Đời tôi (Tập 1) - Chương 04 - Phần 2
Vài phút sau đến lượt các thầy giáo ra khỏi phòng hội đồng ở bên cạnh, đa số đi vội về lớp họ và chẳng ai để ý đến tôi. Đáp lại lời chào của tôi, Cơ-rư-gI-a-nốp-xki nhăn mặt láu lỉnh như muốn nói: “Cậu dính vào một việc tồi tệ, tiếc cho cậu nhưng chẳng làm được gì.”.
Còn Buốc-nang, khi tôi lễ phép chào ông, ông ta đến sát gần tôi, cúi hẳn người xuống rồi vung tay nói:
- Cậu học sinh đứng đầu năm thứ hai lại là một con quái vật về đạo đức.
Ông dừng lại một giây, phủ lên người tôi một hơi thở không mấy nhẹ nhàng rồi nhắc lại “một con quái vật về đạo đức”. Sau đó ông quay lưng và bỏ đi.
Một chút sau “con cừu” cũng đến chỗ tôi.
- A! Đồ lợn. - May-e nói vẻ thích thú ra mặt. - Rồi chúng ông sẽ cho mày biết tay!
Cực hình bắt đầu kéo dài từ đây. Người ta không cho tôi vào lớp và bỏ buổi dạy ngày hôm ấy. Một cuộc thẩm vấn diễn ra. Buốc-nang, ông hiệu trưởng, May-e, thanh tra Ca-min-xki làm thành một ban điều tra tối cao về vụ “quái vật đạo đức”, là tôi.
Hình như câu chuyện đã bắt đầu như thế này: trong giờ bị phạt lưu, một học sinh đã nói với May-e: “Thật bất công, thưa thầy; người kêu thì được thả ra.”. B. (Brôn-sten) kích động những người khác và anh ta cũng kêu, thế mà được thả ra. “Có Các-xơn ở đây này, cậu ấy cũng biết đấy.”. “Không thể có chuyện ấy.” May-e trả lời. “B. là một đứa ngoan.”.
Nhưng Các-xơn, chính cái thằng hồi xưa đã nói cho tôi biết ông mục sư Bin-ne-man là người thông minh nhất Ô-đét-xa, lại chứng nhận lời của đứa tố giác, và bọn khác cũng làm theo. May-e liền cho mời Buốc-nang. Được các thầy giáo khuyến khích và thúc đẩy từ trên; bắt chước lẫn nhau, có thêm mười, mười hai đứa trong lớp đứng ra tố cáo tôi.
Thế là đột nhiên bọn chúng nhớ lại bao nhiêu thứ: “Năm ngoái trong buổi đi dạo chơi B. đã nói thế này, thế nọ về thầy hiệu trưởng,... B. đã đưa bài cho anh này, anh nọ,... B. cũng tham gia trong bản “hợp tấu” tiễn thầy Dơ-mi-gơ-rốt-xki [Zmigrodsky]...”.
Vác-ke, đứa mà vì nó chúng tôi đã làm tất cả chuyện này, thuật lại rất mùi mẫn như sau.
- Tất nhiên tôi đã khóc khi thầy Gút-xtáp Xa-môi-lô-vích cho tôi điểm “1”. B. sán lại gần, đặt tay lên vai tôi và nói: “Đừng khóc nữa Vác-ke, chúng ta sẽ viết một lá thư lên ông thanh tra để ông ấy tống cổ Buốc-nang đi.”.
- Một lá thư, cho ai cơ?
- Cho ông thanh tra!
- Không thể thế được! Thế mày trả lời ra sao?
- Dĩ nhiên tôi không nói gì hết.
Đa-nhi-lốp còn bồi thêm:
- Vâng, vâng, B. đã đề nghị chúng tôi viết một lá thư lên ông trưởng phòng giáo dục huyện, nhưng không ký tên vào đó để khỏi bị đuổi học; mỗi người chỉ viết một chữ cái vào lá thư thôi.
- Ra là vậy. - Buốc-nang nuốt nước bọt la lên. - Nghĩa là mỗi đứa chúng mày viết một chữ cái để kết lại thành một từ!
Không trừ một ai, tất cả đều bị thẩm vấn. Một số đứa chối thẳng thừng, bất luận phải trái. Trong số này có Cốt-xchi-a R., anh khóc cay đắng khi thấy người ta dìm chết bạn tốt nhất của anh, một học sinh đứng đầu lớp. Những người phủ nhận ngoan cố bị bọn tố giác bôi xấu, chúng bảo họ là bạn thân thiết của tôi. Bầu không khí trầm lắng bao trùm lên lớp học. Đa số co mình lại im lặng. Trong vụ này Đa-nhi-lốp đóng vai trò số một, điều đã và cũng sẽ không xảy ra với hắn bao giờ. Tôi đứng sững ở hành lang trước phòng ông hiệu trưởng, cạnh một chiếc tủ đánh véc-ni vàng, như một kẻ tội nhân trầm trọng, bị buộc tội chống lại nhà nước. Lần lượt, những nhân chứng được gọi lên phòng hiệu trưởng để đối chất với bị cáo. Cuối cùng tôi bị tống về nhà.
- Anh về đi và bảo bố mẹ anh đến trường.
- Cha mẹ tôi ở xa, tận nhà quê cơ.
- Thế thì bảo những người bảo lãnh anh đến đây.
Mới hôm qua tôi là người đứng đầu lớp, vượt xa kẻ thứ hai. Những nghi ngờ của May-e cũng không hề đụng chạm đến tôi. Thế mà hôm nay tôi bị xô từ đỉnh cao xuống, còn Đa-nhi-lốp, kẻ mà ai cũng biết là đứa lười biếng và hư hỏng nổi tiếng, lại lăng mạ tôi trước cả lớp và ban lãnh đạo nhà trường.
Vậy việc gì đã xảy ra? Có lẽ vì tôi đã quá cương quyết bảo vệ một kẻ bị áp bức, người chẳng gần gũi gì với tôi và bản thân cậu ta cũng chẳng gợi cho tôi tí chút tình cảm nào? Hay vì tôi quá tin vào sự đoàn kết trong lớp học?
Dĩ nhiên, việc rút ra những kết luận kể trên là điều tôi không mấy nghĩ đến trên đường về qua phố nhỏ Pố-crốp-xki. Mặt mày ủ dột, tim đập lộn xộn, nghẹn ngào trong tiếng khóc, tôi kể lại việc đã xảy ra: những người bảo lãnh ra sức an ủi tôi, dù chính họ cũng phát hoảng. Chị Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na đến tìm gặp ông hiệu trưởng, ông thanh tra Cơ-rư-gI-a-nốp-xki, ông Iu-rơ-sen-cô, chị cố giải thích, thuyết phục, dựa vào cả kinh nghiệm giáo dục của bản thân chị.
Chị làm tất cả những việc đó mà tôi không biết. Tôi ngồi nhà trong góc học tập của mình, chiếc cặp đeo vai của tôi được khóa lại, lăn lóc trên bàn và tôi ngao ngán. Sẽ ra sao đây?
Ông hiệu trưởng nói: chúng tôi sẽ triệu tập Hội đồng Giáo dục để xem xét mọi mặt về vấn đề này. Câu nói thật dễ sợ.
Phiên họp trôi qua. Môi-xây Phi-líp-pô-vích đi xem kết quả. Tôi bồn chồn, hồi hộp chờ anh về, hơn nhiều so với những lần sau này khi chờ phán quyết của tòa án Nga hoàng. Tôi nghe tiếng kẹt thường ngày của cửa ra vào dưới nhà, tiếng những bước chân quen thuộc leo lên bậc thang sắt, cửa phòng ăn mở ra và cùng lúc ấy chị Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na cũng xuất hiện ở buồng bên. Tôi vén nhẹ tám màn che.
- Bị đuổi học. - Môi-xây Phi-líp-pô-vích nói, giọng rất mệt mỏi.
- Bị đuổi? - Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na nghẹn ngào hỏi lại.
- Ừ, bị đuổi. - Môi-xây Phi-líp-pô-vích nhắc lại, giọng còn nhỏ hơn.
Tôi không nói gì chỉ đưa mắt nhìn Môi-xây Phi-líp-pô-vích và chị Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na rồi rút Lu-i sau tấm màn che.
Trong kỳ nghỉ hè, Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na về ít bữa tại nhà chúng tôi ở I-a-nốp-ca, chị kể về tôi:
- Khi nghe nói từ ấy, cậu ta xanh mét cả người khiến tôi cũng phát hoảng.
Tôi không khóc, tôi đau khổ vì bị hành hạ.
Trong phiên họp của Hội đồng Giáo dục, người ta tranh luận về ba hình thức đuổi học: đuổi và cấm không được vào học bất cứ một trường nào khác, đuổi vĩnh viễn khỏi trường Trung học Hiện đại Xanh Pôn, hoặc đuổi nhưng tôi được quyền trở lại học trường cũ. Hình thức thứ ba nhẹ nhàng nhất được quyết định.
Tôi run rẩy nghĩ đến việc cha mẹ tôi sẽ tiếp nhận tin này như thế nào. Những người bảo lãnh tôi tìm mọi cách để chuẩn bị cho cha mẹ tôi tiếp nhận cú đòn này và giảm nhẹ nó. Phan-ni Xô-lô-mô-nốp-na viết một lá thư dài cho chị cả tôi, chị dặn dò về cách báo tin cho cha mẹ tôi. Tôi ở lại Ô-đét-xa cho đến cuối năm học và trở về nhà vào kỳ nghỉ hè như thường lệ.
Trong những đêm dài, khi cha mẹ tôi đã đi ngủ, tôi kể cho anh chị tôi sự việc đã diễn ra như thế nào, tôi sắm lại vai các thầy và các học trò. Anh và chị tôi còn những kỷ niệm rất mới mẻ về đời học sinh của họ. Cùng lúc đó, họ xem xét tôi dưới cái nhìn của người hơn tuổi, khi lắc đầu, khi thì cười phá lên vì những điều tôi kể. Một hôm đang cười, chị tôi chuyển sang khóc, gục đầu xuống bàn và nức nở hồi lâu. Họ quyết định là tôi sẽ tạm lánh ở nhà một người bạn nào đó một, hai tuần và trong khi tôi đi vắng, chị tôi sẽ thuật lại tất cả cho cha tôi nghe. Bản thân chị cũng sợ phải làm nhiệm vụ đó. Sau thất bại trong chuyện học hành của anh cả tôi, cha đặt hết kỳ vọng vào tôi. Những năm học đầu cũng hứa hẹn một thành công rực rỡ và bây giờ, tất cả biến thành mây khói trong phút chốc...
Một tuần sau, khi cùng anh bạn Gri-sa [Gricha] (chính là cháu của ông Môi-xây Kha-ri-tô-nô-vích, người có bàn tay trái “thích hợp cho cả việc hòa tấu nhạc”) trở về nhà, tôi hiểu ngay là mọi người đã biết hết. Mẹ tôi vồn vã tiếp đón Gri-sa, nhưng làm ra vẻ không để ý đến tôi. Trái lại, cha tôi xử sự như chẳng có chuyện gì xảy ra. Chỉ vài hôm sau, trong một ngày nóng bức, khi đi làm đồng về và ngồi hóng mát ở cửa ra vào, ông đột nhiên hỏi tôi trước mặt mẹ:
- Nói cho bố biết, con đã huýt sáo vào ông hiệu trưởng như thế nào? Thế này phải không? Hai ngón tay đút vào miệng?
Ông làm cử chỉ huýt sao và bật cười.
Mẹ tôi ngạc nhiên và nhìn cả hai người, từ cha sang tôi. Nụ cười trên gương mặt bà xen lẫn vẻ bất bình: làm sao có thể bông đùa về những chuyện kinh khủng như thế?
Nhưng cha tôi vẫn tiếp tục gạn hỏi:
- Chỉ cho cha thấy con đã huýt sáo như thế nào?
Và càng ngày ông càng cười vui vẻ. Dù buồn bực đến mấy, rõ ràng ông thấy thích đứa con của ông, dù đứng đầu lớp, vẫn dám cả gan huýt sáo những ông sếp cấp bậc cao. Tôi quả quyết với ông là chúng tôi không huýt sáo mà chỉ rì rầm vô hại thôi, nhưng không sao thuyết phục được ông. Cha tôi nhất định cho là tôi đã huýt sáo. Cuối cùng mẹ tôi òa khóc.
Suốt vụ hè tôi hầu như không chuẩn bị gì cho kỳ thi. Những việc xảy ra đã làm tôi chán học một thời gian. Với tôi đây là một mùa hè bực dọc, cáu tiết, những cuộc cãi lộn nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi về lại Ô-đét-xa hai tuần trước khi thi, nhưng ở đó tôi cũng chỉ học hành uể oải. Có lẽ tôi chuẩn bị môn tiếng Pháp kỹ hơn. Nhưng trong kỳ thi Buốc-nang chỉ hỏi tôi vài câu qua loa. Các thầy khác còn hỏi ít hơn. Tôi được vào năm thứ ba. Ở đó tôi gặp lại hầu hết mọi người: những kẻ đã phản bội tôi, bảo vệ tôi hoặc đứng tránh ra một bên. Điều này quyết định những mối quan hệ của tôi trong một thời gian dài. Tôi đã không nói chuyện với nhiều kẻ, cả chào hỏi cũng không, ngược lại đối với những người đã đứng cạnh tôi trong giờ phút khó khăn, tôi càng trở nên thân thiết hơn.
Có thể nói rằng đó là một thứ thử thách chính trị đầu tiên đối với tôi. Những nhóm người đã hình thành trong tình huống ấy: bọn phản bội và ghen ghét một bên, những người trung thực và dũng cảm ở cực bên kia và bọn trung lập ở giữa, chúng dao động và không có lập trường ổn định. Trong những năm tiếp theo, ba nhóm ấy vẫn tồn tại, tôi còn gặp lại chúng nhiều lần trong những hoàn cảnh khác nhau.
Người ta chưa quét hết tuyết trên các đường phố, nhưng trời đã ấm lên. Các mái nhà, hàng cây và lũ chim sẻ cho thấy xuân đã về. Cậu học sinh năm thứ tư đi học về, trái với lệ thường, cậu cầm một sợi dây da của chiếc cặp trong tay vì chiếc khóa đã bị tung ra. Cậu cảm thấy chiếc áo dài trên mình thật vô ích và nặng nề, nó làm cậu toát hết mồ hôi. Cậu bé nhìn mọi vật xung quanh - và trước hết là bản thân cậu - bằng một cặp mắt khác hẳn. Tia nắng đầu xuân cho cậu biết có những thực tế hùng vĩ gấp bội so với một trường học, với ông thanh tra, với chiếc cặp buộc lơi lỏng trên vai, hơn những bài học, những ván cờ, những bữa trưa, hơn cả đọc sách và nhà hát và cuối cùng, hơn cả đời sống thường ngày. Nỗi lo nghĩ về những thứ xa lạ, những thế lực không cưỡng được trùm lên mọi cá nhân, xoáy vào đứa bé đến tận xương tủy và gợi cho nó nỗi đau ngọt ngào, âm dịu của sự bất lực.
Cậu ta về đến nhà, đầu óc quay cuồng, khúc nhạc đau đớn vang động trong tai, nó ném chiếc cặp lên bàn, nằm xoài ra giường, vùi đầu vào chiếc gối và bật lên khóc mà không hề biết. Để tìm nguyên cớ cho những giọt nước mắt của mình, cậu nhớ lại những cảnh buồn bã trong các bài tập đọc và trong chính đời nó, và cứ như bỏ thêm củi vào lò, cậu khóc, khóc mãi bằng những giọt nước mắt lo âu của tuổi xuân. Nó sắp tròn mười bốn tuổi.
Từ thời thơ ấu, đứa bé đã bị một bệnh mà các thầy thuốc trong những hồ sơ chính thức gọi là bệnh viêm niêm mạc dạ dày và ruột mãn tính. Căn bệnh ấy cứ ngấm ngầm hành hạ cậu suốt đời. Cậu bé thường xuyên phải uống thuốc và ăn theo chế độ. Những chấn động thần kinh hầu như bao giờ cũng tác động trở lại bộ máy tiêu hóa của nó. Vào năm thứ tư, căn bệnh nặng đến mức cậu không thể tiếp tục việc học hành. Sau một thời gian dài chữa trị nhưng vô hiệu, các thầy thuốc quyết định cho thằng bé về ở nông thôn.
Trong những giờ phút ấy, tôi đã chấp nhận quyết định của các bác sĩ với một nỗi vui mừng hơn là phiền muộn. Nhưng còn phải được sự đồng ý của cha mẹ tôi. Và còn phải tìm được một gia sư ở làng để khỏi mất một năm học. Điều này gây nên những tốn kém mà ở I-a-nốp-ca thì mọi người không ưa những sự tiêu pha tốn kém. Tuy nhiên nhờ Môi-xây Phi-líp-pô-vích, công việc được sắp xếp ổn thỏa. Người ta tìm được một thầy phụ đạo: ông G., người bé nhỏ, mớ tóc dày bắt đầu hoa râm ở hai thái dương, vốn là một sinh viên đại học. Đó là một người hơi tự phụ, hơi lông bông, ba hoa và không có tính khí, thuộc loại người rủi ro chỉ mới có nửa học vấn đại học. Ông làm thơ và đã in được hai bài trên một tờ báo ở Ô-đét-xa. Lúc nào ông cũng đem hai số báo ấy bên mình và sẵn sàng đưa ra khoe.
Mối quan hệ của chúng tôi đầy sóng gió và xuống dốc thường xuyên. Ban đầu, G. ngày càng suồng sã với tôi, ông luôn nhấn mạnh chỉ muốn là bạn tôi. Nhằm mục đích ấy, ông chìa tôi xem tấm hình một cô Cláp-đi-a [Klavdia] nào đó và nói về mối quan hệ phức tạp của ông với cô này. Rồi đột nhiên ông tháo Lu-i và đòi hỏi ở tôi sự kính trọng của học trò đối với thầy giáo. Tất cả mớ bòng bong ấy có một kết cục chẳng ra sao: chúng tôi cãi vã ồn ào rồi đoạn tuyệt vĩnh viễn. Nhưng hình ảnh ông gia sư cũng để lại những dấu ấn trong tôi: dù sao một người tóc đã hoa râm lại thổ lộ với tôi chuyện kín phức tạp về quan hệ của ông với một phụ nữ, người nhìn trong ảnh rất hấp dẫn. Tôi cảm thấy mình già dặn hơn từ dạo đó.
Ở các lớp trên, thầy Ga-mốp [Gamov] dạy môn văn thay thầy Cơ-rư-gI-a-nốp-xki. Đó là một người còn trẻ, tóc vàng hoe, mũm mĩm, cận thị nặng và ốm yếu, ông chẳng cảm thấy một chút hứng thú hay yêu mến gì với bộ môn của mình. Chúng tôi uể oải bước thấp bước cao theo ông từ chương này sang chương khác của cuốn sách giáo khoa. Thêm vào đấy, Ga-mốp không tận tâm mấy, ông kéo dài đến vô tận việc chấm bài cho chúng tôi. Năm thứ năm chúng tôi phải làm bốn bài luận ở nhà trong một học kỳ. Tôi ngày càng ham thích loại bài này. Không chỉ đọc những sách tham khảo được thầy giáo hướng dẫn, tôi còn đọc rất nhiều cuốn khác, ghi lại những số liệu, những sự kiện để trích dẫn, tôi đánh dấu và biến hóa những câu văn tôi thích, tóm lại tôi học với tinh thần hăng hái không phải bao giờ cũng dừng lại ở mức “đạo văn” vô tội. Có mấy học sinh cũng như tôi, không coi bài luận là công việc khổ sai. Những học sinh năm thứ năm hồi hộp chờ sự phán xét bài vở của mình: người lo lắng, kẻ hi vọng. Nhưng “quan tòa” không lên tiếng. Điều này cũng xảy ra ở tam cá nguyệt thứ hai. Đến tam cá nguyệt thứ ba, tôi nộp một quyển vở chứa đầy các bài luận. Một, hai, rồi ba tuần trôi qua. Không một chút tăm hơi. Bằng lời lẽ thận trọng, chúng tôi nhắc Ga-mốp. Ông thoái thác. Đến giờ sau I-a-blô-nốp-xki [Iablonovsky], một trong những tác giả sốt sắng nhất, hỏi thẳng thừng Ga-mốp:
- Thầy giải thích ra sao về việc chúng em không được biết kết quả bài tập và thực sự điều gì đã xảy ra với những cuốn vở ấy?
Ga-mốp thô bạo ngắt lời anh. I-a-blô-nốp-xki không chịu lùi bước. Nhíu đôi lông mày vốn dĩ đã sát nhau trên sống mũi, anh nóng nảy lay lay nắp bàn và cao giọng rằng không thể làm như thế được.
- Tôi khuyên anh im đi và ngồi xuống. - Ga-mốp trả lời. Nhưng I-a-blô-nốp-xki không ngồi xuống và cũng không im lặng.
- Mời anh ra khỏi lớp. - Ga-mốp quát lên.
Quan hệ của tôi với I-a-blô-nốp-xki đã xấu đi từ lâu. Chuyện xảy ra giữa tôi với ông Buốc-nang hồi năm thứ hai làm tôi thận trọng hơn. Nhưng lần này tôi vẫn cảm thấy không thể im lặng được và tôi tuyên bố:
- Thưa thầy An-tôn Mi-khai-lô-vích [Anton Mikhailovitch], bạn I-a-blô-nốp-xki nói đúng và tất cả chúng em ủng hộ bạn ấy...
- Đúng, đúng thế. - Vài người khác cũng nói.
Ga-mốp bắt đầu bối rối rồi nổi giận:
- Thế này là thế nào? - Ông gào lên lạc cả tiếng. - Bản thân tôi cũng biết phải làm gì và vào khi nào... Các anh không được ra lệnh cho tôi... Các anh phá rối trật tự...
Chúng tôi đã đánh trúng vào điểm yếu của ông.
- Chúng tôi muốn được thấy bài luận của mình, có thế thôi. - Một người thứ ba đứng lên nói.
Ga-mốp không tự kiềm chế được nữa.
- I-a-blô-nốp-xki, ra khỏi lớp!
I-a-blô-nốp-xki không nhúc nhích.
- Đi, đi thôi! Còn đợi gì nữa? - Người ta thì thào với anh từ mọi phía.
Nhún vai, đảo lòng trắng mắt trên khuôn mặt rám nâu, I-a-blô-nốp-xki giẫm mạnh chân lên sàn, cậu ra khỏi lớp và sập cửa thật mạnh
Đầu giờ học sau, Ca-min-xki lặng lẽ vào lớp, vẫn trên đôi giày đế cao su. Điều này không báo hiệu chút gì tốt lành. Cả lớp im lặng như ri. Bằng một giọng kim hơi rè như của một kẻ vừa qua cơn say rượu, ông hiệu trưởng cất lời cảnh cáo ngắn gọn nhưng vô cùng nghiêm khắc trước toàn lớp: ông dọa đuổi những kẻ phạm tội rồi thông báo các mức trừng phạt: I-a-blô-nốp-xki nhận hai mươi tư giờ giam cấm cố và hạnh kiểm “3”, tôi bị hai mươi tư giờ cấm cố, kẻ phản kháng thứ ba nhận mười hai giờ. Đó là đòn ngáng thứ hai trên con đường học hành của tôi. Lần này, vụ việc không có những hậu quả nghiêm trọng hơn. Ga-mốp không trả bài cho chúng tôi và mọi việc kết thúc như thế.
Cũng trong năm đó Nga hoàng mất. Sự việc có vẻ khủng khiếp gần như không thể tin được, nhưng cũng xa vời như một cơn động đất ở một xứ sở xa lạ. Tôi không thấy thương tiếc và cảm tình với vị Nga hoàng ốm yếu đó, chúng tôi cũng chẳng buồn bã vì cái chết của ông. Ngày hôm sau khi đến trường, tôi cảm thấy một nỗi kinh hãi, khiếp đảm không giải thích nổi ở đó.
- Nga hoàng đã mất. - Lũ học sinh nói với nhau và không biết nói gì thêm, không tìm được lời lẽ để biểu lộ tình cảm vì chúng cũng không biết thứ tình cảm ấy là gì.
Ngược lại, chúng biết chúng được nghỉ học và mừng rỡ ngấm ngầm trong lòng, nhất là những đứa không chuẩn bị bài hoặc sợ bị gọi lên bảng. Ông gác cổng hướng tất cả mọi người về phía hội trường lớn, ở đó đang chuẩn bị tang lễ. Một cha cố đeo kính gọng vàng buông vài lời ngắn gọn thích hợp với hoàn cảnh: con cái buồn rầu khi cha chúng mới mất: nỗi đau còn lớn hơn bao nhiêu khi người cha của cả một dân tộc ra đi.
Nhưng chúng tôi chẳng thấy buồn gì cả. Nghi lễ kéo dài. Mỏi mệt và chán ngắt. Mọi người được lệnh phải khâu một mảnh băng tang lên cánh tay áo trái và một mảnh nữa lên vành mũ cát-két. Ngoài ra, mọi việc vẫn tiếp diễn như thường lệ.
Ở năm thứ năm các học sinh đã bắt đầu bàn bạc về việc lựa chọn những trường cao hơn và con đường theo đuổi sau này. Người ta nói nhiều về kỳ tuyển sinh, về các giáo sư đại học Pê-téc-bua tìm cách đánh hỏng thí sinh như thế nào, họ ra đề hóc búa ra sao và ai là những chuyên gia ở Pê-téc-bua giúp việc chuẩn bị thi cử cho các thí sinh. Trong số học sinh đàn anh, một số hàng năm vẫn lên Pê-téc-bua, vẫn hỏng thi, vẫn về chuẩn bị lại rồi lại lao đầu vào thử thách. Chỉ riêng ý nghĩ về các kỳ thi tương lai đã làm không ít kẻ lạnh gáy từ hai năm trước đó.
Không có sự cố gì đặc biệt trong năm thứ sáu. Ai cũng muốn kết thúc năm học càng nhanh càng tốt. Buổi thi tốt nghiệp diễn ra rất long trọng, trong phòng lớn, với sự tham gia của các giáo sư đại học được phòng giáo dục quận gửi đến. Mỗi lần như thế ông hiệu trưởng lại trịnh trọng mở phong bì do ngài trưởng phòng giáo dục gửi đến, trong đó có bài thi viết. Sau khi đề thi được đọc lên, chúng tôi đồng thanh thở dài vì khiếp đảm như thể cả lũ bị dìm xuống nước lạnh. Thần kinh căng thẳng đến mức mọi người cảm thấy hoàn toàn không giải nổi các bài tập. Nhưng rồi chúng tôi thấy mọi thứ cũng chẳng đến nỗi kinh khủng lắm. Khi hai giờ làm bài gần kết thúc, các thầy giáo giúp chúng tôi đánh lừa sự cảnh giác của những vị đại diện. Làm bài xong tôi không nộp mà ngồi rốn lại trong phòng thi, được sự chấp thuận ngầm của thanh tra Cơ-rư-gI-a-nốp-xki, tôi trao đổi thư từ sôi nổi với các bạn đang còn trầy trật với bài vở.
Lớp bảy được coi là lớp phụ. Trường Xanh Pôn vốn không có lớp bảy, thành thử phải đăng ký học một trường khác. Trong khoảng thời gian chờ đợi, chúng tôi là những “công dân” tự do. Nhân dịp này, ai nấy đều sắm một bộ thường phục. Hôm phát chứng chỉ tốt nghiệp, chúng tôi tập trung thành một nhóm đông tại vườn mùa hè, nơi các nữ ca sĩ tạp kỹ hát trên bục, học sinh vốn bị cấm ngặt vào đây. Tất cả đều thắt cà vạt, hai chai bia được đặt trên bàn và chúng tôi phì phèo thuốc lá trong miệng. Ai nấy thầm cảm thấy lo lắng về sự liều lĩnh của mình.
Chúng tôi vừa mở chai bia thứ nhất thì thầy giám thị Vin-hem [Wilhelm] xuất hiện bên bàn, ông có biệt danh “con dê cái” vì giọng nói eo éo. Theo bản năng chúng tôi toan đứng dậy và cảm thấy tim hơi thắt lại. Nhưng không có gì đáng sợ.
- À, thì ra các anh đã ở đây rồi... - Vin-hem nói giọng đượm buồn và hào hiệp chìa tay bắt từng người. Anh K. nhiều tuổi nhất trong số chúng tôi - người có một chiếc nhẫn ở ngón tay út - thẳng thắn mời ông cạn chén với chúng tôi. Điều này đã hơi quá. Vin-hem nghiêm túc từ chối lời mời, ông vội vã chào chúng tôi và lại đi lùng sục các học sinh khác vi phạm khu vườn cấm. Càng yên tâm hơn bao giờ hết, chúng tôi lao vào uống bia.
Bảy năm tôi sống trong trường Hiện Đại, kể cả năm dự bị, không thiếu những niềm vui, nhưng rõ ràng niềm vui ít hơn những tủi hờn. Những kỷ niệm thời học sinh của tôi, dù không phải hoàn toàn màu đen, nhưng cũng nhuốm màu xám. Đứng ngoài mọi sự cố của trường học, nặng nề hay vui vẻ, chúng tôi cảm thấy sự thờ ơ lạnh nhạt và hệ thống hành chính hình thức đè nặng lên mình. Khó nhắc được tên một thầy giáo nào mà tôi thực sự hồi tưởng lại với lòng yêu quý. Mặc dù trường tôi không thuộc loại tồi nhất. Dẫu sao, trường vẫn dạy cho tôi những kiến thức sơ đẳng, thói quen làm việc có phương pháp và khiến tôi tuân thủ kỷ luật bên trong. Sau này, những thứ ấy trở nên cần thiết đối với tôi. Cùng lúc đó, trái hẳn với mục đích được đề ra, nhà trường đã gieo trong tôi sự căm thù đối với thể chế hiện hành. Dù sao những hạt giống ấy cũng không rơi vào sỏi đá.