tôi cùng các chị tôi cũng khóc và khi đó lần đầu tiên tôi cảm thấy I-a-nốp-ca và mọi người ở đó quý báu biết chừng nào đối với tôi. Cỗ xe ngựa chở chúng tôi vượt qua thảo nguyên đến nhà ga. Tôi khóc một mạch cho đến khúc rẽ ra đường lớn. Từ Nô-vưi Bu-gơ [Novy Boug], chúng tôi đáp tàu hỏa tới Nhi-cô-lai-ép và xuống tàu thủy ở đó. Tiếng còi tàu làm tôi thấy rờn rợn sau lưng, nó vang lên như báo hiệu một cuộc sống mới. Nhưng đây mới là sông Bu-gơ [Boug], biển cả vẫn còn ở trước mặt tôi. Rất nhiều, rất
nhiều thứ khác nữa đang chờ đợi tôi. Bến cảng đây rồi, một người đánh xe, một phố nhỏ mang tên Pố-crốp-xki [Pokrovosky] và một tòa nhà lớn cũ kỹ, ở đó có trường dành cho các nữ sinh với cô hiệu trưởng.
Người ta quan sát tôi từ mọi phía, hôn lên trán và lên má tôi: thoạt đầu là một phụ nữ trẻ, rồi một bà già, mẹ cô. Như thường lệ, Môi-xây Phi-líp-pô-vích vẫn bông đùa, anh hỏi tôi về I-a-nốp-ca, về tất cả những người sống ở đó mà chúng tôi biết và về cả những con bò cái. Nhưng lúc này, lũ bò cái là những con vật vô nghĩa đến mức tôi cảm thấy phát ngượng khi phải nhắc đến chúng giữa nhóm người thanh lịch như thế. Căn nhà không lớn. Người ta dành cho tôi một góc trong phòng ăn, được che chắn bởi một bức màn. Tôi đã ở đấy trong bốn năm đầu của đời học trò.
Lập tức tôi tự khép mình hoàn toàn vào quyền lực của thứ kỷ luật hấp dẫn nhưng khắt khe của Môi-xây Phi-líp-pô-vích mà tôi đã dự cảm từ hồi ở làng. Trật tự sống trong gia đình không đến nỗi nghiêm khắc, quy củ thì đúng hơn: chính vì thế trong thời gian đầu tôi thấy nó nghiêm ngặt. Tôi phải đi ngủ vào lúc chín giờ. Chỉ sau này khi học lên những lớp cao, người ta mới cho phép tôi ngủ muộn hơn. Dần dà tý một, từng bước người ta dạy tôi phải biết chào buổi sáng, phải rửa tay và các móng, không được đưa dao lên miệng, phải cám ơn người phục vụ khi họ dọn thức ăn cho mình, không được đến chậm trễ và nói xấu ai sau lưng họ. Tôi được biết vài chục từ mà chúng tôi coi như không có vấn đề gì ở làng, không phải tiếng
Nga chính gốc mà là tiếng U-cơ-rai-na bị nói sai lạc đi. Ngày này qua ngày khác, tôi tìm ra những mảnh mới của một môi trường văn minh hơn cái nơi tôi đã sống trong chín năm đầu của cuộc đời mình. Ngay cả kỷ niệm về nhà xưởng cũng bắt đầu phai mờ, mất sức quyến rũ trước những cám dỗ của văn học cổ điển và sân khấu. Tôi trở thành một tiểu thị dân. Nhưng đôi khi hình ảnh xóm làng chợt sáng rực trong ý thức của tôi, hấp dẫn như một thiên đường bị đánh mất. Những lúc ấy tôi buồn bã đứng ngồi không yên, tôi lấy ngón tay viết những lời chúc tụng mẹ tôi lên kính cửa sổ hoặc vùi đầu vào gối mà khóc.
Cuộc sống ở gia đình Môi-xây Phi-líp-pô-vích khá đạm bạc, tiền tài chỉ vừa đủ. Ông chủ nhà không có việc làm cố định. Anh dịch và chú giải những vở bi kịch Hy Lạp hoặc viết những mẩu chuyện cho trẻ em. Spen-xe nghiên cứu kỹ Slô-sse [Schlosser] và các sử gia khác để lập nên những niên biểu, cạnh đó anh giúp vợ quản lý nhà trường. Chỉ sau này anh mới thành lập một nhà xuất bản nhỏ, phát triển rất khó khăn trong những năm đầu nhưng sau đó thăng tiến rất nhanh. Mười, mười hai năm sau, Spen-xe trở thành người xuất bản sách quan trọng nhất miền Nam nước Nga, anh có một nhà in lớn và là chủ nhân một cơ nghiệp.
Tôi sống sáu năm trong gia đình ấy, đúng vào thời kỳ đầu tiên của nhà xuất bản. Tôi làm quen với công việc sắp chữ, sửa bản in thử, lên trang, in ấn, gấp và đóng bìa. Việc sửa bản in thử là trò giải trí làm tôi thích thú. Tôi rất thích tờ giấy mới in xong, say mê ấy có từ những năm xa xôi thuở còn đi học. Như lệ thường trong các gia đình tư sản và nhất là tiểu tư sản, đội ngũ kẻ hầu người hạ đóng một vai trò không mấy nổi bật nhưng khá quan trọng trong đời tôi. Đa-sa [Dacha], cô hầu đầu tiên có một tình bạn đặc biệt bí mật với tôi: cô trao cho tôi những chuyện bí ẩn nhất của mình. Sau bữa trưa, khi mọi người đã đi nghỉ, tôi lẻn xuống nhà bếp. Ở đó Đa-sa nói đủ thứ chuyện linh tinh, không ra đầu, ra đũa về cuộc đời và mối tình đầu của cô.
Sau Đa-sa, gia đình lại có một cô hầu người Do Thái vùng Ghi-tô-mi-a [Jitomir] đã ly hôn với chồng.
“Anh ấy ác lắm, thật đáng kinh tởm.”. Cô phàn nàn với tôi.
Tôi bắt đầu dạy cô ta tập đọc. Mỗi ngày cô bỏ ra ít nhất nửa giờ trước bàn tôi, cố học hỏi bí quyết của bảng chữ cái và quá trình sắp xếp chúng thành một từ.
Hồi đó, một đứa bé được sinh ra trong gia đình và nhà cần một chị vú nuôi. Sau đó, tôi viết thư hộ cho chị này. Cô than vãn và kêu ca trong thư gửi người chồng đã sang châu Mỹ. Theo yêu cầu của cô, tôi cố mô tả lời cô nói với những màu sắc ảm đạm nhất rồi thêm vào: “Riêng chỉ có đứa bé đang bú của chúng ta là một vì sao sáng trên bầu trời ảm đạm của đời em.”. Chị vú nuôi thích thú đến tuyệt đỉnh. Bản thân tôi cũng khoái khi đọc bức thư, chỉ cảm thấy phiền phiền vì đoạn cuối lại có lời xin một ít đô-la. Rồi chị vú nuôi lại đề nghị:
- Bây giờ cậu giúp cho một thư nữa.
- Cho ai? - Tôi hỏi, sẵn sàng chuẩn bị cho tác phẩm.
- Cho người anh họ tôi. - Chị vú nuôi trả lời, nhưng trong giọng chị có gì không quả quyết lắm. Lá thư này cũng nói về một đời sống ảm đạm, nhưng không hề đả động đến “một vì sao” nào cả, và kết thúc rằng chị đồng ý đến thăm người nhận thư nếu anh ta muốn.
Cô vú nuôi vừa ra khỏi cửa thì cô hầu, học trò của tôi bước vào; chắc chắn cô đã nghe ngóng ở ngoài cửa.
- Chẳng phải là anh họ gì đâu. - Cô thì thầm vào tai tôi vẻ bất bình.
- Thế thì là ai? - Tôi hỏi.
- Một ai đó, thế thôi... - Cô trả lời.
Và tôi có dịp trầm ngâm về sự rắc rối trong những mối quan hệ con người.
Tới bữa trưa, chị Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na [Fanny Solomonovna] nói với tôi kèm một nụ cười bí hiểm:
- Kìa thi sĩ, cậu không muốn ăn xúp nữa à?
- Sao? - Tôi hoảng hốt hỏi.
- Không sao! Cậu biên thư hộ chị vú nuôi, vậy cậu là thi sĩ rồi còn gì... Cậu viết thế nào nhỉ: “...Một vì sao sáng trên bầu trời ảm đạm...”. Đúng là một thi sĩ thực thụ rồi!
Và không kìm được nữa, chị phá lên cười.
Môi-xây Phi-líp-pô-vích trấn an tôi:
- Cậu viết hay đấy. Nhưng cậu biết không, đừng viết hộ thư cho cô ấy nữa, để chị Phan-ni viết thì hơn.
Mặt rối rắm của cuộc sống mà mọi người không muốn nói ra trong gia đình cũng như trên học đường, không vì thế mà không tồn tại; chúng còn khá mạnh và có mặt ở mọi nơi để thu hút sự chú ý của một chú bé lên mười. Người ta không cho chúng vào lớp học cũng như vào nhà qua cửa chính, nhưng chúng tự tìm thấy đường thông qua nhà bếp.
Người Do Thái được dành mười phần trăm trong các trường của nhà nước, chỉ số ấy được đặt ra năm 1887. Hầu như vô vọng nếu muốn được vào trường Trung học Cổ điển: phải có ô dù hoặc đút lót.

Trường Trung học Hiện đại khác với Trung học Cổ điển ở chỗ tại đó người ta không dạy những ngôn ngữ cổ điển, ngược lại chương trình toán học, vạn vật học và các ngôn ngữ hiện đại được mở rộng hơn. Chỉ số nói trên cũng được áp dụng cho các trường Trung học Hiện đại nhưng người ta thi vào đó ít hơn, thành thử các thí sinh có nhiều hi vọng được nhận hơn.
Thời ấy trên các báo và tạp chí, người ta tranh cãi hồi lâu về cách giáo dục cổ điển và hiện đại.
Phái thủ cựu cho rằng giáo dục cổ điển truyền cho con người một thứ kỷ luật; nói đúng hơn họ hi vọng một công dân đã chịu đựng ê a tiếng Hy Lạp thời thơ ấu thì suốt đời cũng sẽ chịu đựng được thể chế Nga hoàng.

Ngược lại, những người có tư tưởng tự do - dù không phủ nhận chủ nghĩa cổ điển, anh em cùng vú nuôi với chủ nghĩa tự do vì cả hai cùng được sinh ra trong thời Phục hưng - nhưng họ vẫn ủng hộ ngành học hiện đại. Vào thời kỳ tôi phải quyết định học loại nào, cuộc tranh luận này đã lắng xuống do một thông tư đặc biệt của chính phủ, cấm việc tranh cãi ngành học nào hơn ngành học nào.
Mùa thu, tôi thi vào năm thứ nhất trường Trung học Hiện đại Xanh Pôn [Saint Paul]. Kết quả cuộc thi ấy khá thường; tôi được điểm “3” môn tiếng Nga và điểm “4” môn số học. Điểm thi như thế không đủ bởi chỉ số nói trên đòi hỏi một sự chọn lọc rất chặt chẽ. Hệ thống thi cử còn nặng nề thêm vì nạn đút lót.
Người ta quyết định cho tôi vào lớp dự bị, đó là một lớp tư thục hoạt động phụ bên cạnh trường công. Từ lớp đó, người Do Thái được lên năm thứ nhất vẫn theo chỉ số nói trên, nhưng được ưu tiên so với sinh viên ngoại trú.
Trường Trung học Hiện đại Xanh Pôn do người Đức sáng lập. Nó thuộc về cộng đồng Tin Lành Lu-thơ [Luthe] và đáp ứng nhu cầu của nhiều kiều dân Đức sống ở Ô-đét-xa và khắp miền Nam. Mặc dù trường này được hưởng các “quyền lợi nhà nước” nhưng vì nó chỉ có sáu lớp, người ta buộc phải học năm thứ bảy trong một trường Trung học Hiện đại khác, nếu muốn vào trung cấp hay đại học. Có lẽ bằng cách đó, chính phủ hi vọng sẽ loại bỏ được những học sinh ưu tú nhất của dân tộc Đức vào năm cuối. Hơn nữa, ngay trong trường Xanh Pôn, bản thân thứ “tinh thần” Đức ấy càng mai một dần, năm này qua năm khác.
Học sinh người Đức chiếm không đầy một nửa sĩ số. Các thầy giáo người Đức bị loại bỏ thẳng thừng khỏi ban lãnh đạo trường.
Trong trường, những ngày đầu tiên đầy đau buồn, niềm vui chỉ đến vào sau đó. Tôi đi học với bộ đồng phục mới, đầu đội chiếc cát-két mới tinh buộc dải màu vàng, lại được tô điểm bằng một huy hiệu tuyệt vời: những chữ đầu tiên của tên trường cuộn vào nhau giữa hai cành cây, mỗi cành có ba lá. Tôi đeo trên lưng một cái cặp mới tinh đựng sách học, bìa đóng sáng loáng và mới nguyên cùng một hộp bút đẹp có chiếc bút chì gọt nhọn đầu, quản bút mới tinh và một cái tẩy. Hào hứng, tôi dạo khắp phố dài Út-xpen-xcai-a [Ouspenskaia] với cả bộ đồ lộng lẫy ấy, lòng vui khi nghĩ rằng còn xa mới tới trường. Tôi tưởng tượng tất cả những người qua lại đều nhìn ngắm bộ đồ nghề tuyệt vời của tôi với vẻ khâm phục, thậm chí ghen tị. Vô cùng tự tin và tò mò, tôi nhìn chằm chằm vào mọi gương mặt đi ngược chiều. Nhưng hoàn toàn bất ngờ, một thằng bé cao gầy, khoảng mười ba tuổi - có lẽ từ một xưởng nào ra vì nó cầm một vật gì đó bằng tôn - dừng lại cách tôi hai bước, ngửa đầu về phía sau khạc ầm ĩ và nhổ một bãi to vào vai áo choàng mới tinh của tôi, rồi nó khinh bỉ nhìn tôi và tiếp tục đi chẳng nói chẳng rằng.
Điều gì khiến nó hành động như vậy? Ngày nay, tôi thấy rõ ràng: một chú bé bần cùng, áo rách như sơ mướp, đi đôi giày rách nát không tất, phải làm những việc bẩn thỉu cho chủ, trong khi đó các cậu con ông chủ vênh vang, hãnh diện trong bộ đồng phục học sinh đẹp đẽ... và bằng hành động của mình, đứa bé đã thể hiện sự phản kháng xã hội của nó. Nhưng trong giây phút đó tôi nào biết khái quát hóa. Tôi lau chùi vai áo rất lâu bằng lá cây dẻ, không kìm nổi sự phật ý bất lực và đi hết chặng đường còn lại với tâm trạng đen tối.
Đòn thứ hai chờ tôi ở sân trường.
- Thưa thầy Pi-ốt Páp-lô-vích [Pierre Pavlovitch], lại có một thằng còi lớp dự bị cũng mặc đồng phục! - Bọn học sinh la lên.
Sao vậy? Nguyên là thế này: lớp dự bị được coi là lớp tư thục nên học sinh lớp này bị cấm ngặt không được mặc đồng phục. Ông giám thị Pi-ốt Páp-lô-vích, một thầy có bộ râu đen giải thích cho tôi: phải cất huy hiệu trên mũ cát-két, cất phù hiệu trên cổ áo, cất vòng trên thắt lưng và thay khuy áo có chạm phượng hoàng bằng những khuy xương thường. Tai họa thứ hai đến với tôi như thế.
Hôm đó chúng tôi không phải học. Học sinh người Đức và những bọn còn lại cùng đến nhà thờ Tin Lành mà nhà trường được mang tên. Lập tức một thằng bé mập mạp che chở và bảo tôi ngồi cạnh trên một chiếc ghế băng trong nhà thờ, nó lưu ban và đang học lại lớp dự bị, thông thạo mọi nội quy, tập quán.

Lần đầu tiên tôi được nghe đại phong cầm (đàn ống) và âm thanh của nó làm hồn tôi rung động. Rồi xuất hiện một người cao lớn, râu cạo nhẵn, áo ve trắng và tiếng nói của ông tràn khắp tòa nhà, tạo nên một làn sóng âm thanh chạy đuổi nhau. Ông nói bằng một ngôn ngữ tôi không hiểu khiến bài thuyết giáo đường bệ hơn gấp hàng chục lần.
- Ai vậy? - Tôi hỏi vẻ hồi hộp.
- Đích thân ông mục sư Bin-ne-man [Binnemann] đấy. - Các-xơn [Karlsohn] giảng giải. - Ông ấy thông thái vô cùng, đó là người thông minh nhất ở Ô-đét-xa.
- Thế ông ấy nói gì?
- Cậu biết đấy, ông ấy nói tất cả những gì phải nói trong các dịp như thế này. - Lời giảng giải của Các-xơn không còn hào hứng như trước. - Ông nói chúng ta phải học giỏi, phải chăm chỉ và sống hòa thuận với bạn bè...
Sau này tôi mới biết thằng bé có gò má cao sùng bái Bin-ne-man ấy là đứa đại lười nhác trong đám học sinh, nó luôn gây gổ và đánh nhau loạn xạ trong các giờ nghỉ.
Ngày thứ hai đã an ủi tôi. Tôi nổi lên ngay về môn số học và chép lại đúng các mẫu chữ trên bảng.
Thầy giáo Ru-đen-cô [Rudenko] khen tôi trước lớp và cho tôi hai điểm “5” liền. Điều đó hòa giải tôi với các khuy xương mà tôi mang trên áo. Trong các lớp dưới, đích thân thầy hiệu trưởng Khơ-rít-xchi-an Khơ-rít-xchi-a-nô-vích Sva-nê-bắc [Christian Christianovitch Schwane-bach] dạy tiếng Đức. Đó là một người ăn mặc rất chải chuốt, sở dĩ trèo lên được địa vị cao như thế chỉ vì ông ta là con rể của Bin-ne-man. Bắt đầu giờ học, ông kiểm tra tay tất cả học trò và thấy tay tôi sạch. Sau đó vì tôi chép cẩn thận các từ tiếng Đức ở trên bảng, thầy hiệu trưởng khen tôi và cho tôi một con “5”. Như thế sau ngày học đầu tiên ấy, tôi về nhà với
trọng lượng nặng trĩu của ba điểm “5”. Tôi giữ chúng trong cặp như một của quý, không đi mà chạy trên phố nhỏ Pố-crốp-xki với lòng khát khao được gia đình khen ngợi.
Tôi đã trở thành học sinh như thế. Tôi dậy sớm uống vội vàng chén trà buổi sáng, nhét vào túi áo choàng bữa ăn trưa bọc trong mảnh giấy và vội vã chạy đến trường cho kịp giờ đọc kinh buổi sáng. Không bao giờ tôi chậm trễ. Tôi luôn ngồi ngoan ngoãn trên chiếc ghế dài. Tôi nghe giảng chăm chú và chép cẩn thận những thứ thầy viết trên bảng. Ở nhà tôi chăm chỉ chuẩn bị bài vở. Tôi luôn đi nằm đúng giờ để ngày hôm sau lại uống vội chén trà sáng, rồi lại chạy đến trường với nỗi lo chậm giờ đọc kinh buổi sáng. Tôi lên lớp đều đặn, lớp này tiếp nối lớp khác. Khi gặp một thầy giáo ngoài phố, tôi chào với một lòng kính trọng lớn nhất có thể có.
Trong số những người bên tôi có rất nhiều kẻ kỳ quặc, tỉ lệ này đặc biệt cao trong giới giáo viên.
Ở trường Xanh Pôn, trình độ các thầy giáo cao hơn mức trung bình. Nhà trường có một tiếng tốt và không phải không có lý do: chế độ ở đây nghiêm ngặt, mọi đòi hỏi cũng cao; năm này qua năm khác, dây cương càng căng hơn. Nhất là sau khi ông hiệu trưởng Sva-nê-bắc được ông Nhi-cô-lai An-tô-nô-vích Ca-min-xki [Nikolas Antonovitch Kaminsky] thay thế.
Ông này nếu xét về nghiệp vụ thì là một nhà vật lý, còn về tâm tính là kẻ thù ghét con người.
Không bao giờ ông nhìn thẳng vào người ông nói chuyện. Ông lướt qua các hành lang và các lớp không một tiếng động trên đôi giày đế lót cao su. Giọng nói của ông mỏng và rè, chẳng cần cất cao cũng gây nên sợ hãi. Nhìn bề ngoài Ca-min-xki có vẻ cân bằng nhưng bên trong không bao giờ ông thoát khỏi trạng thái cáu kỉnh dồn ép. Ngay cả với những học trò giỏi nhất ông cũng giữ một thái độ trung lập có tính đối phó.
Ông cũng đối xử với tôi như thế.
Là nhà vật lý, Ca-min-xki sáng chế ra một thiết bị để chứng minh định luật Bôi-lơ - Ma-ri-ốt [Boyle - Mariotte] về tính nén được của các chất khí. Sau khi giới thiệu thiết bị ấy, thế nào cũng có hai ba đứa học sinh thì thào với nhau, nhưng cốt để thầy nghe được:
- Cừ thật đấy!
Thỉnh thoảng còn có đứa nào đó đứng lên và nghi hoặc hỏi:
- Thưa thầy, thế ai làm ra cái thiết bị này?
Ca-min-xki hững hờ trả lời với giọng như người bị cúm:
- Tôi đấy.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3