Đời tôi (Tập 1) - Chương 09
CHƯƠNG IX: ĐI ĐÀY LẦN THỨ NHẤT
Chúng tôi xuôi dòng Lê-na [Léna]. Dòng nước lôi chầm chậm những chiếc xà-lan chở đầy tù nhân và cai tù. Những đêm trường lạnh lẽo. Chiếc áo lông chúng tôi mặc phủ đầy sương giá vào tờ mờ sáng. Dọc đường khi đến những làng mạc đã được định trước, người ta thả một hai tù nhân lên bờ. Cho đến thị trấn Út-xchi - Cút [Ousti - Kout], tôi còn nhớ chúng tôi đã lênh đênh khoảng ba tuần. Tại đấy, tôi được ở lại cùng một phụ nữ khá thân quen, cũng bị xử trong vụ Nhi-cô-lai-ép. A-lếch-xan-đơ-ra Lơ-vốp-na là một trong những nhân vật tuyệt vời nhất của “Liên minh Công nhân miền Nam nước Nga”. Lòng trung thành với chủ nghĩa xã hội và tinh thần chí công vô tư của cô đã đem lại cho cô một uy tín vô cùng lớn về mặt đạo đức. Công việc chung gắn bó chúng tôi với nhau. Để khỏi bị đi đày riêng rẽ, chúng tôi đã làm lễ thành hôn ở nhà giam Mát-xcơ-va.
Thị trấn có chừng trăm mái nhà nhỏ. Chúng tôi chuyển ra ở rìa ngoài làng. Quanh chúng tôi là rừng, phía dưới là sông. Xa hơn về phía Bắc, dọc bờ Lê-na có những mỏ vàng. Vàng làm cả con sông ánh rực một màu. Út-xchi - Cút đã có một thời khấm khá hơn với những cuộc ăn chơi điên cuồng, trộm cắp và cướp bóc. Nhưng vào thời chúng tôi nó đã thuần đi. Còn lại tệ nghiện ngập. Ở nơi chúng tôi sống, ông bà chủ nhà uống liên miên không ngừng. Đây là một cuộc sống đen tối, bế tắc ở nơi cùng trời cuối đất. Ban đêm, lũ gián sột soạt đầy nhà thật đáng sợ. Chúng bò lên bàn, lên giường, lên tận mặt. Thỉnh thoảng, chúng tôi đành rời nhà một hai ngày, mở toang mọi cửa ngỏ mặc dầu nhiệt độ xuống tới ba mươi độ âm. Vào mùa hè, lũ rĩn biến cuộc sống chúng tôi thành địa ngục. Có lần, những con rĩn đã đốt chết một con bò cái lạc trong rừng. Những người nông dân phải che mặt bằng một cái lưới đan bằng lông đuôi ngựa, tẩm dầu mỡ bẩn thỉu. Đến mùa xuân và mùa thu, thị trấn ngập ngụa và lầy lội trong biển bùn. Thiên nhiên ở đây rất đẹp. Nhưng trong những năm ấy tôi hoàn toàn thờ ơ với nó. Dường như tôi tiếc rẻ nếu phải để tâm và tốn thời gian vào việc nhìn ngắm thiên nhiên. Tôi sống ở khoảng giữa rừng và sông mà thực ra không để ý đến chúng. Sách vở và những mối quan hệ cá nhân hầu như thu hút tôi toàn diện. Tôi nghiên cứu Mác và đôi lúc lại phải xua những chú gián bò ra từ các trang sách.
Lê-na là con đường thủy lớn chuyên chở người lưu đày. Những kẻ được trả tự do đi ngược về phía Nam theo dọc sông. Mối quan hệ giữa các nhóm người bị đi đày ngày càng đông theo ngọn trào cách mạng - hầu như không bao giờ bị đứt đoạn. Mọi người trao đổi thư từ đến độ chúng trở thành những luận văn thực sự. Ông thống đốc tỉnh Iếc-cút-xcơ [Irkutsk] tương đối dễ tính trong việc cho phép thay đổi chỗ ở. Tôi cùng A-lếch-xan-đơ-ra Lơ-vốp-na dời chỗ ở đi hai trăm năm mươi dặm về phía đông, gần sông I-lim, nơi các bạn thân chúng tôi sinh sống. Tại đây, trong một thời gian ngắn, tôi làm “nhân viên văn phòng” cho một triệu phú lái buôn. Những nhà kho đầy lông thú, các cửa hiệu và quán của ông ta rải trên một diện tích bằng cả nước Bỉ và Hà Lan cộng lại. Đó là một lãnh chúa khổng lồ trong địa hạt thương mại. Có hàng ngàn người Tun-gút [Toungouses] làm việc dưới quyền ông, ông ta gọi họ là “các con Tun-gút của ta”. Cả đến tên mình ông cũng không biết ký, thế vào đó, ông vẽ một chữ thập. Ông sống dè sẻn, hà tiện cả năm để rồi tung cả chục ngàn rúp vào hội chợ ở Nhi-giơ-nhi Nô-vơ-gô-rốt [Nijni Novgorod]. Tôi làm việc cho ông ta trong vòng một tháng rưỡi. Một hôm, tôi ghi trên hóa đơn - đáng lẽ là một pao sun-phát đồng thì lại nhầm thành một pút (hơn mười sáu ki-lô-gam) - và gửi bản thanh toán quá trớn ấy đến một cửa hiệu xa tít mù tắp. Tôi hoàn toàn mất uy tín vì vụ này và buộc phải thôi việc. Chúng tôi lại trở về Út-xchi - Cút. Mùa đông năm ấy thật khắc nghiệt, nhiệt độ xuống dưới bốn mươi bốn độ Rê-ô-mua [Réaumur]. Người đánh xe dùng chiếc khăn tay để bứt những mảnh băng đóng cứng trên mõm ngựa. Cháu gái mười tháng của tôi được đặt trên lòng. Nó thở qua một cái ống cuộn bằng da thú đặt trên đầu. Cứ qua mỗi ga chúng tôi lại lo lắng lôi cháu khỏi bao che; tuy nhiên cuộc hành trình cũng kết cục may mắn. Nhưng chúng tôi không phải ở lâu tại Út-xchi - Cút. Vài tháng sau, ông thống đốc cho phép chúng tôi lùi xuống phía Nam hơn chút nữa, ở Véc-khô-len-xcơ [Verkholensk], tại đó chúng tôi cũng có bạn bè.
Tầng lớp quý tộc trong nhóm người bị đi đày được đại diện bởi những nhà dân túy già, với năm tháng họ đã gần như ổn định cuộc sống. Những người Mác-xít trẻ họp thành một giới riêng. Ngay trong thời kỳ tôi ở đây, có một đội công nhân ùa về phía bắc: họ đa số ít học và bị chính quyền bứt khỏi đám đình công một cách ngẫu nhiên. Đối với những người này, tù đày là một trường học không gì thay thế nổi để họ có dịp tìm hiểu về chính trị và văn hóa nói chung. Những bất đồng tư tưởng - thường xảy ra ở nơi con người buộc phải sống trong hệ khép kín - bị rắc rối thêm bởi các vụ cãi cọ. Các xung đột mang tính cá nhân, đặc biệt là những vụ việc xuất phát từ lý do tình ái, rất dễ biến thành những tấn thảm kịch. Có khá nhiều vụ tự tử như thế. Ở Véc-khô-len-xcơ, chúng tôi lần lượt cử nhau trông coi một sinh viên người Ki-ép. Có lần tôi để ý thấy trên bàn anh có những vụn sắt lấp lánh. Chỉ sau này mọi người mới vỡ nhẽ anh làm đạn chì cho khẩu súng săn của mình. Anh tì nòng súng vào tim và đạp cò bằng ngón chân cái. Chúng tôi chôn anh trên một quả đồi trong bầu không khí yên lặng. Thời ấy, chúng tôi ngại cả việc đọc điếu văn, sợ như thế là giả dối.
Trong mọi khu quần cư lớn của người bị đi đày đều có một khu mộ những kẻ tự vẫn. Một số tù nhân hòa vào môi trường, nhất là những người ở thành phố. Số khác đam mê rượu chè. Chỉ bằng biện pháp tự giáo dục cao độ, người ta mới có thể được cứu vãn trong cảnh lưu đày cũng như tù tội. Phải nói rằng trong thực tế, chỉ có những người Mác-xít nghiên cứu và học tập lý luận.
Trong những cuộc hành trình lớn trên sông Lê-na thuở ấy, tôi được biết Déc-gin-xki [Dzerjinsky], U-rít-xki [Ouritsky] và những nhà cách mạng trẻ tuổi khác, sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong tương lai. Vào một đêm xuân tối trời, cạnh đống lửa trên bờ Lê-na ngập nước, Déc-gin-xki đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ của anh viết bằng tiếng Ba Lan. Khuôn mặt và giọng nói của anh thật tuyệt vời, thi phẩm thì có phần kém hơn. Ngay cuộc đời con người đó đã trở thành bài thơ thảm khốc nhất.
Không lâu sau khi đến Út-xchi - Cút, tôi bắt đầu gửi bài cho tờ báo Vô-xtốch-nôi-ê Ô-bô-drê-nhi-ê [Vostotchnoié Obozrénié] (Tạp chí phương Đông) của tỉnh Iếc-cút-xcơ. Đây là tờ báo tỉnh lẻ hợp pháp do những nhà dân túy già bị đi đày sáng lập, nhưng đôi khi nó bị những người Mác-xít thâu tóm. Tôi bắt đầu bằng những bài phóng sự về làng mạc và xúc đông, hồi hộp chờ bài đầu tiên được in. Được tòa soạn động viên, tôi chuyển sang phê bình văn học và viết báo.
Để tìm bút danh, tôi mở bừa một tự điển tiếng Ý và tình cờ bám lấy từ antidoto; trong rất nhiều năm tôi ký cái tên An-ti-đơ Ốt-tô [Antide Oto] dưới các bài báo và bông đùa giải thích cho bạn bè biết rằng tôi muốn bơm liều thuốc giải độc Mác-xít vào báo chí hợp pháp. Hoàn toàn đột ngột, tờ báo tăng gấp đôi tiền thù lao cho tôi: thay vì hai, tôi nhận được bốn cô-pếch mỗi dòng. Đó là bằng chứng cao nhất về sự thành công. Tôi viết về giai cấp nông dân, về các nhà văn cổ điển Nga, về Íp-xen, về Hao-tman và Nít-sơ [Nietzsche], về Mô-pát-xăng và Ét-xtô-ni-ê [Estonier], về Lê-ô-nhít An-đrây-ép [Léonide Andréiev] và Goóc-ki. Tôi thức bao đêm sửa đi sửa lại những bản thảo, lục tìm một ý cần thiết hoặc một từ bị thiếu. Tôi trở thành một nhà văn.
Từ năm 1896 khi còn cố thoát khỏi những tư tưởng cách mạng và từ năm 1897, khi tôi đã thực hiện công tác cách mạng nhưng vẫn chối bỏ học thuyết Mác-xít bằng cả chân tay, tôi đi một quãng đường đáng kể. Đến thời bị đi đày, chủ nghĩa Mác-xít đã vĩnh viễn trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận tư tưởng của tôi. Và ở đây, trong lúc bị tù đày, tôi cũng dùng cách nhìn ấy để tiếp cận những điều được gọi là “vấn đề vĩnh cửu” của đời người: tình yêu, cái chết, tình bạn, chủ nghĩa lạc quan, bi quan và những thứ khác nữa. Tùy theo từng thời đại và từng môi trường xã hội, con người có những cách yêu, chết và hi vọng khác nhau. Giống như cây nhờ rễ nuôi hoa và trái bằng nhựa hút từ đất, con người tìm thấy thức ăn cho cả những tình cảm và tư tưởng cao nhất của mình trong mảnh đất kinh tế của xã hội. Trong các bài tôi viết về văn học thời đó, nói cho cùng tôi chỉ nghiên cứu một đề tài: quan hệ tương hỗ giữa cá nhân và xã hội. Gần đây những bài ấy được in lại trong một tập riêng. Nếu hiện nay phải viết lại chúng, tất nhiên tôi sẽ làm theo cách khác. Nhưng xét về cơ bản thực ra tôi chẳng phải thay đổi gì.
Vào lúc đó, chủ nghĩa Mác-xít chính thức hoặc hợp pháp đang trải qua một cơn khủng hoảng trầm trọng. Giờ đây bằng kinh nghiệm trong cuộc sống, tôi biết các nhu cầu mới của xã hội tự cắt một cách hung bạo cho mình một bộ đồng phục tư tưởng từ tấm vải lý thuyết với những mục đích hoàn toàn khác biệt. Trước những năm chín mươi, đại đa số trí thức Nga còn ngụp lặn trong chủ nghĩa dân túy, phủ nhận sự phát triển của chế độ tư bản và lý tưởng hóa chế độ công xã ở nông thôn của những người dân túy, mặc dầu chủ nghĩa tư bản đã gõ cửa mọi nhà và hứa hẹn mọi thứ lợi lộc cũng như vai trò chính trị đáng kể cho giới trí thức. Trí thức tư sản cần lưỡi dao sắc của chủ nghĩa Mác-xít để cắt cuống rốn dân túy đã nối họ với thứ quá khứ đáng thù ghét. Đấy là lời giải thích cho hiện tượng tại sao những lý tưởng Mác-xít lại lan tràn nhanh chóng trong các năm cuối của thế kỷ trước. Nhưng khi lý thuyết Mác-xít vừa làm xong nhiệm vụ của mình, nó bắt đầu trở nên nặng nề với giới trí thức. Biện chứng chỉ tốt khi nó chứng tỏ tính tiến bộ của những phương pháp tư bản về sự phát triển. Nhưng ở chỗ mà chủ nghĩa tư bản bắt đầu bị phủ nhận một cách cách mạng, tầng lớp trí thức liền cảm thấy phép biện chứng trở nên gò bó và tuyên bố rằng nó đã lỗi thời. Ở ranh giới giữa hai thế kỷ, trùng lặp với những năm tôi bị tù đày, giới trí thức Nga đã bước qua giai đoạn phê bình chủ nghĩa Mác-xít một cách tổng quát. Họ giữ lấy phần biện minh lịch sử cho chủ nghĩa tư bản và gạt bỏ sự phủ nhận có tính cách mạng đối với chủ nghĩa này. Bằng những đường vòng như thế, các trí thức dân túy-vô chính phủ trở thành tầng lớp trí thức tự do-tư sản.
S ự phê bình chủ nghĩa Mác-xít ở châu Âu lúc đó đã có một mảnh đất màu mỡ ở nước Nga, hoàn toàn độc lập với những giá trị mà nó có thể có. Chỉ cần nhắc đến việc Ê-đua Béc-xten [Edouard Bernstein] trở thành một trong những người hướng đạo được ưa chuộng nhất trên con đường từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tự do. Triết học “quy phạm” ngày càng lấn át có hiệu quả phép biện chứng Mác-xít. Chính kiến bắt đầu hình thành trong xã hội tư sản cần những chuẩn mực không thể đánh đổ được, không chỉ nhằm chống lại sự độc đoán của chế độ chuyên chế quan liêu mà còn để chống lại sự vùng lên của quần chúng cách mạng. Sau khi học thuyết của Hê-ghen bị lật đổ, Căng [Kant] cũng không đứng vững được lâu. Chủ nghĩa tự do Nga hình thành muộn màng và ngay từ đầu đã được xây dựng trên vùng đất hỏa sơn. Mệnh lệnh nhất quyết đối với nó là thứ quá trừu tượng và không bền vững. Phải cần những phương tiện mạnh hơn nhằm chống lại quần chúng cách mạng. Bọn duy tâm tiên nghiệm biến dần thành những con chiên chính giáo. Giáo sư kinh tế chính trị học Bun-ga-cốp [Boulgakov] khởi đầu bằng sự xét lại chủ nghĩa Mác-xít trong vấn đề nông nghiệp rồi chuyển sang chủ nghĩa duy tâm và cuối cùng, ông chui vào chiếc áo thầy tu. Thực ra Bun-ga-cốp chỉ khoác chiếc áo ấy sau đó vài năm.
Trong những năm đầu của thế kỷ này, nước Nga như một phòng thí nghiệm mênh mông của ý thức hệ xã hội. Tôi quan tâm khá nhiều đến lịch sử hội Tam Điểm, đủ để tôi nhận ra chức năng bổ trợ của các tư tưởng trong quá trình lịch sử. “Tư tưởng không rơi từ trên trời xuống” tôi nhắc đi nhắc lại lời cụ La-bri-ô-la.
Đây không còn là sự quan tâm thuần túy mang tính khoa học mà đã là việc lựa chọn con đường chính trị. Việc xét lại chủ nghĩa Mác-xít trong mọi hướng đã giúp tôi - cũng như nhiều nhà cách mạng trẻ khác - tập trung tư tưởng và mài sắc vũ khí tinh thần. Chúng tôi cần chủ nghĩa Mác-xít không chỉ để thanh toán tư tưởng dân túy, thực ra vốn không ảnh hưởng bao nhiêu đến chúng tôi, mà trước hết để tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa tư bản ngay trên địa hạt của chính nó. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại đã tôi luyện chúng tôi không chỉ trong lý thuyết mà cả về chính trị. Chúng tôi trở thành những nhà cách mạng vô sản.
Trong cùng thời gian đó, chúng tôi vấp phải sự phê bình của cánh tả. Trong một khu quần cư xa nhất về phía Bắc, hình như là Vi-li-ui-xcơ [Viliouisk] thì phải, có một người tù bị đi đày là Ma-khai-xki [Makhaisky], khá được biết đến sau đó ít lâu. Ma-khai-xki bắt đầu bằng sự phê bình chủ nghĩa cơ hội trong đảng Xã hội Dân chủ. Cuốn vở in sao đầu tiên của ông với nội dung tố cáo chủ nghĩa cơ hội trong đảng Xã hội Dân chủ Đức đã gặt hái được thành công lớn trong các khu quần cư của những người bị tù đày. Ma-khai-xki dành cuốn thứ hai để phê phán hệ thống kinh tế Mác-xít và dẫn đến một kết luận bất ngờ: chủ nghĩa xã hội là một thể chế xã hội trong đó giới trí thức có tay nghề bóc lột tầng lớp công nhân. Trong cuốn thứ ba, dưới tinh thần nghiệp đoàn-vô chính phủ, Ma-khai-xki phủ nhận sự cần thiết của đấu tranh chính trị. Trong vài tháng trời, công trình của Ma-khai-xki thu hút sự chú ý của các tù nhân dọc bờ Lê-na. Đối với tôi, đó là một liều huyết thanh vô cùng hiệu quả chống chủ nghĩa vô chính phủ, thứ chủ nghĩa rất hăng hái khi phủ nhận bằng lời lẽ nhưng lại thiếu sinh khí, thậm chí rụt rè khi phải sáng lọc những kết luận thực tiễn.
Lần đầu tiên, tôi gặp một người vô chính phủ bằng xương bằng thịt tại khu tạm giam Mát-xcơ-va. Đó là một thầy giáo kín đáo, ít nói và cứng rắn tên là Lu-din [Louzine]. Trong tù, anh có xu hướng gần gũi tù thường phạm và thích nghe họ kể những mẩu chuyện giết người, cướp bóc. Lu-din không ưa tranh luận lý thuyết. Có một lần duy nhất, tôi không để anh yên với câu hỏi: “Trong một tập thể tự trị, hoạt động của đường sắt phải được quản lý ra sao?”, anh cự lại:
-
Đồ quỷ! Nếu sau này có tình trạng vô chính phủ, đi lại bằng đường sắt làm quái
gì! Với tôi, câu trả lời như thế là hoàn toàn đủ.
Lu-din tìm cách lôi kéo thợ thuyền về phía anh ta, giữa chúng tôi đã xảy ra một
cuộc đấu tranh lặng lẽ, không khỏi mang tính thù địch.
Chúng tôi cùng Lu-din đến Xi-bê-ri. Đó là lúc những dòng lũ mùa xuân chảy ngập bờ. Lu-din quyết định vượt sông Lê-na bằng thuyền. Anh không hoàn toàn tỉnh táo và thách tôi cùng theo anh. Tôi chấp nhận lời thách thức ấy. Dòng sông cuộn sóng cuốn trôi những cột xà gỗ và xác động vật chết, có khá nhiều vùng xoáy. Chúng tôi thực hiện chuyến vượt sông đầy lo ngại một cách may mắn. Bằng giọng ủ dột, Lu-din thừa nhận tôi là một “đồng chí tốt” hoặc một thứ gì đó tương tự. Mâu thuẫn giữa chúng tôi có phần dịu đi.
Nhưng chẳng bao lâu sau người ta chuyển anh lên phương Bắc. Ở đó sau vài tháng, anh dùng dao đâm viên phụ trách cảnh binh huyện. Ông này không phải là người ác và vết thương cũng không đến nỗi trầm trọng. Trước tòa, Lu-din tuyên bố rằng thực ra anh không thù ghét gì ông phụ trách cảnh binh nhưng qua ông ta, anh muốn giáng một đòn vào chính quyền chuyên chế nhà nước. Lu-din bị kết án khổ sai.
Trong khi ở các khu quần cư tù đày xa xôi, tận cùng xứ Xi-bê-ri tuyết phủ, người ta tranh cãi sôi nổi về sự phân hóa trong nông dân Nga, về các trade union Anh, về mối quan hệ giữa mệnh lệnh nhất quyết và các quyền lợi giai cấp, về những vấn đề chủ nghĩa Đác-uyn và chủ nghĩa Mác-xít thì một cuộc đấu tranh độc đáo về tư tưởng đã nổ ra trong giới chính phủ.
Tháng hai 1901, Hội đồng Giáo hội Tối cao Nga đã rút phép thông công của Lép Tôn-xtôi. Lệnh của Giáo hội được đăng tải trên tất cả các mặt báo. Tôn-xtôi bị buộc vào sáu tội như sau:
1. Phủ nhận Đức Chúa Giêxu, người được vinh danh trong Thánh ba ngôi.
2.
Phủ nhận Đức Chúa Giêxu từng phục sinh từ cõi chết.
3. Phủ nhận sự trinh bạch của Đức Mẹ Đồng trinh trước và sau khi sinh ra Chúa.
4. Phủ nhận cuộc sống ở thế giới bên kia và lẽ công bằng tối cao.
5.
Phủ nhận tác dụng hành động ban ân huệ của Thánh Thần.
6. Nhạo báng phép mầu của lễ ban thánh thể.
Những vị giáo chủ râu rậm, tóc trắng cùng vị chỉ huy của họ - Pô-bê-đô-nốt-xép - và các nhân vật trụ cột khác của nhà nước coi chúng tôi, những người cách mạng, chẳng những là lũ tội phạm mà còn là bọn cuồng tín điên rồ; họ mới là đại diện cho lý trí lành mạnh dựa trên kinh nghiệm lịch sử của toàn nhân loại. Lũ người ấy đòi hỏi nhà nghệ sĩ hiện thực vĩ đại phải tin vào sự trinh tiết khi thụ thai cũng như tin vào Thánh thần trong mỗi chúng ta qua mẩu bánh mì không men. Chúng tôi đọc đi đọc lại danh mục những tà thuyết Tôn-xtôi và cứ mỗi lần như thế, với nỗi ngạc nhiên mới, chúng tôi lại tự nhủ: không, chính chúng tôi mới dựa vào kinh nghiệm của toàn thể loài người, tương lai chính là chúng tôi, còn những kẻ ngự trị trên kia không đơn thuần gây tội ác mà còn là lũ gàn dở. Và chúng tôi biết chắc chắn rằng chúng tôi sẽ lập lại trật tự trong cái nhà thương điên ấy.
Tòa nhà cổ lỗ của nhà nước rạn nứt ở từng tấm ghép. Trong cuộc đấu tranh này, ngoài chúng tôi, chính giới sinh viên đại học là người mở màn. Nóng vội, họ đi đến những hành động khủng bố. Sau những tiếng súng của Các-pô-vích [Karpovitch] và Ban-ma-sốp [Balmachov], giới tù đày xốn xang như nghe còi báo động. Bắt đầu những cuộc tranh luận về chiến lược khủng bố. Sau một số giao động lẻ tẻ, những người tù Mác-xít phản đối khủng bố. “Hóa học của những chất nổ không thể thay thế quần chúng”, chúng tôi nói vậy. Những chiến sĩ đơn độc tự hủy hoại mình trong cuộc đấu tranh anh dũng mà không vận động nổi giai cấp công nhân. Nhiệm vụ chúng tôi không phải là trừ khử lũ bộ trưởng Nga hoàng mà là lật đổ chế độ ấy bằng một cuộc cách mạng. Bên bờ đường gẫy khúc ấy, bắt đầu xuất hiện ranh giới giữa những người xã hội dân chủ và xã hội cách mạng. Và nếu nhà tù đối với tôi là thời kỳ huấn luyện lý thuyết thì đi đày là giai đoạn quyết định bước đường chính trị của tôi.
Hai năm của đời tôi trôi qua như thế. Trong khoảng thời gian này, bao nhiêu nước trôi qua dưới những trụ cầu ở Pê-téc-bua, Mát-xcơ-va và Vác-sa-va [Varsovie]. Phong trào đã chuyển từ bí mật qua công khai trên đường phố. Ở một số vùng, tầng lớp nông dân bắt đầu nổi dậy. Những tổ chức xã hội dân chủ được thành lập ở Xi-bê-ri tại các tuyến đường sắt và người ta bắt liên lạc với tôi. Tôi thảo cho họ các bản kêu gọi và truyền đơn. Sau ba năm gián đoạn, tôi lại tham gia vào cuộc đấu tranh tích cực.
Những người bị đi đày không còn muốn ở yên tại nơi quy định cho họ. Một cơn dịch đào tẩu diễn ra. Mọi người phải đăng ký để chờ đến lượt. Hầu như trong mỗi làng mạc đều có những nông dân chịu ảnh hưởng các nhà bôn-sê-vích thuộc thế hệ cao tuổi hơn từ thuở ấu thời. Những người này bí mật chở các tù chính trị bằng tàu thuyền, xe ngựa và xe trượt tuyết và đưa họ đi từ nơi này qua nơi khác. Tóm lại, cảnh sát Xi-bê-ri cũng bất lực như chúng tôi. Không gian mênh mông vừa có lợi và vừa có hại cho họ. Khó mà tóm lại được người tù chạy trốn. Nhưng anh ta có nhiều khả năng chết đuối dưới sông hoặc chết cóng trong rừng tai-ga.
Phong trào cách m ạng lan rộng nhưng vẫn tản mạn. Mỗi địa phương, mỗi thành phố đấu tranh riêng rẽ. Chế độ Nga hoàng có ưu thế vô cùng lớn trên phương diện thống nhất hành động. Vào thời đó, sự cần thiết phải lập ra một đảng tập trung lóe ra trong nhiều bộ óc. Tôi viết một bản thuyết trình về đề tài này, các bản sao được phân phát trong các vùng có người bị tù đày và gây nên những cuộc tranh cãi sôi nổi. Chúng tôi tưởng hình như ở Nga cũng như trong đám di cư ra nước ngoài, những người bạn đồng chính kiến với chúng tôi chưa để ý đúng mức đến vấn đề này. Nhưng họ đã nghĩ đến và hành động. Mùa hè năm 1902, tôi nhận được cuốn vở qua đường Iếc-cút-xcơ, dưới bìa có kẹp những tài liệu tuyên truyền mới nhất được in ở nước ngoài trên loại giấy rất mỏng. Nhờ vậy chúng tôi được biết ở ngoại quốc, tờ báo Mác-xít mang tên Iskra đã ra đời với mục đích lập nên một tổ chức tập trung những nhà cách mạng chuyên nghiệp và gắn bó họ trong hành động bằng kỷ luật sắt. Chúng tôi nhận được cuốn sách của Lê-nin in ở Giơ-ne-vơ nhan đề Làm gì? trong đó ông dành toàn thể nội dung để nghiên cứu vấn đề này. Những bản thuyết trình viết tay, những bài báo và những lời tuyên bố tôi gửi đến “Liên minh Xi-bê-ri” trong phút chốc trở nên không đáng kể và thiển cận trước nhiệm vụ mới mẻ và lớn lao đang được đặt ra. Phải làm ăn ở nơi khác. Tôi quyết định trốn tù.
Lúc đó chúng tôi đã có hai cháu gái, đứa nhỏ gần được bốn tháng. Hoàn cảnh sống ở Xi-bê-ri khá khắc nghiệt. Nếu tôi trốn đi thì A-lếch-xan-đơ-ra Lơ-vốp-na phải chịu một gánh nặng gấp đôi. Nhưng cô giải quyết vấn đề ấy bằng một lời duy nhất: “Cần phải thế!”. Với cô, nhiệm vụ cách mạng phải được đặt lên trên mọi vấn đề khác và trước hết, trên các vấn đề riêng tư. Chính cô là người đầu tiên đưa ra ý định phải trốn tù khi chúng tôi nhận thức được những nhiệm vụ mới và quan trọng. Về điểm này, cô phá tan mọi nghi ngại của tôi. Sau khi tôi trốn mấy ngày, cô vẫn giấu được bọn cảnh binh việc tôi vắng mặt. Từ nước ngoài, tôi hầu như không thư từ được với cô. Tiếp đó cô còn bị đi đày lần thứ hai. Sau này, chúng tôi chỉ còn gặp nhau đôi lần một cách tình cờ. Cuộc đời đã chia lìa chúng tôi nhưng mối quan hệ tư tưởng và tình bạn không gì phá vỡ nổi, vẫn còn mãi mãi.