Đời tôi (Tập 1) - Chương 05 - Phần 1
CHƯƠNG V: NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
Tôi không rời khỏi làng trong chín năm đầu của cuộc đời mình. Bảy năm tiếp theo, tôi về làng mỗi vụ hè, đôi khi cả vào dịp lễ Giáng sinh và Phục sinh. Cho đến năm gần mười tám tuổi, tôi gắn bó mật thiết với I-a-nốp-ca và với tất cả những gì xung quanh nó. Trong những năm đầu của thời thơ ấu, làng quê có ảnh hưởng hết sức lớn lao đối với tôi. Giai đoạn tiếp theo, ảnh hưởng đó bị cạnh tranh bởi tác động của thành phố và nó đã phải nhường bước trên toàn trận tuyến.
Nông thôn cho tôi kiến thức về nông nghiệp, về máy xay, máy bó lúa của Mỹ. Nó đưa tôi gần gũi với những nông dân người trong vùng đến xay thuê và cả những người từ các tỉnh thuộc chính phủ U-cơ-rai-na đến kiếm ăn với một cái liềm và bị vắt vai. Sau này, nhiều điều trong cuộc sống thôn dã bị lãng quên, mờ nhạt trong ký ức tôi, nhưng ở mỗi bước ngoặt mới của cuộc đời chúng lại xuất hiện và giúp tôi trong việc này, việc khác.
Trong môi trường tự nhiên của nó, nông thôn cho tôi thấy những điển hình của tầng lớp quý tộc bại sản hay của sự đầu cơ tư bản đang lên. Nó bộc lộ cho tôi khá nhiều biểu hiện của mối quan hệ giữa người với người trong cái thô thiển tự nhiên của những mối quan hệ ấy. Do vậy tôi cảm nhận thấm thía hơn một thứ văn hóa khác, cao hơn nhưng cũng chứa đựng lắm mâu thuẫn hơn là văn hóa đô thị.
Ngay từ các vụ nghỉ hè đầu, đã có sự đối chiếu thành thị và nông thôn trong nhận thức của tôi. Tôi trở về nhà với một nỗi hăm hở vô biên. Tim tôi như nhảy lên vì vui mừng. Tôi mong gặp lại tất cả mọi người và khoe mình với họ. Cha tôi đón tôi ở Nô-vưi Bu-gơ. Tôi cho ông xem tất cả những điểm “5” của mình và giảng giải với ông: từ giờ trở đi tôi đã là học sinh lớp một, tôi rất cần một bộ đồng phục lễ hội.
Chúng tôi đi ban đêm bằng xe hòm, một anh thư ký trẻ làm nhiệm vụ đánh xe. Trong thảo nguyên, nhất là ven bờ thung lũng, không khí lạnh và ẩm ướt trùm lên người, thành thử tôi được trùm trong một chiếc áo choàng dạ lớn. Say sưa vì thay đổi chỗ ở, vì đi đường, vì những kỷ niệm và cảm tưởng, càng ngày tôi càng kể không biết mệt về học đường, về những buổi đi tắm, về cậu bạn Cốt-xchi-a R. của tôi, về nhà hát. Không ngừng một phút, tôi kể từ đầu đến cuối, trước tiên là chuyện Na-da Xtô-đô-li-a, rồi đến Anh bạn cùng nhà thổi kèn lệnh. Cha tôi lắng nghe, thỉnh thoảng thiếp đi rồi lại choàng dậy và cười thỏa mãn. Anh thư ký trẻ lâu lâu quay đầu lại và nhìn ông chủ: “Chà, câu chuyện thật hay!”.
Tờ mờ sáng tôi thiếp đi và chỉ thức dậy khi đến I-a-nốp-ca. Tôi thấy căn nhà nhỏ kinh khủng, bánh mì nhà quê thì màu xám. Tất cả lối sống nông thôn với tôi vừa thân thuộc vừa xa lạ. Tôi cũng kể cho mẹ và các chị em tôi về sân khấu, nhưng đã không nồng nhiệt như hồi đêm với cha tôi. Trong xưởng tôi gặp Vi-chi-a và Đa-vít, họ thay đổi đến mức tôi gần như không nhận ra: cả hai đều lớn lên nhiều và vạm vỡ. Nhưng họ cũng nhìn tôi với con mắt khác. Họ thưa “anh” với tôi ngay. Tôi phản đối.
-
Làm sao có thể khác được? - Anh chàng Đa-vít rám nắng, gầy gò và trầm tĩnh đáp
lại. - Anh đã là người có học thức.
Trong thời gian tôi đi vắng, I-van Va-xi-li-ê-vích đã lấy vợ. Nhà bếp của kẻ ăn
những người ở nằm cạnh xưởng, được sửa thành căn hộ cho anh; nhà bếp chuyển vào
một nhà mới, tường đất, ngay sau xưởng.
Tuy nhiên không phải chỉ có thế. Đột nhiên tôi cảm thấy một bức tường dựng lên
giữa tôi và những gì đã đánh dấu thời thơ ấu của tôi. Mọi thứ đều như thế nhưng
cũng không phải như thế nữa. Người và vật hình như đã bị thay thế. Tất nhiên
trong vòng một năm, những thay đổi này khác đã xảy ra. Nhưng cái chính là cách
nhìn của tôi đã thay đổi. Ngay từ lần thăm nhà đầu tiên, một thứ xa cách đã
diễn ra giữa tôi và gia đình: thoạt đầu trong những việc nhỏ nhặt rồi với năm
tháng, nó trở nên nghiêm trọng và sâu sắc hơn.
Ảnh hưởng kép của thành thị và nông thôn đã tác động đến cả thời kỳ đi học của
tôi. Ở thành phố, tôi cư xử tự tin hơn hẳn mọi người: trừ một vài xung đột hiếm
hoi, nhưng dữ dội như với ông “người Pháp”, hoặc với thầy dạy văn và ngôn ngữ,
tôi tiến bước khá đều đặn, tuân thủ dây cương kỷ luật của gia đình và nhà
trường. Nguyên nhân điều này tôi thấy một phần nằm ở tập quán sống của gia đình
Spen-xe, nơi những mối quan hệ cá nhân được tạo dựng trên các yêu cầu hợp lý và
những tiêu chuẩn tương đối cao; phần khác trong guồng sống đô thị. Nói đúng ra,
những mâu thuẫn của thành thị không nhỏ hơn chút nào so với mâu thuẫn ở nông
thôn, ngược lại thậm chí còn lớn hơn; nhưng ở thành phố chúng được che đậy, sắp
xếp, quy chế hóa hơn nhiều. Những người thuộc các giai cấp xã hội khác biệt chỉ
tiếp xúc với nhau trong các vụ việc làm ăn, ngoài ra họ dường như không tồn tại
đối với nhau. Ngược lại ở nông thôn, mỗi người buộc phải sống dưới con mắt
những người khác. Mối lệ thuộc của người này vào người khác cũng hiển hiện rõ
ràng như chiếc lò xo trồi lên khỏi tấm đệm ghế cũ. Ở làng, tính tôi
không điềm đạm mà hay sinh sự hơn rất nhiều. Ngay cả với chị Phan-ni
Xô-lô-mô-nốp-na khi chị về nhà tôi chơi, mỗi khi chị thận trọng đứng về phía mẹ
hoặc chị tôi, tôi cũng hay gây gổ và tỏ ra hỗn láo với chị mặc dù ở thành phố
quan hệ giữa tôi với chị chẳng những tốt mà còn đầy tình thương mến. Những cuộc
đụng độ đôi khi chẳng bắt nguồn từ đâu, nhưng lắm lúc chúng bị gây ra bởi những
việc nghiêm trọng hơn.
Mặc bộ quần áo mới giặt, thắt lưng da có khóa đồng, đội mũ cát-két gắn một huy
hiệu vàng lấp lánh dưới nắng, tôi hoàn toàn choáng lộn. Phải phô điều này cho
mọi người được biết chứ! Tôi cùng cha đi xe ra đồng vào thời cao điểm của vụ
gặt mùa thu. Anh thợ cả Ác-khíp [Arkhip] hay càu nhàu nhưng hiền hậu đi đầu lên
một đỉnh đồi, theo sau anh là mười một thợ gặt và mười hai chị bó lúa. Mười hai
cái liềm cắt lúa và bầu không khí bị hun đốt. Khi làm việc, Ác-khíp vận chiếc
quần đơm một khuy sừng, các chị xếp lúa mặc váy rách hoặc áo sơ mi bằng vải
mộc. Từ xa, nghe tiếng lưỡi hái mà tưởng như tiếng bầu không khí nóng rung
rung.
- Đưa đây cho tôi. - Cha tôi nói. - Để xem rạ
mùa đông như thế nào...
Ông đón lưỡi hái từ tay Ác-khíp và thế vào chỗ anh. Tôi nhìn ông hồi hộp. Động
tác của cha tôi đơn giản, quen thuộc, dường như ông không làm việc mà chỉ chuẩn
bị làm; bước chân ông nhẹ nhàng thăm dò như thể ông tìm nơi để có thể ra tay.
Ông sử dụng lưỡi hái trong tay một cách đơn giản, hoàn toàn không hăm hở, thoạt
nhìn có thể cho rằng ông chưa được chắc tay lắm, nhưng nhát cắt rất thấp, rất
bằng - ông tiện đứt và thuận tay hất sang trái những gì đã bị hớt thành một dải
liên tục.
Ác-khíp liếc nhìn cảnh đó và có thể thấy rằng anh tán thưởng công việc của cha
tôi. Những kẻ còn lại nhìn theo nhiều cách: người thì thân thiện - thấy chưa,
ông chủ thạo việc; kẻ khác lạnh lẽo - gặt cho mình mà lại, hèn gì, với cả cũng
chỉ là làm mẫu thôi.
Có thể tôi chưa diễn đạt được thành lời những gì mình thấy, nhưng tôi cảm thấy
vô cùng chính xác cái cơ chế phức tạp của những mối quan hệ. Khi cha tôi bước
sang một thửa ruộng khác, tôi cũng tập thử với lưỡi hái.
- Cậu để rạ dưới gót giày, dưới gót giày, còn phần đế phía trước thì thả lỏng
ra, đừng đè chặt!
Song trong cơn hồi hộp, tôi không biết cái mũi giày hay cái đế giày ở đâu và
vung lưỡi hái lần thứ ba thì đã cắm phập nó vào đất.
- Hê, hê, cứ thế thì chẳng mấy chốc sẽ đi toi cái lưỡi hái - Ác-khíp nói. - Cậu
còn phải học ông nhiều.
Tôi cảm thấy trên mình cái nhìn chế giễu của một cô gái xếp lúa, người rám nắng
và đầy bụi bặm; vội vàng rút Lu-i, mồ hôi của tôi tuôn ra như suối dưới cái mũ
cát-két có gắn huy hiệu đẹp.
- Về mà ăn bánh ngọt với mẹ. - Tôi nghe giọng chế nhạo của Mu-tu-dốc sau lưng. Tôi
biết anh thợ gặt đen như củ súng này: anh nhập cư hẳn ở I-a-nốp-ca sau ba năm
làm việc tại đây. Đó là một người khéo tay nhưng hay đặt điều nói xấu, năm
ngoái anh cố tình nói những lời độc địa về ông bà chủ trước mặt tôi.
Tôi thích sự bạo dạn và can đảm của anh ta, đồng thời những lời nhạo báng thô
lỗ của anh làm nảy nở trong tôi sự thù ghét bất lực. Tôi muốn nói một lời nào
đó để biến anh thành đồng minh của tôi, hoặc trái lại, lấy quyền lực để bịt
miệng anh nhưng tôi lại không biết những thứ đó...
Khi ở đồng về nhà, tôi thấy bên cửa ra vào một phụ nữ đi đất. Dựa vào tường,
chị ngồi xổm bên tấm đá, không dám ngồi lên nó; đó là mẹ của I-gơ-nát-ca
[Ignatka], cậu mục đồng cám hấp. Chị đi bộ bảy dặm để xin một rúp, nhưng chẳng
có ai ở nhà và không ai cho chị đồng rúp ấy. Chị sẽ còn đợi đến chiều. Trái tim
tôi se lại khi nhìn bóng hình chị, con người thể hiện cả sự khốn cùng và nhẫn
nhục.
Một năm sau tình hình cũng không khá hơn tại I-a-nốp-ca. Còn trái lại nữa là
khác. Chơi bóng chày về, tôi gặp cha tôi đi từ đồng, mệt mỏi và bực dọc, toàn
thân đầy bụi bặm, theo sau là một nông dân bé nhỏ ăn mặc lôi thôi, chân trần
lấm chấm đen, ông ta rảo bước và cầu khẩn cha tôi:
- Lạy Chúa, cho con xin lại con bò cái, con thề sẽ không để nó vào ruộng nhà
ông nữa.
Cha tôi trả lời:
- Con bò của mày chỉ ăn có mười cô-pếch, nhưng làm tao hại đến mười rúp đấy!
Người nông dân lại van vỉ nhưng trong lời cầu khẩn của ông có pha chút căm hờn.
Cảnh tượng này làm tôi rung động đến tận đường gân thớ thịt sâu thẳm nhất. Tâm
trạng hứng khởi của tôi sau trận đấu bóng chày dưới các cây lê, nơi tôi đã đánh
bại oanh liệt các chị gái, đột nhiên nhường chỗ cho nỗi thất vọng tràn trề.
Tôi đi rất nhẹ qua trước mặt cha tôi rồi nhào vào phòng ngủ, nằm vật ra giường
và khóc nức nở không ngừng dù tôi đã có thẻ học sinh năm thứ hai. Cha tôi qua
lối vào phòng ăn, người nông dân theo ông đến bậc thềm, chân đất dậm lên nền.
Tôi nghe thấy tiếng người nói rồi người nông dân bước đi.
Mẹ tôi từ trạm xay lúa về, tôi nhận ra giọng bà, tôi nghe thấy mọi người chuẩn
bị bữa trưa rồi tiếng bà gọi tôi. Tôi không trả lời, chỉ khóc. Cuối cùng tôi
cảm thấy nước mắt cũng có hương vị của niềm hạnh phúc tuyệt vời. Cửa mở và mẹ
tôi cúi xuống bên tôi.
- Sao thế con, Li-ô-vô-trơ-ca?
Tôi không trả lời. Cha mẹ tôi thì thầm.
- Con khóc vì cái lão nông dân loắt choắt ấy chứ gì? Nhưng lão ta đã nhận lại
được con bò cái, lại chẳng bị phạt xu nào.
- Không phải vì thế đâu. - Tôi đáp, mặt vùi vào gối, xấu hổ với ý nghĩ: thế mà
cũng khóc.
- Ngay cả tiền phạt ông ta cũng không phải nộp. - Mẹ tôi tiếp
tục trấn an.
Cha tôi đoán ra lý do làm tôi buồn và ông nói với mẹ tôi. Chỉ cần liếc qua là
ông đã nhận ra khá nhiều việc.
Một hôm trong lúc chủ nhà đi vắng, một tên đội trưởng hiến binh thô tục, tham
lam, hỗn láo đến nhà tôi, y đòi kiểm tra thẻ căn cước của các công nhân. Thấy
hai tờ đã quá hạn, y liền cho gọi chủ nhân từ đồng về và tuyên bố: họ bị bắt
giữ và sẽ bị chuyển hồi về nguyên quán cùng đoàn tù khổ sai trong lần gần nhất.
Trong số những kẻ “phạm tội”, có một ông già cổ rám nắng hằn những vết nhăn
sâu, người kia là cháu họ ông, một thanh niên. Cả hai quỳ gối trần trên nền đất
nện ở cửa ra vào, ông già quỳ trước và anh thanh niên sau ông, họ cúi sát đất
lạy lục và lặp đi lặp lại:
- Nhân danh Chúa cao vời, xin rủ lòng thương chúng con!
Tên hiến binh vạm vỡ, đậm mồ hôi vung vẩy thanh kiếm, nhấp chút sữa lạnh được
đem lên từ kho chứa dưới hầm và đáp lại:
- Tao chỉ làm phúc ngày lễ thôi mà bữa nay lại là ngày thường...
Tôi thấy mình như đứng trên lửa bỏng và lắp bắp một câu phản đối gì đó bằng
giọng nghẹn ngào.
- Đây không phải chuyện của cậu. - Tên hiến
binh nghiêm khắc nói, tách rời từng âm tiết một.
Chị cả tôi giơ ngón tay ra hiệu tôi đừng nói vào. Tên hiến binh đưa hai người
thợ đi.
Tôi giữ chân kế toán trong vụ hè. Lần lượt, tôi, anh và chị tôi ghi vào sổ đăng
ký các công nhân được tuyển dụng, điều kiện tuyển dụng cùng những khoản chi trả
bằng hiện vật hoặc bằng tiền. Khi tổng kết, thanh toán, tôi hay phụ việc cho
cha tôi, khi ấy chúng tôi thường có những cuộc cãi cọ ngắn, bị nén lại vì sự có
mặt của các công nhân. Người ta không lừa ai bao giờ, song các điều kiện trong
hợp đồng luôn được diễn giải rất chặt chẽ. Các ông thợ, nhất là những người
nhiều tuổi nhận ra cậu bé đứng về phía họ và điều đó làm cha tôi bực bội.
Sau những cuộc cãi vã kịch liệt, tôi cắp nách một cuốn sách, bỏ đi và đôi khi
không trở về ăn bữa trưa. Sau một lần cãi cọ như thế, tôi bất ngờ gặp cơn giông
ngoài đồng, sấm rền không ngớt, thảo nguyên nín thở dưới cơn mưa rào lớn, dường
như các tia chớp tấn công tôi lúc từ phía này, lúc từ phía khác. Tôi đi đi lại
lại, người ướt sũng, lội bì bõm trong đôi giày và chiếc mũ cát-két của tôi biến
thành một máng nước. Khi trở về đến nhà, mọi người liếc mắt nhìn trộm tôi. Chị
tôi bắt tôi thay quần áo khô và cho tôi ăn.
Cuối kỳ nghỉ hè, theo thường lệ tôi cùng cha tôi trở về thành phố. Những khi
đổi tàu, chúng tôi không thuê người vác mà tự mang lấy hành lý. Cha tôi xách
những thứ nặng nhất và cứ nhìn dáng lưng và cánh tay dang ra của ông, tôi biết
ông khó nhọc. Tôi thấy thương ông và cố xách những gì tôi xách được. Thỉnh
thoảng trong số hành lý, chúng tôi cũng mang một chiếc thùng lớn đựng quà cáp của
dân làng đem biếu bà con ở Ô-đét-xa, khi ấy phải thuê người vác. Cha tôi trả
công rất chi li. Người phụ vác không bằng lòng và lắc đầu vẻ phật ý. Việc này
bao giờ cũng làm tôi cảm thấy khó chịu. Nếu tôi đi xe tàu một mình và phải thuê
người vác, tôi tiêu vung tiền túi rất nhanh, bao giờ cũng sợ trả chưa đủ và tôi
băn khoăn tìm ánh mắt của người phụ vác. Tôi phản ứng lại tính dè sẻn của gia
đình như vậy và suốt đời tôi vẫn thế.
Ở nông thôn cũng như ở thành thị, tôi đã sống trong môi trường tiểu tư sản, nơi
mà mọi cố gắng đều hướng về sự làm giàu. Thành thử, tôi xa cách môi trường nông
thôn những năm đầu của thời thơ ấu và cả thế giới thành thị của những năm tôi
đi học. Tôi rời bỏ bản năng góp nhặt, lối sống và tầm nhìn tiểu tư sản bằng một
động lực bất ngờ và xa rời chúng trong suốt cuộc đời.
Trong các vấn đề tôn giáo và dân tộc, thành thị và nông thôn không đối lập với
nhau, ngược lại, chúng bổ sung cho nhau từ nhiều mặt.
Gia đình tôi không có tư tưởng sùng đạo. Thoạt tiên, một vài biểu hiện bên
ngoài còn sót lại bởi ảnh hưởng của sức ỳ: trong những ngày lễ lớn, cha mẹ tôi
đến nhà thờ Do Thái của khu kiều dân, ngày thứ bảy mẹ tôi không may áo quần, ít
ra cũng không may trước mặt mọi người. Nhưng những tập tục nghi lễ ấy càng yếu
dần đi theo ngày tháng, khi lũ trẻ lớn lên và gia đình cũng khá giả hơn. Từ
thời thanh niên, cha tôi đã không tin vào Chúa và sau này ông nói thẳng ra điều
đó trước mặt vợ con. Mẹ tôi muốn tránh vấn đề này, mỗi khi nhắc đến nó bà lại
ngước mắt nhìn trời.
Khi tôi lên bảy hoặc tám tuổi, mọi người coi lòng tin vào Chúa như một thứ
chính thống. Có lần, một ông khách - như thường lệ, cha mẹ tôi đem khoe những
đứa con mình và bắt tôi phải đưa ra những bức tranh cùng thơ ca do tôi làm - đã
hỏi tôi: