Trở lại Thiên Đường - Chương 05 - Phần 2

Poppy thấy mình cần biết lý do để củng cố sự tin tưởng của nàng về Heather.

- Vì đây là một thị trấn nhỏ? Vì đây có hồ? Có chim bói cá? Vì cái gì?

- Tôi không biết.

- Anh không hỏi chị ấy sao?

- Ôi, Poppy! - Giọng Charlie có vẻ trách móc - Cách đây bốn năm rồi còn gì! Chắc đã có lúc nào đó tôi cũng có hỏi qua, những điều tôi quan tâm nhất là cô ấy có làm được công việc dọn bàn ăn hay không.

- Có chứ. Anh chàng chủ nhân nhà hàng ăn ấy rất khen ngợi cô ta cũng như tờ giấy chứng nhận mà tôi sẽ viết về cô ta nếu có yêu cầu.

Ý nghĩ của Poppy lại quay về chuyện Griffin. - Anh ta sẽ hỏi người này người nọ, sẽ thăm dò đào bới. Có thể là anh ta đang làm một công việc nào khác, nhưng những người thuộc giới anh ta thường thọc tay vào nhiều miếng bánh một lần lắm. Anh tin tôi đi. Có thể anh ta tìm cách thu thập thứ gì đó từ anh mà chính anh hay biết.

- Có lẽ chuyện đó cũng tốt, nếu tôi có thể nhớ được một điều gì đó có thể giúp Heather. Có điều chắc chắn là chuyện anh ta ở Little Bear giúp tôi khỏi phải khổ sở lê bước ra nơi xa xôi đó để kiểm tra căn nhà gỗ nhỏ ấy.

Bây giờ Poppy mới để ý đến cái địa danh ấy. - Griffin đang ở Little Bear à? Nhưng Lttle Bear đã đóng cửa rồi mà.

- Vâng, đóng rồi.

- Nơi đó chắc phải lạnh kinh khủng.

- Đúng.

- Anh ta sẽ không có nước.

- Vào thời điểm này trong năm thì không.

Nàng nghe như Charlie cười nhỏ trong máy, và chợt nghĩ ngay đến chuyện một anh chàng tiền bạc rủng rỉnh có thể cho phép mình tùy tiện chỏ mũi vào câu chuyện của người khác, đang co ro trong cái lạnh cóng ở một nơi mà những tiện nghi bị hạn chế đến mức tối thiểu giữa mùa đông lạnh lẽo như thế này. Trong một lúc Poppy thấy hài lòng với ý nghĩ trên. Nàng mỉm cười nói - Ôi, Charlie, anh đúng là một kẻ xấu xa.

Đúng là những con sóc lông đỏ. Khi lần theo những tiếng sột soạt nọ, Griffin bắt gặp hai con sóc đang xé lớp trần gỗ một miếng lót bên trên ra. Những mảnh vụn nhỏ rơi lên người anh, nhưng anh không để ý vì chỉ muốn biết nguyên nhân của những tiếng động thôi. Anh sắp miếng trần đã bị gỡ ra vào chỗ cũ, rồi vội vã quay lại trước lò sưởi để tìm hơi ấm. Anh cảm thấy người đau nhức khắp nơi, chân tay lạnh cóng. Thứ mà anh thèm muốn nhất bây giờ là tắm nước nóng, sau đó chui ngay vào cái túi ngủ dày và ấm áp mà nó hiện đang nằm trong một cái buồng nhỏ ở Princeton. Thông thường buổi tối ở nhà, anh thường ngồi xem truyền hình, lướt các trang web, hay ngồi viết tiểu sử của ông cụ Hayden. Nhưng ở đây thì những chuyện đó không sao thực hiện được. Cũng không thể nào chạy xuống phố, vào một quán nhậu lai rai vài ly bia với bạn bè. Quán café của Charlie có thể coi như là một cái quán nhậu na ná như thế, nhưng quán của ông ta ban đêm lại đóng cửa. Và dù nó có mở cửa, anh cũng không thể đi đến đấy được trong một đếm tối mù mịt như thế này, với những đợt gió thổi vun vút và bên ngoài căn chòi trời rét căm căm.

Griffin thấy là mình đã bị bẫy. Không còn nghi ngờ gì chuyện này cả. Anh tưởng tượng ngay lúc này những người dân trong thị trấn có thể đang ngồi quanh lò sưởi trong cửa hàng bách hóa của Charlie, cười thấm với ý nghĩ một gã dân thành thị đang bị lạnh cóng ở một nơi không có nước, không có điện và điện thoại. Không biết Poppy có ở đáy không? Griffin gạt phăng ngay ý nghĩ vừa chợt đến ấy. Anh không muốn nghĩ là Poppy vui thích khi biết anh đang ở trong tình trạng thiếu thốn hiện tại.

Ngoài ra, phải lái xe trong suốt bảy tiếng đồng hồ, sau đó còn lội bộ với đồ đạc lỉnh kỉnh trong tuyết giá, Griffin thấy người mình mệt nhoài. Anh lấy mấy cái nệm trên chiếc ghế dài, trải ra nền nhà gần lò sưởi, rồi lấy mấy tầm vải trải giường trong phòng ngủ trải lên trên, nằm cuộn tròn người cố dỗ một giấc ngủ.

Micah không sao ngủ được. - Anh đã cố, nhưng quá nửa đêm vẫn không sao chợp mắt. Chiếc giường như quá trống trải, và nỗi sợ hãi càng lúc càng gia tăng. Thấy cần phải làm một việc gì đó có ích hơn, anh mặc quần jeans vào, xỏ chân vào đôi giày bốt và khoác áo trùm đầu bước ra sau nhà nơi làm đường, bật đèn lên. Anh tránh không đi đến đống củi nơi anh đã giấu chiếc ba lô của Heather, chỉ nhấc cuộn ống dẫn trong đống giây cần kiểm tra ra xem xét từng khúc một tìm những chỗ có vẻ yếu. Những điểm yếu có thể biến thành những lỗ mọt làm thất thoát số nhựa cây ra ngoài tuyết. Anh không thể chấp nhận một sự hao phí như thế được. Vì trung bình phải mất bốn mươi ga lông nhựa mới cho được một ga lông xi rô. Mất nhựa là mất xi rô, và mất xi rô là tiêu luôn công việc làm ăn của anh và Heather.

Bỏ cuộn dây ống dẫn xuống lại, Micah đi đến khu mới xây cất thêm. Anh quay lưng về phía bếp, nhìn về phía văn phòng, thấy đống giấy tờ trên bàn của nàng, chợt thấy sợ hãi vô cùng. Tất cả giấy tờ đều được sắp xếp trong những cặp bìa có thứ tự giống như bộ óc làm việc của Heather. Anh biết xấp bìa bên ngoài đề chữ ART là xấp chứa những hồ sơ phát họa cho cái thương hiệu mà anh và nàng dự tính sẽ dán lên trên các hộp xi rô, và tập bìa có đề chữ VAC chứa các thông tin về hệ thống chân không mà họ vừa lắp đặt để hút thêm nhiều nhựa từ các cây. Còn tập bìa có chữ EVAP bên ngoài, là tập hò sơ gồm các chi tiết về khoản vay vốn trả góp cho cái máy bốc hơi mà họ đã mua và sử dụng từ mùa nhựa trước. Nó đã giúp họ có thêm nhiều xi rô, nên họ đã đặt mua hệ thống chân không, các nhãn hiệu mới và xây thêm phần phụ này.

Những thông tin về tất cả những thứ ấy đều ở trong chiếc máy vi tính đang nằm lù lù trên bàn giấy. Thêm vào đấy còn có các địa chỉ email, mối liên lạc chính của Heather với các nhà cung cấp và khách hàng.

Micah là người chuyên sử dụng các máy khoan, đục... nhưng đụng đến máy vi tính là anh mù tịt. Heather thì không thế, phần cứng phần mềm của nó nàng đều thông hiểu. Nàng biết mọi thứ trên chiếc bàn giấy ấy, tất cả những gì liên quan đến công việc làm ăn. Nếu nàng không trở về nhà sớm, Micah sẽ gặp rắc rối lớn.

Sợ nhìn lâu mất tinh thần thêm, Micah quay trở về nhà lại. Nhưng ở đâu anh cũng thấy vết tích của Heather, từ cái ấm bằng đồng trong bếp đến cái khung mà nàng đã bảo anh làm để ráp lên trần nhà, những cây kiểng nhỏ mà nàng đã bảo anh đem trồng ở bệ cửa sổ đằng sau chậu rửa bát đĩa, đến những tấm nệm chiếc ghế dài bọc lụa, những chiếc áo may dở cho hai đứa nhỏ còn nằm trên bàn máy may.

Micah không muốn nhìn thêm nữa. Anh tắt đèn quay lại phòng ngủ. Ngồi trong bóng tối, anh thấy người như tê dại hẳn, mà không phải do lạnh. Căn phòng đủ ấm nhờ hơi nóng tỏa ra từ một lò sưởi bằng hơi. Chiếc lò sưởi này anh cũng đã sắm sau khi Heather về sống ở đây với anh. Trước kia khi còn Marcy, trong nhà chỉ có lò sưởi đốt bằng củi, vốn là ngườn mối bất hòa của hai vợ chồng. Lò sưởi đốt bằng củi cần có củi thường xuyên để nhà có hơi ấm, trong khi Marcy lại cho công việc đó giữ nàng quanh quẩn mãi trong nhà không đi đâu được. Sinh trưởng ở khu Ridge, nàng không lúc nào chịu nghỉ ngơi. Ngay cả khi có con, nàng vẫn thường buộc chặt các đứa bé vào xe rồi lái đi thăm bạn bè, đi mua sắm hay đi bất cứ nơi nào mà hôm ấy nàng chợt thấy muốn đến. Và cũng chính nguồn năng lực khích động này đã giết chết Marcy. Không ai nói nhiều đến chuyện đó, nhưng sự việc đã rõ như ban ngày. Marcy đã lái xe quá nhanh trên con đường bị đóng băng trơn trượt. Nàng lúc nào cùng quá nhanh, quá nôn nóng mong muốn đến một nơi nào đó.

Heather thì lại thuộc mẫu người hoàn toàn trái ngược, với giọng nói dịu dàng, thái độ trầm tĩnh, đôi mắt trong màu bạc, và có ý thức. Nàng thích được ở nhà, thích làm đường và rất yêu thương mấy đứa nhỏ. Dù mỗi lần nghĩ đến, Micah lại thấy mình có lỗi, Heather đã nêu một tấm gương cho con anh tốt hơn nhiều so với mẹ chúng trước kia. Anh hoàn toàn tin tưởng, không bao giờ lo lắng khi có nàng bên cạnh chúng. Chưa lần nào.

Nghe có tiếng động ở cửa, Micah nhìn quanh vừa lúc con bé Star lách nhẹ vào phòng. Nó không nói tiếng nào, chỉ nhẹ nhàng chạy vòng quanh giường đến đứng dựa vào đùi anh.

Micah vuốt tóc con gái mà cổ họng nghẹn lại. Con bé xinh xắn, dễ thương và thông minh nữa. Anh không cần hỏi tại sao nó còn thức. Nỗi lo của nó có thể ít hơn của anh, nhưng anh biết một số lớn cũng chẳng khác gì anh.

Mẹ con ở đâu? Tại sao mẹ không ở nhà? Khi nào thì mẹ về? Tại sao mẹ lại bỏ đi? Mẹ không bỏ đi. Sáng mai sẽ trở về, anh muốn nói thế, nhưng không biết những chuyện đó có thật không. Thấy mình cũng bơ vơ như Star, anh cúi xuống ẵm nó lên ôm vào lòng cho đến khi nỗi sợ hãi vừa rồi qua đi. Rồi anh ẵm nó trở về phòng ngủ.

Griffin ngủ không yên giấc. Anh bị lạnh, và khắp người đau nhức. Những tấm nệm mỏng lót dưới sàn không thể sánh được với chiếc giường ngủ của anh ở nhà, và cho dù cả ngôi nhà nhỏ này đủ ấm để anh có thể dùng phòng ngủ, thì chiếc giường trong phòng này cũng không cho anh một chỗ nằm thoải mái. Griffin cao 1m75, tầm vóc trung bình, trong khi người anh của Charlie chắc phải nhỏ người hơn và chắc chắn ông ta không chia sẻ chiếc giường ngủ với một người đàn bà, vì không làm gì có đủ chỗ cho hai người. Trong căn chòi nhỏ này không có dấu vết gì là có một phụ nữ sống ở đây cả. Mọi thứ đều ở dạng thô sơ, đều mang cái màu xám của gỗ, tóm lại là một cuộc sống khắc hổ, đúng là hình ảnh một căn chòi gỗ nằm lẻ loi giữa hồ.

Anh tự bảo thế. Anh tự nhủ, vậy là mình đang trả giá cái phần cam kết của mình, và đang đạt tiến bộ trong việc thu phục cảm tình của Charlie. Ý nghĩ trên làm Griffin thấy dễ chịu đôi chút, và anh đã ngủ lại được hai tiếng đồng hồ. Nhưng những cơn gió rít bên ngoài đã đánh thức anh dậy sau đó. Không phải tiếng gió hú nghe như một thứ âm thanh rờn rợn, hay căn chòi nhỏ như muốn lắc lư mỗi cơn gió xoáy làm anh e ngại, mà anh đang nghĩ đến những cây lớn đang ngã nghiêng bên ngoài có thể ập ngã xuống làm anh bị mắc kẹt bên trong không sao đi kêu cứu được.

Anh cho thêm củi vào lò. Khi những tấm chăn đã ấm trở lại, anh có thể sắp xếp lại chỗ nằm rồi ngã người xuống, ngủ thêm được một giấc dài hơn cho đến khi luồng ánh sáng nhẹ ban mai rọi lên nhưng tấm màn cửa.

Bên ngoài gió đã ngừng thổi. Griffin đứng lên xoa bóp các bắp thịt, các khớp tay cho đến khi tất cả ấm lại, cử động dễ dàng hơn.

Vẹt những tấm màn nhìn ra, anh thấy bên ngoài dày đặc sương mù, tầm nhìn không vượt quá ba mét. Vùng hồ trông như cả một đại dương trải dài hằng nghìn dặm, không bờ bến.

Griffin quay lại lò sưởi, lấy đôi tất còn chưa khô hẳn, quay hướng về ngọn lửa rồi đặt một bình cà phê lên nấu. Khi cà phê sôi, anh rót ra tách đứng uống trong khi làm tiếp món trứng rán với một cái chảo bằng sắt nặng. Xong bữa điểm tâm ăn đứng, Griffin mang đôi giày bốt vào, bước ra ngoài và chạy ngay đến các gốc cây, hít vào một hơi thở dài, ngửa đầu ra sau nhìn lên những cây độc cần, mỉm cười khoan khoái hưởng thụ bầu không khí khô lạnh của buổi sáng sớm.

Trở lại vào trong căn chòi, nhìn ra hồ anh thấy sương đã tan dần để lộ những tầng ánh sáng rất đẹp. Trên trời cao là những đám mây có màu xám, bên dưới là bờ hồ với những sắc màu từ xám xanh đến xanh rêu, rồi đến mặt hồ với những lớp tuyết gợn sóng do những trận gió đêm vừa rồi tạo ra.

Sương mù đã dần tan trong khi Griffin đang đứng nhìn. Khi nó chỉ là một bức màn mỏng, thì mặt tuyết bên dưới nổi hẳn lên long lanh. Nhưng chính cái âm thanh vừa vang lên đã làm cho anh nín thở. Từ đâu đó chợt vang lên tiếng hót của một con chim bói cá. Anh cho đúng là tiếng hót của loại chim đó. Khi đến thăm Lake Henry tháng Mười vừa qua, anh đã có dịp nghe vài lần tiếng hót đó, và có nhìn thấy chúng trên hồ. Giờ thì mặt nước đã đóng băng, anh đoán chúng ẩn trốn ở một vài vũng nước còn sót lại. Và âm thanh này đã tạo cho cái quang cảnh trước mặt anh một hình ảnh siêu thực. Vào lúc đó Griffin không ngĩ đến chuyện mình đã làm đúng phần cam kết hay chinh phục tình cảm của ai cả. Từ trước đến nay anh vẫn yêu thích khung cảnh thiên nhiên, và trước mắt anh bây giờ là một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Trong khi đứng lắng nghe tiếng chim hót, Griffin thấy bờ vịnh hiện ra rõ dần. Anh nhìn thấy chiếc xe của mình. Xa hơn nữa, dọc theo bờ vịnh có một ngôi nhà nhỏ, và xa hơn đó nữa là một ngôi nhà khác. Anh nghe tiếng động cơ, hay tiếng máy cưa, không biết là thứ gì, chỉ thấy là nó hòa với mùi khói củi từ lò sưởi trong căn chòi của anh bay ra.

Tiếng chim nọ đã tắt. Anh rùng mình trong cái lạnh, nhưng vẫn cứ đứng yêu đấy cho đến khi hai tai tê cứng. Khi bước vào bên trong căn lều với bầu không khí ầm áp hơn, anh thấy người mình khỏe khoắn hẳn lên. Anh đã chịu đựng được. Anh sẽ tìm ra cái cầu dao điện để bật sáng các ngọn đèn, anh có thể làm cho nước chảy, có thể biến ngôi nhà nhỏ này thành một nơi ở được.

Chỉ cần đưa chiếc xe hơi ra khỏi lớp tuyết, là anh có thể tiếp tục công việc của mình.

Poppy luyện tập với chiếc máy tập thể dục cho đến khi tay và vai mỏi nhừ mới đi tắm, dùng điểm tâm, và gọi điện thoại cho Micah để biết là anh ấy đã đưa mấy đứa nhỏ đi học. Charlie chẳng cung cấp thêm cho Cassie những tin nào về Heather nhiều hơn là những thông tin ông đã cung cấp cho nàng đêm trước, và Griffin đã qua được một đêm yên ổn ở Little Bear.

Anh ta đã được nhìn thấy ở cửa hàng bách hóa với mấy ngón tay cái bị sưng trong khi tách những khúc củi dính nhau vì đóng băng, một ết tím bầm trên má vì trượt va phải thành xe tải trong khi xúc những mảnh vỏ cây bạch dương để bánh xe bám vào vượt khỏi khu bị lún. Bản báo cáo cho biết anh ta không hề nhụt chí, đôi bốt cao dùng về mùa đông, đồ lót ấm, và hỏi cách làm cho các bóng đèn bật sáng. Mọi người trong thị trấn đều biết là hộp cầu chì nằm đằng sau tấm gỗ nhỏ phía sau hộp bơ đậu phụng trong tủ nhà bếp. Họ biết rõ là đám chim bói cá đã ra đi cả khi mùa đông đến, và Buck Kipling cất sợi xích bánh xe ở dưới băng ghế tài xế ngồi.

Poppy tự hỏi không biết có ai cho Griffin biết về những sợi dây xích ấy hay về chuyện những ống dẫn nước cần được sửa chữa mới có nước chảy, và phải đến mùa xuân người ta mới sửa chữa chúng được hay không.

Nàng tự hỏi không biết khi nào thì anh ta đến nơi nàng ở.

Không muốn có mặt khi anh ta đến, Poppy đã ngồi vào sau tay lái chiếc Blazer ngay khi Selia Mckenzie đến để thay nàng nghe điện thoại. Đến mười giờ, nàng đã có mặt tại văn phòng Cassie trong thị trấn, và vài phút sau đó cả hai lên đường đến thăm Heather ở nhà giam quận hạt West Eames.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay