Đời tôi (Tập 1) - Chương 03 - Phần 2
Mọi người nhìn nhau và những kẻ có nguy cơ lưu ban thở dài thán phục hết sức to. Khi thầy Ca-min-xki thay thế thầy Sva-nê-bắc vì vấn đề Nga hóa, ông An-tôn Va-xi-li-ê-vích Cơ-rư-gI-a-nốp-xki [Anton Vassiliévitch Kryjanovsky] dạy môn ngôn ngữ và văn học được bổ nhiệm làm thanh tra học tập. Đó là một người láu lỉnh, râu màu hung, cựu học sinh chủng viện, có thoáng một chút tư tưỏng tự do. Ông ta rất thích quà biếu và rất tài che giấu những suy nghĩ bên trong của mình dưới bộ mặt vui tươi giả tạo. Vừa được bổ nhiệm làm thanh tra, ông đã tỏ ra nghiêm khắc và bảo thủ hơn.
Cơ-rư-gI-a-nốp-xki dạy tiếng Nga từ năm thứ nhất. Ông quý tôi vì khả năng đọc - viết và vì tôi thích học tiếng Nga. Theo một thông lệ được đặt ra chặt chẽ, ông đọc to giữa lớp những bài viết của tôi và cho tôi điểm “5” cộng.
Thầy giáo dạy toán Iu-rơ-tren-cô [Iourtchenko] là một người mập lùn, lãnh đạm và láu lỉnh. Người ta đặt cho ông cái biệt hiệu “Bin-điu-giơ-nhích” [Bindioujnik], trong ngôn ngữ ở Ô-đét-xa nghĩa là “người lái xe tải”. Iu-rơ-tren-cô mày tao với tất cả học sinh từ năm thứ nhất đến năm cuối và không lựa chọn khi ăn nói.
Với vẻ bình dân có tính toán, ông làm cho học sinh kính trọng đến một mức nào đó, nhưng điều này bốc hơi theo thời gian khi bọn trẻ biết ông ta ăn của đút lót. Vả lại các thầy giáo khác cũng ăn của đút lót bằng nhiều cách. Cậu học trò nào dốt, nếu là người vùng khác, thì đến trọ ở nhà ông thầy dạy môn mà anh ta lo ngại nhất. Nhưng nếu là người Ô-đét-xa thì cậu ta sẽ xin học thêm với giá cắt cổ từ thầy giáo nào đe dọa cậu nhiều nhất.
Một thầy giáo dạy toán khác, ông Dlô-tran-xki [Zlotchansky] thì hoàn toàn trái ngược với
Iu-rơ-tren-cô: gầy gò với bộ ria nhọn trên khuôn mặt vàng võ xanh nhợt, lòng trắng con mắt lúc nào cũng đục, cử chỉ mệt mỏi như vừa mới ngủ dậy, cứ từng phút, ông khạc ầm ầm ra đờm đặc và nhổ ngay trong lớp.
Người ta biết ông có một mối tình bất hạnh, ông chơi bời trác táng và uống rượu. Dlô-tran-xki là nhà toán học không tồi nhưng dường như không lúc nào ông để ý đến học trò, đến những tiết học, thậm chí ông coi thường cả môn toán. Vài năm sau ông ta cắt họng bằng lưỡi dao cạo.
Mối quan hệ của tôi với hai thầy giáo toán lúc nào cũng cân bằng và mỹ mãn vì tôi giỏi môn này.
Khi học đến những lớp trên của trường trung học, tôi còn cân nhắc cả đến việc theo con đường toán học thuần túy.
Dạy sử là ông Liu-bi-mốp [Lioubimov], vóc dáng to lớn và thẳng đuỗn, ông đeo kính gọng vàng trên cái mũi nhỏ, khuôn mặt đều đặn được viền bởi chòm râu trẻ và khỏe. Chỉ khi ông cười, người ta mới thấy - ngay cả đối với bọn trẻ chúng tôi - vẻ oai vệ và chững chạc ấy chỉ là ảo tưởng, ông là người kém nghị lực, rụt rè, nhút nhát, luôn bị cái gì đó giằng xé. Lúc nào ông cũng sợ người ta biết hoặc có thể biết gì đó về ông.
Tôi chìm vào môn lịch sử với sự chú ý ngày càng tăng, dù còn rất tản mạn. Từng bước một, tôi mở rộng phạm vi kiến thức từ những cuốn giáo khoa tồi tệ của nhà nước đến các giáo trình giảng dạy ở đại học hoặc các pho sách nặng của Slô-sse. Không chút nghi ngờ, trong sự say mê của tôi về lịch sử bao hàm một thứ tinh thần thể dục: tôi học thuộc lòng vô số tên tuổi và chi tiết vô bổ, chỉ làm bề bộn thêm trí nhớ, với mục đích thỉnh thoảng đặt thầy giáo vào tình huống khó khăn.
Liu-bi-mốp không có khả năng giữ kỷ luật trong lớp. Đôi khi trong giờ học, đột nhiên ông hoảng hốt, giận giữ nhìn quanh, tìm cách chộp lấy những tiếng thì thào mà ông cho rằng chúng xúc phạm đến ông.
Những lúc ấy cả lớp đều ngạc nhiên và đề phòng thận trọng. Liu-bi-mốp còn dạy cả ở một trường trung học nữ, ở đó người ta cũng bắt đầu nhận thấy những biểu hiện kỳ quặc ở ông. Kết cục là một bận, trong một cơn điên, ông tự treo cổ ở móc của một cửa sổ.
Chúng tôi sợ thầy địa lý Giu-cốp-xki [Joukovsky] như sợ lửa. Ông ta nghiền học sinh như một chiếc cối xay thịt. Trong giờ học ông đòi hỏi một sự yên lặng tuyệt đối không thực hiện nổi. Nhiều khi ngừng một học sinh đang trả lời, ông dỏng tai như một con chim nghe ngóng nguy hiểm từ phương xa. Cả lớp biết điều này nghĩa là gì: khi ấy phải cứng đờ người ra, không động đậy và cố nhịn thở, nếu được. Tôi chỉ nhớ đến độc một trường hợp khi Giu-cốp-xki nới tay một chút, hôm ấy hình như là ngày sinh nhật của ông theo tôi nghĩ. Ai đó trong số học sinh bật ra một nhận xét nửa riêng tư, nghĩa là không liên quan trực tiếp đến tiết học; Giu-cốp-xki cho qua. Bản thân điều này cũng đã là một biến cố lớn. Nhưng tức thì Vác-ke [Wacker], một thằng nịnh bợ bật dậy từ chiếc ghế băng và nói với nụ cười khẩy:
- Mọi người đều nói rằng Liu-bi-mốp chẳng bằng cái đế giày của Giu-cốp-xki.
Giu-cốp-xki lập tức đờ người lại:
- Nói cái gì thế? Ngồi xuống!
Tức thì trong lớp lại xuất hiện sự im lặng đặc biệt chỉ có trong các giờ địa lý. Vác-ke ngồi sụp xuống như bị sét đánh. Từ mọi phía, những khuôn mặt trách móc và khinh bỉ hướng về hắn.
- Lạy Chúa, đúng thế đấy ạ. - Vác-ke thì thào, vẫn mong làm động tâm ông thầy địa lý vốn không ưa hắn chút nào.
Thầy giáo chính dạy môn tiếng Đức tên là Xtru-vê [Struhve], một người Đức cao lớn, đầu to, râu dài đến thắt lưng. Chân nhỏ như chân một đứa trẻ, ông vần cái thân hình nặng nề ấy như một cái chum. Là một người vô cùng chân thật, Xtru-vê đau khổ vì những kém cỏi của học sinh, ông lo lắng, động viên, bực bội vì phải cho một con “2” không bao giờ ông cho điểm “1”. Ông cố không để cho bất kỳ ai phải lưu ban.
Xtru-vê đã xin vào trường cho đứa cháu chị đầu bếp của ông, thằng Vác-ke đã nói ở trên; một kẻ vừa kém năng khiếu vừa đáng ghét. Xtru-vê là một nhân vật hơi hài hước, nhưng nhìn chung chúng tôi có thiện cảm với ông.
Dạy tiếng Pháp là ông Gút-xtáp Xa-môi-lô-vích Buốc-nang [Gustave Samoilovitch Burnand] người Thụy Sĩ. Đó là một người gày còm, trông nghiêng dẹt như bị lôi từ êtô ra, hơi hói đầu, môi xấu mỏng quẹt và xanh nhợt, mũi nhọn. Trên trán ông có một cái sẹo bí hiểm hình chữ “X”. Tất cả học sinh đều nhất trí không thể chịu đựng được Buốc-nang và điều này có lý do. Mắc chứng khó tiêu, suốt trong giờ học ông nuốt một thứ kẹo gì đó và tìm thấy trong mỗi học sinh một kẻ thù cá nhân. Cái sẹo trên trán ông là đầu đề của vô số những suy đoán và giả thuyết. Một số học sinh cho rằng vào thời thanh niên, Gút-xtáp tham gia một cuộc đấu kiếm và địch thủ của ông đã để lại một chữ thập nghiêng trên trán ông. Vài tháng sau, giả
thuyết ấy bị bác bỏ. Theo thuyết này, không có trận quyết đấu nào cả, trong một lần phẫu thuật người ta đã lấy một mảnh da trán để vá lên mũi ông. Lũ học sinh quan sát kỹ lưỡng cái mũi của ông thầy tiếng Pháp và những kẻ táo bạo nhất khẳng định chúng thấy rõ đường vá. Bọn trầm tĩnh hơn giải thích vết sẹo bằng một tai nạn xảy ra thời thơ ấu của ông: ông thầy tội lỗi bị ngã từ thang xuống và rách trán. Nhưng người ta gạt bỏ cách giải thích này vì nó quá thô sơ. Vả lại, tuyệt đối không thể hình dung được Buốc-nang dưới những nét của một trẻ thơ.
Người gác cổng chính, kẻ có vai trò đáng kể trong đời sống chúng tôi, là một người Đức cứng rắn, vô cùng oai vệ với chòm râu má bắt đầu hoa râm. Ông ta tên là An-tôn [Anton]. Khi giải quyết những vụ đi chậm, phạt mất bữa trưa, giam trong nhà ngục, dường như An-tôn chỉ đóng vai trò kẻ thừa hành nhưng trong thực tế ông có quyền lực rất lớn và nên giữ những mối quan hệ thân thiện với ông. Tôi đối với ông khá thờ ơ, cũng như ông đối với tôi vì tôi không thuộc số “khách hàng” của ông; tôi luôn đi học đúng giờ, chiếc cặp đeo lưng luôn ngăn nắp và lúc nào cũng mang thẻ học sinh trong túi trái áo vét-tông. Nhưng có hàng tá học sinh hàng ngày phải lệ thuộc vào An-tôn và phải mua lấy cảm tình của ông bằng cách này cách khác. Dù sao đối với chúng tôi, ông vẫn là một trong những nền tảng của trường Xanh Pôn. Ngạc nhiên biết bao khi sau kỳ nghỉ hè, chúng tôi được biết vì mê mẩn và ghen tuông, ông già An-tôn đã nã một phát súng vào cô gái mười tám tuổi, con một người gác cổng khác, và hiện đương ngồi tù.
Như vậy đó, trong cuộc sống chừng mực của học đường và cả đời sống bị bóp nghẹt, dồn nén vào bên trong xã hội đương thời, những thảm cảnh cá nhân cứ chen vào, mỗi lần tạo ra môt cảm giác thái quá, như một tiếng rên vang lên trong một tòa đại sảnh trống rỗng.
Gần nhà thờ Xanh Pôn có một cô nhi viện. Một góc sân chơi của chúng tôi được dành cho cô nhi viện này. Những đứa trẻ của cô nhi viện ra sân chơi với bộ mặt buồn bã, trong bộ quần áo vải xanh bạc màu vì bị giặt là nhiều lần, chúng lê bước ủ dột trong góc của mình, rồi buồn rầu cúi đầu lên lại thang gác trở về nơi chúng ở. Mặc dầu sân chơi là sân chung và không có chướng ngại vật nào ngăn cản giữa góc trẻ mồ côi và góc của chúng tôi, bọn học sinh Trung học và lũ “cô nhi” như cách chúng tôi gọi - tạo thành hai thế giới hoàn toàn cách biệt. Tôi đã thử nói chuyện hai, ba lần với các chú bé mặc quần áo vải xanh nhưng chúng trả lời tôi bằng giọng uể oải vẻ bất đắc dĩ rồi vội vã quay về: chúng được lệnh nghiêm ngặt không được quan hệ với học sinh trường trung học. Trong bảy năm ròng, tôi dạo chơi trong sân trường mà không biết tên đứa nào trong số trẻ mồ côi. Hẳn là vào đầu năm học, ông mục sư Bin-ne-man đã ban phát phước lành cho chúng bằng cách rút ngắn phần nghi lễ.
Ở phần sân tiếp liền với cô nhi viện, người ta dựng những dụng cụ thể dục phức tạp: vòng, sào, thang đứng và thang nghiêng, xà treo, xà đơn và nhiều thứ khác. Ngay sau khi được vào học, tôi muốn lặp lại một tiết mục mà một đứa trẻ ở viện cô nhi đã làm ngay trước mắt tôi. Trèo lên chiếc thang đứng, tôi treo người lên bậc trên cùng bằng những ngón chân, đầu quay xuống đất, hai tay nắm lấy bậc thang thứ nhất, dùng đầu ngón chân, tôi đạp khỏi bậc trên để uốn người một trăm tám mươi độ trên không trung và nhảy xuống đất một cách dẻo dai. Nhưng tôi thả tay quá muộn nên sau khi uốn vòng xong, cả người tôi đập vào thang. Ngực tôi như bị nằm trong một gọng kìm, tôi ngạt thở và lăn lộn dưới đất như một con sâu, tay bấu víu vào chân bọn trẻ xung quanh. Rồi tôi ngất đi. Sau lần ấy, tôi trở nên thận trọng hơn trong môn thể dục. Tôi không biết mấy về cuộc sống ngoài đường phố, trên quảng trường cũng như thế giới của thể thao và các thứ giải trí ngoài trời. Những điều này tôi cố gắng bù lại vào các dịp nghỉ hè ở nông thôn. Đối với tôi, thành phố là nơi giành cho học tập và đọc sách. Tôi cho những cuộc đánh nhau của bạn bè trong phố là một điều nhục nhã. Mặc dù những lý do để xảy ra điều đó thì không bao giờ thiếu. Học sinh trường Trung học Cổ điển do có khuy mạ bạc và phù hiệu, được gọi là “cá trích bạc”, còn học sinh trường Trung học Hiện đại hai tay áo có nạm đồng màu vàng, bị gọi là “cá trích hun khói”. Ở phố I-am-xcai-a [Iamskaia], trên đường đi học về, tôi bị một anh học sinh trường Cổ điển cao như sếu vườn theo
đuổi một cách kiên trì và gạn hỏi:
- Ở chỗ chú mày, có bao nhiêu tên bị “hun khói”?
Vì tôi không trả lời câu hỏi khách quan ấy, anh ta dùng vai hích tôi.
- Sao anh cứ chòng ghẹo tôi thế? - Tôi nói với anh bằng một giọng lịch sự bắt buộc.
Sững sờ, anh ta suy nghĩ một phút rồi hỏi.
- Mày có súng cao su không?
- Súng cao su? Là cái gì vậy? - Tôi hỏi lại.
Anh sếu vườn “cổ điển” chẳng nói chẳng rằng rút từ trong túi ra một vật nho nhỏ; đó là một sợi cao su buộc giữa hai nhánh của một cái ná bằng gỗ và một viên đạn chì.
- Tao nấp sau cái cửa sổ con trên mái nhà và bắn bồ câu, sau đó đem đi nướng.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh bạn mới. Một việc như thế đối với tôi không phải không thú vị, nhưng tôi thấy nó lạc lõng và không hợp với môi trường thành thị.
Trong số bọn con trai, nhiều đứa chèo thuyền ra biển và buông câu ở đầu ngọn sóng. Tôi hoàn toàn không biết những thú vui ấy. Điều kỳ lạ là hồi đó, biển không chiếm một vị trí nào trong cuộc đời tôi, mặc dầu tôi đã sống bảy năm bên bờ biển. Trong suốt thời gian ấy tôi không đi thuyền bao giờ, không câu cá và chỉ gặp gỡ biển mỗi khi về làng và quay lại. Khi Các-xơn xuất hiện vào ngày thứ hai với cái mũi cháy nắng bị trầy da và khoe đã câu cá ngoài khơi, niềm vui ấy xa lạ và chẳng liên quan gì đến tôi. Vào thời ấy tôi chưa có thú ham mê săn bắn và đi câu.
Ở lớp dự bị tôi chơi khá thân với Cốt-xchi-a [Kostia] R., con một thầy thuốc. Anh ít hơn tôi một tuổi, người cũng thấp hơn, bề ngoài bình thản, kỳ thực anh chính là một tay hài hước láu lỉnh với cặp mắt tinh nhanh. Anh biết tường tận thành phố và tạo được lợi thế đáng kể với tôi về khoản này. Cốt-xchi-a R. không thuộc loại chăm chỉ nhất, còn tôi luôn là một học sinh giỏi ngay từ đầu. Ở nhà, Cốt-xchi-a R. chỉ nói chuyện về người bạn mới của mình. Cuối cùng mẹ anh, một bà người nhỏ quắt, đến đề nghị chị Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na:
- Những cậu bé của chúng ta… - Bà nói. - Có thể học chung với nhau được không?
Sau một cuộc hội ý ngắn mà tôi cũng được tham gia, nhà Spen-xe quyết định đồng ý. Trong vòng hai hoặc ba năm chúng tôi ngồi cùng ghế, cho đến ngày Cốt-xchi-a R. bị lưu ban và vì thế hai đứa xa nhau.
Nhưng quan hệ giữa chúng tôi sau đó vẫn tiếp tục.
Cốt-xchi-a R. có một người chị hơn anh hai tuổi học trong trường Trung học Cổ điển nữ. Chị có những cô bạn gái, những cô này lại có những anh em trai. Các cô gái học nhạc. Bọn con trai quanh quẩn bên bạn gái của các chị mình. Vào những ngày sinh nhật, các bậc cha mẹ mời bọn trẻ. Thế là hình thành một thế giới nhỏ của những cảm tình, những ganh đua, mọi người nhảy van-xơ, tham gia các trò vui, có những ghen tuông và hiềm khích. Gia đình ông A., một thương gia giàu, là trung tâm thế giới nhỏ ấy. Họ sống cùng nhà với bố mẹ Cốt-xchi-a, cùng tầng gác, cả hai căn hộ cùng hướng ra một hành lang, ở đó có những cuộc gặp gỡ tình cờ và không tình cờ. Ở nhà ông A., bầu không khí hoàn toàn khác, không như tôi đã quen ở gia đình Spen-xe. Lúc nào cũng có nhiều con trai và con gái đều là học sinh trung học, họ tán tỉnh nhau cạnh nụ cười bao dung của người mẹ. Trong những cuộc trò chuyện, người ta thường kể tên một người đã phải lòng một người khác nào đó. Về vấn đề này, bản thân tôi luôn tỏ ra kiêu kỳ và như vậy cũng khá giả dối.
- Khi cậu mê cô nào, nhất định phải nói cho mình biết đấy nhé. - Cô chị cả nhà A., một cô gái mười bốn tuổi nói với tôi bằng giọng kẻ cả.
- Có mất gì đâu, tôi có thể hứa được. - Tôi đáp giọng trang trọng với vẻ kiêu kỳ của một đứa bé tự biết giá trị của mình: tôi đã là học sinh năm thứ hai rồi cơ mà.
Chừng hai tuần sau các cô gái làm những hoạt cảnh. Cô trẻ nhất làm hình tượng buổi đêm, trên nền một cái khăn đen lớn được giơ cao lấm tấm những vì sao bạc bằng giấy.
- Cậu xem nó xinh không? - Cô chị cả nói và huých nhẹ tôi bằng cùi tay.
Tôi chỉ nhìn, trong thâm tâm tôi cũng đồng ý thế và đột nhiên quyết định: đã đến lúc phải giữ lời hứa của mình.
Sau đó không lâu cô chị cả tiếp tục tra hỏi tôi:
- Cậu không có gì nói với mình à?
- Trời ơi! - Tôi cụp mắt xuống và trả lời. - Có chứ.
- Ai thế?
Tôi không còn sức để nói ra lời. Cô chị đề nghị tôi chỉ cần nói chữ cái đầu tiên. Như vậy dễ hơn.
Cô chị cả tên là An-na, cô em út là Béc-ta [Berta]. thành thử tôi đã nói không phải chữ đầu mà là chữ thứ hai trong bảng chữ cái (B).
- Bê (B)? - An-na nhắc lại vẻ thất vọng và câu chuyện dừng lại ở đó.
Hôm sau tôi đến nhà Cốt-xchi-a học và cũng như mọi lần, tôi đi qua cái hành lang dài ở tầng ba về hướng sân chơi. Từ bậc nghỉ ở cầu thang, tôi đã thấy hai chị em với bà mẹ ngồi ở hành lang trước cửa nhà họ. Khi chỉ cách nhóm phụ nữ này vài bước, tôi cảm thấy bị đâm chồng chéo bởi những mũi kim trong cái nhìn chế nhạo của họ. Cô em không mỉm cười, ngược lại cô nhìn đi chỗ khác vẻ lạnh lùng kinh khủng. Tức thì tôi hiểu ngay là mình đã bị phản bội. Bà mẹ và cô chị bắt tay tôi với một ý rõ ràng: “Này cậu, giờ thì chúng tôi đã biết sau cái bộ dạng nghiêm túc của cậu là thứ gì rồi”. Cô em chìa bàn tay cho tôi như một mảnh gỗ, không thèm nhìn và không đáp lại cái xiết tay của tôi. Sau đó, tôi còn phải đi một đoạn ngắn nữa trên hành lang rồi quay ngang dưới con mắt hành hạ của hội đàn bà. Trong suốt thời gian ấy, tôi cảm thấy những cái nhìn giết người xuyên vào lưng tôi. Sau cuộc phản bội tai quái ấy, tôi quyết định đoạn tuyệt với đám người xảo quyệt này, không đến nhà họ nữa, quên họ đi, tống họ vĩnh viễn khỏi trái tim tôi. May mà kỳ nghỉ hè sắp bắt đầu đã giúp tôi trong chuyện này.
Giữa chừng, hoàn toàn đột ngột, người ta nhận thấy tôi bị cận thị. Tôi được đưa đến một bác sĩ nhãn khoa, ông kê đơn cho tôi mua kính. Không thể nói rằng tôi buồn phiền vì thế: dù sao đôi kính cũng cho tôi một vẻ quan trọng. Tôi đã tưởng tượng ra trước cái cảnh tôi đeo kính khi trở về I-a-nốp-ca và tôi khoái chí. Nhưng với cha tôi thì cặp kính là một đòn ông không chịu nổi. Ông cho rằng tất cả chỉ là giả vờ, làm điệu và nhất quyết buộc tôi cất kính đi. Tôi cố thuyết phục ông rằng trong lớp tôi không thấy chữ cái trên bảng và tôi không đọc được các bảng treo trên đường phố, nhưng vô ích. Thành thử lúc về I-a-nốp-ca tôi chỉ có thể đeo trộm kính mà thôi.
Tuy nhiên khi về thôn quê, tôi bạo dạn, hiên ngang và tháo vát hơn nhiều. Dường như tôi hất được khỏi vai thứ kỷ luật của phố phưòng. Tôi cưỡi ngựa một mình đến Bô-bri-nhét và trở về ngay trong buổi chiều hôm ấy. Đó là một cuộc thử sức đường dài năm chục cây số. Ở Bô-bri-nhét, tôi đeo kính và không nghi ngờ về ấn tượng gây ra trong phố.
Tại Bô-bri-nhét chỉ có một trường thị trấn cho con trai. Trường Trung học Cổ điển gần nhất ở Ê-li-da-vét-gơ-rát, cách đó chừng năm chục cây số. Nhưng Bô-bri-nhét có một tiền học đường Trung học cho nữ.
Các nữ sinh trường này làm bạn với các cậu con trai trường thị trấn. Nhưng tình thế thay đổi hẳn trong vụ hè. Bọn Trung học Cổ điển và Hiện đại từ Ê-li-da-vét-gơ-rát trở về với đồng phục lộng lẫy, điệu bộ thanh nhã, chúng làm lu mờ lũ học sinh ở Bô-bri-nhét. Mâu thuẫn thật khốc liệt. Bị xúc phạm, bọn con trai trường thị trấn làm thành những tổ xung kích nhỏ và không chỉ dùng đá và gậy gộc, chúng sử dụng cả dao. Một lần, tôi ngồi bình yên trên cành dâu trong vườn một gia đình quen và đang thưởng thức những quả chín thì bị ai đó ném một hòn đá lớn vào đầu. Đây chỉ là một tình tiết nhỏ trong cuộc chiến đấu kéo dài và không loại trừ đổ máu, chỉ dừng lại sau khi các đẳng cấp đặc quyền, đặc lợi ấy đi khỏi Bô-bri-nhét vào
đầu năm học mới.
Ở Ê-li-da-vét-gơ-rát tình hình lại khác: trong suốt năm, học bọn học sinh Cổ điển và Hiện đại chiếm lĩnh đường phố và mọi trái tim. Nhưng khi hè đến bọn sinh viên đại học trở về từ Khác-cốp, Ô-đét-xa và các đô thị xa hơn - nơi có trường đại học - lũ Cổ điển tức khắc bị dồn vào hậu trường. Mâu thuẫn ở đây cũng rất tàn khốc. Không thể tả xiết sự phản trắc của các cô nữ sinh trung học. Nhưng ở đây, theo những luật lệ đã định hình, vũ khí tinh thần được ưu tiên sử dụng hơn.
Ở làng tôi chơi bóng chày, chơi ky, tôi hướng dẫn các trò chơi nhỏ có đặt cuộc và nói những lời khiếm nhã với con gái. Cũng ở đó, tôi tập đi xe đạp trên cái thiết bị hai bánh hoàn toàn do I-van Va-xi-li-ê-vích làm ra. Việc này giúp tôi sau này bạo dạn ra tập ở sân đua xe đạp Ô-đét-xa. Còn hơn thế: ở nông thôn tôi một mình cai quản một con ngựa đực giống thuần chủng, mắc vào xe đua. Thời kỳ đó ở I-a-nốp-ca, người ta đã có những con ngựa đẹp dùng để kéo xe. Tôi mời bác Brốt-xki [Brodsky], vốn làm nghề nấu bia, đi dạo chơi với tôi.
- Nhưng cháu không để lật ngã bác đấy chứ? - Bác hỏi. Brốt-xki là người bản tính không ưa chuyện mạo hiểm.
- Lật làm sao được hả bác! - Tôi nói vẻ phật ý khiến bác thở dài và đành ngồi lên xe sau lưng tôi. Tôi ra khỏi tường rào, vượt qua cái rãnh ra con đường cạnh nhà cối xay mà cơn mưa mùa hè mới xối lên. Con ngựa hồng muốn ra chỗ thoáng đạt, nó bực bội vì phải leo một sườn dốc và chạy ngúng nguẩy.
Tôi căng dây cương, dậm cả hai chân lên phần trước xe và nâng người lên vừa đủ để bác khỏi thấy cảnh tôi níu cả thân hình vào dây cương. Nhưng con ngựa đực cũng thuộc giống tự ái. Nó trẻ hơn tôi ba lần, nó lên bốn còn tôi thì mười ba. Lồng lên với cái xe nhẹ, nó tức tối như một con mèo muốn vứt khỏi cái vỏ đồ hộp bị buộc vào đuôi. Tôi cảm thấy sau lưng, bác Brốt-xki đã thôi hút thuốc, thở dồn dập hơn và chuẩn bị đưa ra một thứ tối hậu thư nào đó. Tôi ngồi lại vững chãi hơn, thả lỏng dây cương và để thêm tự tin, tôi đánh lưỡi theo nhịp xóc của con ngựa giống đang chạy.
- Đừng giỡn chú nhóc ạ! - Tôi nói giọng bề trên với con ngựa khi nó thử chạy nước kiệu và dang rộng khuỷu tay.
Tôi cảm thấy bác tôi đã bình tĩnh trở lại và lại rít thuốc lá. Tôi đã thắng cuộc, mặc dầu tim đập mạnh như nước đua của con ngựa hồng.
Trở lại thành phố, tôi lại cúi đầu khuất phục trước cái ách kỷ luật. Tôi chịu đựng nhưng không phải cố gắng lắm. Các trò chơi và thể thao nhường chỗ cho sách vở và một phần sân khấu. Tôi phục tùng thành phố tuy không tiếp xúc với nó mấy. Đời sống đô thị hầu như trôi qua bên cạnh tôi. Và không phải chỉ bên cạnh tôi. Ngay những kẻ trưởng thành cũng cố gắng không thò đầu ra cửa sổ. Có lẽ Ô-đét-xa là thành phố sen đầm nhất trong nước Nga cảnh binh thời ấy.
Trong thành phố, nhân vật chính là gã thị trưởng có biệt danh Lục-nhị (Dê-li-ô-nưi [Zélionoi] Đệ nhị), cựu chuẩn đô đốc hải quân. Quyền lực vô biên của hắn được phối hợp với một tính khí không gì phanh hãm nổi. Vô số giai thoại về hắn dược những người dân Ô-đét-xa truyền miệng thì thầm với nhau. Ở nước ngoài, trong một nhà in tự do, vào những năm ấy người ta ấn hành cả một tập sách về những chiến tích của cựu chuẩn đô đốc Lục-nhị.
Tôi chỉ thấy hắn một lần từ sau lưng. Và như thế cũng là quá đủ. Gã thị trưởng vươn cả thân hình lên khỏi đội ngũ lính tráng của hắn, tuôn ra bằng một giọng khàn khàn những lời chửi rủa trên khắp đường phố và vung vẩy nắm đấm. Trước mặt hắn, những cảnh binh sắp thành hàng ngũ, tay đặt lên vành mũ và những người tạp dịch cầm mũ trên tay. Sau các bức màn che cửa, thấp thoáng những khuôn mặt hoảng sợ.
Tôi kéo lại dây quàng chiếc túi đeo lưng và rảo bước về nhà.
Khi muốn làm sống lại trong ký ức hình ảnh nước Nga chính thống thời niên thiếu, tôi thấy trước mặt mình cái lưng của gã thị trưởng, thấy nắm đấm của hắn vung vẩy trong không khí và nghe thấy những lời chửi rủa không mấy khi được đưa vào các pho tự điển.