Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 19 - Phần 2

Bụi tác động tới tất cả chúng tôi trong bốn mươi ngày ấy; nó làm Ahmed Sinai cáu bẳn và gắt gỏng, nên ông nhất định không bồi tiếp các ông em đồng hao và bắt Alice Pereira chuyển thông điệp đến mọi người đang than khóc, những thông điệp được chính ông gào lên từ văn phòng: “Bé cái mồm lại! Tôi đang phải làm việc giữa lúc om sòm ầm ĩ này đây!” Điều này khiến Đại tướng Zulfikar và Emerald liên tục xem lịch ngày và lịch chuyến bay, trong khi thằng Zafar con họ bắt đầu bốc phét với con Khỉ Đồng rằng nó sẽ bảo bố nó sắp xếp cho hai đứa lấy nhau. “Mày thế là may mắn lắm đấy,” thằng em họ hợm hĩnh này bảo em gái tôi, “Bố tao là đại gia ở Pakistan.” Nhưng mặc dù Zafar thừa kế ngoại hình của bố nó, bụi đã đè nén khí phách của con Khỉ Đồng, nên nó chẳng lòng dạ nào choảng nhau với thằng kia. Trong khi đó, bác Alia phát tán nỗi thất vọng xa xưa, bụi bặm của mình trong không khí, và những người họ hàng kỳ dị nhất của tôi, gia đình cậu Mustapha, ngồi lầm lì ở góc nhà và bị lãng quên như thường lệ; bộ ria của Mustapha Aziz, được vuốt sáp và hai đầu vểnh lên một cách kiêu hãnh khi cậu mới tới, từ lâu đã rủ xuống dưới tác động đầy trầm uất của bụi.

Và rồi, vào ngày thứ hai mươi hai của tang kỳ, ông tôi, Aadam Aziz, nhìn thấy Chúa.

Năm ấy ông tôi sáu mươi tám tuổi – vẫn già hơn thế kỷ này mười tuổi. Nhưng mười sáu năm thiếu vắng sự lạc quan đã để lại hậu quả nặng nề; mắt ông vẫn xanh, nhưng lưng thì còng. Lê bước quanh Biệt thự Buckingham trong chiếc mũ chỏm thêu và chiếc áo chugah dài – cũng bị phủ một lớp bụi mỏng – ông trệu trạo nhai cà rốt sống, ứa từng sợi nước bọt xuống bờ cằm màu trắng với hàm râu muối tiêu. Và trong khi ông tàn tạ, Mẹ Bề trên ngày càng to hơn và khỏe hơn; bà, người từng mếu máo một cách tội nghiệp khi trông thấy Mercurochrome, thì nay dường như lại lớn mạnh trên sự suy yếu của ông, như thể cuộc hôn nhân của họ là một thứ phối ngẫu huyền bí, trong đó ả hồ ly đội lốt nàng khuê nữ ngây thơ hiện thân trước mắt người đàn ông, và, sau khi dẫn dụ họ đến cuộc động phòng hoa chúc, liền khôi phục bản chất thật, đáng sợ của mình và bắt đầu hút cạn linh hồn họ… bà tôi, hồi ấy, đã mọc ra một bộ ria tươi tốt không kém hàng ria trĩu bụi trên môi đứa con trai duy nhất còn sống là mấy. Bà ngồi khoanh chân trên giường, phết lên môi một chất lỏng bí hiểm đóng cứng lại quanh bộ ria rồi sẽ bị một bàn tay mạnh mẽ, quả quyết, giật ra; nhưng bài thuốc ấy chỉ càng làm quái chứng này trầm trọng thêm.

“Ông ấy đã thành ra như một đứa trẻ, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên bảo các con của ông tôi, “và Hanif đã kết liễu ông ấy,” Bà cảnh báo chúng tôi rằng ông bắt đầu nhìn thấy nhiều thứ. “Ông ấy nói chuyện với người vô hình,” bà lớn tiếng thì thầm trong khí ông vừa tha thẩn trong phòng vừa mút răng, “Ông ấy gọi tướng lên, cáigìkhôngbiết! Giữa canh khuya!” Và bà nhại ông: “Hô, Tai? Bác đấy à?” Bà kể cho lũ trẻ bọn tôi nghe về người lái đò, về con Chim ngân nga, và về Quận chúa xứ Cooch Naheen. “Ông lão tội nghiệp sống quá lâu, cáigìkhôngbiết; người làm cha không nên nhìn thấy con mình chết trước.”… Và Amina, lắng nghe, lắc đầu thông cảm, không hề biết rằng Aadam Aziz sẽ để lại cho bà di sản này – rằng cả bà, trong những ngày cuối đời, sẽ được những thứ chẳng có lý do gì để quay lại viếng thăm.

Chúng tôi không thể dùng quạt trần vì bụi; mồ hôi chảy xuống mặt người ông quỵ ngã của tôi và lưu lại những vệt bùn trên má ông. Thỉnh thoảng ông lại túm lấy bất cứ ai ở gần, rồi nói hết sức tỉnh táo: “Chừng nào chưa tự lập làm vua cha truyền con nối thì cái nhà Nehru[9] này chưa vừa lòng đâu!” Hoặc, nhểu dãi vào mặt Tướng Zulfikar đương rúm ró: “À, Pakistan bất hạnh! Giới cầm quyền phụng sự đất nước thật chả ra gì!” Nhưng những lúc khác dường như ông tưởng tượng ra mình đang ở trong một hiệu đá quý, và lẩm bẩm, “… Ừ: có ngọc lục bảo và hồng ngọc…” Con Khỉ thì thầm với tôi, “Ông sắp chết à?”

[9] Jawaharial Nehru là Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Con gái ông, Indira Gandhi, và cháu ngoại ông, Rajiv Gandhi, đều là Thủ tướng nước này.

Điều đã rỉ từ Aadam Aziz sang tôi: tính dễ tổn thương trước phụ nữ, và cả căn nguyên của nó, nghĩa là cái lỗ ở trung tâm của ông, hệ quả của thất bại của ông (mà cũng là của tôi) trong việc tin hoặc không tin ở Chúa. Và một điều nữa – điều mà, ở tuổi mười một, tôi nhận ra trước tất cả mọi người. Ông tôi đã bắt đầu rạn nứt.

“Ở đầu à?” Padma hỏi, “Ý ông là não có vấn đề?”

Lão lái đò Tai bảo: “Băng giá luôn rình rập, Aadam baba, ngay dưới mặt nước thôi.” Tôi nhìn thấy vết rạn trong mắt ông – một đường gân không màu, mỏng mảnh trên nền xanh; tôi thấy một mạng lưới những đường nứt lan tỏa dưới làn da sần sùi của ông; và tôi trả lời câu hỏi của con Khỉ: “Anh nghĩ vậy.” Khi bốn mươi ngày tang kỳ chưa kết thúc, da ông đã bắt đầu nứt và rụng và tróc; ông gần như không há miệng ăn được bởi vì khóe môi nứt nẻ; còn răng ông bắt đầu rụng lả tả như ruồi dính Flit[10]. Nhưng cái chết rạn nứt có thể rất chậm; và khá lâu sau chúng tôi mới biết về những vết nứt khác, về chứng bệnh gặm nhấm xương ông, khiến cuối cùng xương cốt ông rã tan thành bột trong cái bao dãi dầu mưa nắng từng là bộ da của ông.

[10] Một nhãn hiệu thuốc diệt côn trùng của Mỹ phổ biến trong thời kỳ 1930-1960.

Padma đột nhiên có vẻ hoảng hốt. “Ông nói gì vậy? Này ông: có phải ý ông là ông cũng… thứ quái quỷ gì lại ăn mòn được cả xương người? Có phải…”

Không có thời gian để dừng lại lúc này; không có thời gian để thông cảm hay sợ hãi; tôi đã đi xa hơn mức cần thiết. Lùi lại đôi chút về thời gian, tôi phải nói rằng cũng đã có một thứ từ tôi rỉ sang Aadam Aziz; bởi vì vào ngày thứ hai mươi ba của tang kỳ, ông yêu cầu toàn gia đình tập hợp trong chính căn phòng của bình pha lê (khỏi cần giấu chúng đi vì cậu tôi nữa) và nệm gối, và quạt trần bất động, chính căn phòng nơi tôi từng thông báo về những huyễn tưởng của mình… Mẹ Bề trên từng nói, “Ông ấy đã thành như một đứa trẻ”; như một đứa trẻ, ông tôi thông báo rằng, ba tuần sau khi biết tin về cái chết của đứa con trai mà ông ngỡ đang sống yên vui, ông đã tận mắt nhìn thấy Chúa, đức Chúa với cái chết mà ông đã cố gắng cả đời để tin vào. Và, như với một đứa trẻ, chẳng ai tin ông. Trừ một người… “Phải, nghe đây,” ông nói, lời ông là sự mô phỏng yếu ớt của giọng nói rền vang ngày xưa, “Ừ, Quận chúa? Ngài có đây không? Và Abdullah? Lại ngồi đi, Nadir, có tin mới đây – Ahmed đâu? Alia sẽ muốn nó có mặt… Chúa, các con ạ; Chúa, người ta đối kháng suốt cuộc đời. Oskar? Ilse? – Không, dĩ nhiên. Ta biết họ chết rồi. Các con nghĩ ta già rồi, khéo còn lẩn thẩn nữa; nhưng ta đã gặp Chúa.” Và câu chuyện, dù dông dài và ngắt quãng, nhưng đã từ từ hé lộ: lúc nửa đêm, ông tỉnh giấc trong căn phòng tối. Có ai đó ở đây – ai đó, không phải vợ ông. Mẹ Bề trên, vẫn ngáy trên giường. Nhưng có ai đó. Ai đó với lớp bụi phát sáng trên người, phản quang từ vầng trăng sắp lặn. Và Aadam Aziz, “Hô, Tai? Bác đấy à?” Và Mẹ Bề trên, ú ớ trong giấc ngủ, “Ối, ngủ đi, ông nó, quên chuyện đó đi…” Nhưng cái người nọ, cái vật nọ, lại kêu lên (làm ông) thảng thốt, “Đức Jesus Christ Toàn năng!” (Giữa đám bình pha lê mài, ông tôi cười hê hê với vẻ ăn năn, vì trót nhắc đến cái tên dị giáo.) “Đức Jesus Christ Toàn năng!” và ông tôi nhìn, và thấy, phải, hai bàn tay thủng lỗ chỗ, hai bàn chân rỗ liu riu, như ông từng thấy ở một… Nhưng ông dụi mắt, lắc lắc đầu, cất tiếng: “Ai? Tên gì? Nói gì thế?” Và nhân ảnh nọ, thảng thốt, và làm ông cũng thảng thốt, “Chúa! Chúa!” Và sau một khắc im lặng, “Ta không nghĩ là ông nhìn thấy ta.”

“Nhưng ta đã nhìn thấy Ông ta,” ông nói dưới những cánh quạt trần bất động. “Phải, ta không thể phủ nhận, chắc chắn ta đã thấy”… Và nhân ảnh: “Ông là người có đứa con trai mới chết”; và ông tôi, một cơn đau dậy lên trong ngực: “Tại sao? Tại sao lại thế?” Sinh vật nọ, sở dĩ hiện hình vì bụi phủ lên, đáp lời: “Chúa có lý do của mình, ông lão ạ; đời là thế mà, phải không?”

Mẹ Bề trên cho chúng tôi giải tán. “Ông lão không hiểu mình nói gì đâu, cáigìkhôngbiết. Đúng thật là, đầu hai thứ tóc rồi đâm ra báng bổ!” Nhưng Mary Pereira ra đi với gương mặt trắng bệch như ga trải giường; Mary biết Aadam Aziz đã nhìn thấy ai – người, mục rữa vì gánh chịu trách nhiệm về tội lỗi của cô, cả chân tay đều thủng lỗ chỗ; người bị rắn cắn xuyên gót chân; người đã chết trong ngọn tháp đồng hồ gần đó, và bị nhận nhầm là Chúa.

Tôi có thể kết thúc câu chuyện của ông tôi ngay ở đây, lúc này; tôi đã kể đến tận đây, và chưa chắc sau này sẽ còn cơ hội nữa… đâu đó thẳm sâu trong tình trạng lão suy của ông, cái tình trạng khiến tôi không khỏi nhớ đến sự điên rồ của giáo sư Schaapsteker ở tầng trên, đã bắt rễ ý niệm cay đắng rằng Chúa, với thái độ hờ hững trước việc Hanif tự sát, đã chứng tỏ ông ta có tội trong việc này; Aadam nắm chặt ve áo nhà binh của Đại tướng Zulfikar và thì thào: “Vì ta chưa bao giờ tin, hắn đã cướp con trai ta!” Và Zulfikar: “Không, không, Sahib Bác sĩ, ông đừng nên tự làm khổ mình…” Nhưng Aadam Aziz không bao giờ quên những gì ông đã thấy, dù chi tiết về vị thần linh cụ thể mà ông gặp cứ nhòa dần trong tâm trí ông, chỉ để lại một cơn thèm khát mãnh liệt và nhỏ dãi là được báo thù (một nỗi khao khát quen thuộc với cả hai chúng tôi)… khi kết thúc bốn mươi ngày tang kỳ, ông sẽ từ chối đi Pakistan (theo kế hoạch của Mẹ Bề trên) bởi đó là một đất nước được xây nên dành riêng cho Chúa; và trong những năm cuối đời ông thường gây tai tiếng khi lập cập chống gậy bước vào các thánh đường và đền thờ, buông lời chửi rủa và quật bất kỳ tín đồ hay giáo sĩ nào ở trong tầm gậy. Ở Agra, mọi người chịu đựng ông vì kính trọng đức độ của ông ngày trước; mấy ông già ở hàng trầu trên Đường Conrwallis chơi trò phụt-ống-nhổ và hồi tưởng trong niềm thương cảm về quá khứ của Sahib Bác sĩ. Mẹ Bề trên đành nhượng bộ ông, nếu không vì lý do nào khác thì chính là lý do này – tính đả phá tín ngưỡng trong hành vi lẩm cẩm của ông chắc chắn sẽ gây tai tiếng tại một đất nước nơi chẳng ai biết về ông.

Bên dưới những lẩn thẩn và giận dữ của ông, những vết nứt tiếp tục lan rộng; căn bệnh này gặm sồn sột xương ông, trong khi thù hằn ăn nốt những phần còn lại. Tuy nhiên, mãi đến 1964, ông mới qua đời. Chuyện xảy ra như sau: ngày thứ Tư, 25 tháng Mười hai năm 1963 – vào đúng Giáng sinh! – Mẹ Bề trên thức giấc, và không thấy chồng đâu. Chạy bổ ra sân nhà, giữa bầy ngỗng kêu phì phì và ánh hừng đông nhàn nhạt, bà gọi người giúp việc; và được báo rằng Sahib Bác sĩ đã bắt xe kéo chạy ra ga. Khi bà ra tới ga, tàu đã khởi hành; và cứ như thế ông tôi, nghe theo một niềm thôi thúc không tên, bắt đầu hành trình cuối cùng của mình, để ông có thể kết thúc câu chuyện của ông ở nơi đó (và chuyện của tôi) khởi đầu, tại một thành phố có núi non bao quanh và nằm trên mặt hồ.

Thung lũng náu mình trong chiếc vỏ trứng bằng băng, núi non đã tiến lại gần, như một hàm răng giận dữ ngoác miệng ngoạm lấy thành phố trên hồ… mùa đông ở Srinagar; mùa đông ở Kashmir. Vào thứ Sáu, ngày 27 tháng Mười hai, người ta trông thấy một người đàn ông trùng khớp về nhân dạng với ông tôi, khoác chugha, mồm chảy dãi, ở gần Thánh đường Hazratbal. Vào bốn giờ bốn mươi lăm phút sáng thứ Bảy, Haji Muhammad Khakil Ghanai phát hiện ra, ở nội điện của Thánh đường, vụ đánh cắp thánh tích trân quý nhất của thung lũng; sợi tóc thiêng của Đấng Tiên tri Muhammad.

Là ông? Không phải ông? Nếu là ông, vì sao ông không vào Thánh đường, gậy trong tay, và nện các tín đồ như ông đã quen làm? Nếu không phải ông, thì tại sao? Có tin đồn về một âm mưu của Chính quyền Trung ương “làm nhụt ý chí của cộng đồng Hồi giáo Kashmir”, bằng cách đánh cắp sợi tóc thiêng của họ; và cả những tin đồn trái chiều về các agent provocateur[11] của Pakistan, những kẻ chắc hẳn đã ăn trộm thánh tích nhằm châm ngòi bạo loạn… phải không? Hay không phải? Tai biến kỳ lạ này kỳ thực là một âm mưu chính trị, hay là nỗ lực tối hậu nhằm trả thù Đức Chúa của một người cha mất con? Trong mười ngày, không gian bếp đạo Hồi nào đỏ lửa; dân tình bạo động và đốt xe cộ; nhưng ông tôi nay đã đứng trên chính trị, và không ai thấy ông gia nhập một đoàn biểu tình nào. Ông là người mang một sứ mệnh đơn độc; và người ta chỉ biết rằng vào ngày 1 tháng Một năm 1964 (nghĩa là thứ Tư, chỉ một tuần sau khi ông rời Agra), ông hướng về quả đồi được các tín đồ đạo Hồi gọi một cách sai lầm là Takht-e-Sulaiman, ngai vàng của Solomon, trên đỉnh sừng sững một cột phát thanh, và nốt rộp đen hình ngôi đền của Acharya[12] Sankara. Bỏ lại sau cơn hoang mang của cả thành phố, ông trèo lên; trong khi chứng rạn nứt bên trong cần mẫn gặm mòn xương ông. Không ai nhận ra ông.

[11] Những đối tượng được thuê để kích động người khác có hành vi phạm pháp.

[12] Người có đạo hạnh, đóng vai trò hướng dẫn tín đồ tụ tập tôn giáo. (Adi) Shankara là một bậc thầy có tầm ảnh hưởng rộng lớn của Ấn Độ giáo (sinh/mất vào khoảng 788-820 Công nguyên).

Bác sĩ Aadam Aziz (đã về lại Heidelberg)chết năm ngày trước khi Chính quyền thông báo cuộc truy tìm quy mô lớn sợi tóc độc nhất của Nhà Tiên tri đã thắng lợi. Khi các bậc rất thánh của Quốc gia tề tựu để xác minh sợi tóc, ông tôi chẳng thể cho họ biết sự thật được nữa. (Nếu họ nhầm… nhưng tôi không thể giải đáp câu hỏi tôi vừa đặt ra.) Bị bắt – và sau đó được phóng thích do sức khỏe yếu – là một gã Abdul Rahim Bande nào đó; nhưng có lẽ ông tôi, ví thử ông còn sống, sẽ rọi một ánh sáng kỳ lạ hơn vào vụ này… giữa trưa ngày 1 tháng Một, Aadam Aziz lên đến ngoài đền Sankara Acharya. Người ta thấy ông vung cây can lên; trong đền, những người đàn bà đang làm lễ puja trước bệ Shiva-linga[13] rụt lại – như đàn bà từng rụt lại trước cơn thịnh nộ của một bác sĩ khác, bị ám ảnh về tetrapod; vừa lúc đó rạn nứt chiếm lĩnh ông, chân ông rũ xuống trong khi xương ông tan rã, và chấn động của cú ngã khiến bộ xương ông vỡ nát không thể nào cứu vãn. Người ta nhận ra ông nhờ những giấy tờ trong túi áo chugha: một bức ảnh đứa con trai, và lá thư viết dở (và may thay, đề đúng địa chỉ) gửi vợ mình. Thi hài ông, không vận chuyển được vì quá dễ vỡ, được chôn cất tại thung lũng nơi ông sinh ra.

[13] Bệ thờ hình linga, tượng trưng cho thần Shiva.

Tôi quan sát Padma; cơ bắp của cô có dấu hiệu co giật một cách lơ đãng. “Thử nghĩ xem,” tôi nói, “chuyện xảy ra với ông tôi chẳng phải rất kỳ quái hay sao? Thử so sánh nó với riêng sự thật về những om sòm rất thánh quanh vụ trộm một sợi tóc; bởi từng chi tiết của nó đều là thật, và nếu đem so sánh, thì cái chết của mọi ông già khác chắc chắn là hết sức bình thường.” Padma có vẻ thư giãn; cơ bắp cô phát ra tín hiệu cho tôi tiếp tục. Bởi vì tôi đã dừng lại ở Aadam Aziz quá lâu; có lẽ vì tôi sợ hãi điều tiếp theo tôi phải kể; nhưng mạc khải là điều không thể tránh khỏi.

Một thông tin cuối cùng: sau cái chết của ông tôi, Thủ tướng Jawaharhal Nehru lâm bệnh và không bao giờ hồi phục. Căn bệnh hiểm nghèo này rốt cuộc đã giết chết ông vào ngày 27 tháng Năm năm 1964.

Nếu lúc trước tôi không định làm anh hùng, Zagallo đã chẳng giật tóc tôi. Nếu tóc tôi vẫn còn nguyên vẹn, Keith Nội tiết với Perce Béo đã chẳng trêu tôi; Masha Miovic đã không dụ tôi đến chỗ mất ngón tay. Và từ ngón tay tôi trào ra dòng máu không-phải-Alpha-cũng-như-Omega, và đẩy tôi vào cảnh lưu đày; và ở nơi lưu đày trong tôi trỗi dậy niềm khao khát báo thù dẫn đến vụ sát hại Homi Catrack; và nếu Homi không chết, có lẽ cậu tôi sẽ không bước từ mái nhà ra giữa làn gió biển; và rồi ông tôi sẽ không tới Kashmir và bị vỡ vụn vì gắng sức leo lên đồi Sankara Acharya. Mà ông tôi lại là người sáng lập ra gia đình tôi, và số phận của tôi lại gắn liền, qua ngày sinh của tôi, với vận mệnh của đất nước tôi, mà người cha của đất nước này là Nehru. Cái chết của Nehru: liệu tôi có thể né tránh cái kết luận rằng, kể cả điều này, cũng là lỗi của tôi?

Nhưng giờ chúng ta trở lại với năm 1958; bởi vì vào ngày thứ ba mươi bảy của tang kỳ, sự thật, vốn hằng rình rập Mary Pereira – và do đó rình rập tôi – trong hơn mười một năm, cuối cùng đã được phơi bày; sự thật, trong hình hài một người đàn ông già, rất già, người mà mùi hôi thối của Địa ngục xộc thẳng vào cả hai lỗ mũi bị nghẹt của tôi, người bị rụng ngón tay ngón chân còn cơ thể thì tứ tung mụn nhọt và lỗ thủng, leo lên ngọn đồi hai tầng nhà chúng tôi, và từ vùng mây bụi hiện ra trước mắt Mary Pereira đang lau chùi những tấm mành sáo ở hiên nhà.

Tại đây, lúc này, ác mộng của Mary đã thành hiện thực; tại đây, hiện hình sau màn bụi, là hồn ma của Joe D’Costa, đang đi đến văn phòng ở tầng trệt của Ahmed Sinai! Như thể việc hiện thân trước Aadam Aziz là chưa đủ… “Arre, Joseph,” Mary rú lên, đánh rơi mảnh giẻ lau, “anh đi ngay đi! Đừng có đến đây! Đừng đem những khổ sở của anh đến làm phiền các sahib! Chúa ơi, Joseph, đi, đi mau, anh định giết tôi hôm này à!” Nhưng hồn ma đã đi đến con đường vào nhà.

Mary Pereira, bỏ mặc đám mành sáo, để kệ chúng treo xiên xẹo, lao vào trung tâm ngôi nhà, phủ phục dưới chân mẹ tôi – đôi tay nhỏ múp míp chắp lại cầu xin – “Begum Sahiba! Begum Sahiba, tha thứ cho con!” Và mẹ tôi, ngỡ ngàng: “Cái gì thế này, Mary? Ai làm gì cô nào?” Nhưng Mary không còn tâm trí để đối thoại, cô khóc lóc điên cuồng, nức nở: “Lạy Chúa giờ của con đã điểm, Bà kính mến, chỉ xin bà cho con ra đi yên ổn, đừng bắt con vào jailkhana[14]!” Rồi thì, “Mười một năm, thưa Bà, bà xem con có một lòng yêu quý nhà ta không, hở Bà, cả cậu bé mặt như trăng rằm kia nữa; nhưng giờ thì con xong rồi, con là đồ đàn bà xấu xa, con sẽ chết cháy dưới hỏa ngục! Funtoosh!” Mary rền rĩ, và một lần nữa, “Hết cả rồi; funtoosh!”

[14] Jail trong tiếng Anh nghĩa là nhà tù. Đây là một từ được Ấn hóa (jail + khana) và vẫn mang nghĩa này.

Tôi vẫn chưa đoán ra điều gì sắp đến; ngay cả khi Mary ôm choàng lấy tôi (giờ tôi đã cao hơn cô; nước mắt cô thấm ướt cổ tôi): “Ôi, baba, baba; hôm nay con phải biết một việc, một việc ghê gớm ta đã làm; nhưng giờ hãy theo ta…” và người đàn bà nhỏ bé ấy thẳng người đứng dậy với một khí phách phi thường,”… tôi sẽ nói ra tất cả trước tên Joseph ấy. Begum, các cháu, tất cả các ông các bà, xin mọi người vào văn phòng của Sahib, và tôi sẽ nói.”

Đời tôi được đánh dấu bằng những lời tuyên bố công khai; Amina tại một con hẻm Delhi, còn Mary ở một văn phòng không ánh mặt trời… cả đại gia đình lũ lượt theo sau với vẻ ngỡ ngàng, tôi đi xuống lầu cùng Mary Pereira, người không ngừng nắm chặt tay tôi.

Thứ gì ở trong phòng với Ahmed Sinai? Thứ gì đã đem đến cho cha tôi một nét mặt trên đó tửu tinh và tiền bạc bị xua đi và thay thế bởi một cái nhìn của nỗi thống khổ cùng cực? Thứ gì ngồi rúm ró ở góc phòng, phả đầy mùi trứng thối vào không khí? Thứ gì, hình dáng tựa như người, mất ngón tay và ngón chân, gương mặt sùi bong bóng như suối nước nóng ở New Zeland (mà tôi đã thấy trong Cuốn sách Kỳ diệu về Những kỳ quan)?... Không còn thời gian giải thích nữa, vì Mary đã bắt đầu nói, líu ríu tiết lộ một bí mật được che giấu đã hơn mười một năm, lôi tất cả chúng tôi ra khỏi cõi mộng mà cô đã tạo nên khi tráo thẻ tên, đẩy chúng tôi vào nỗi kinh hoàng của sự thật. Và suốt khoảng thời gian ấy, cô ấp ủ tôi; như một người mẹ bảo vệ đứa con, cô che chắn tôi trước gia đình tôi. (Những người sắp sửa biết… cũng như tôi… rằng họ không phải là…)

… Lúc ấy vừa quá nửa đêm và ở ngoài đường họ bắn pháo hoa và tụ tập, con quái vật nhiều đầu gầm rú, tôi làm thế vì Joseph của tôi, Sahib, nhưng xin đừng bắt tôi vào tù, thằng bé là một đứa trẻ ngoan, Sahib, tôi là một người đàn bà khốn khổ, Sahib, chỉ một sai lầm, chỉ một phút trong bấy nhiêu năm, đừng jailkhana mà Sahib, tôi sẽ đi, mười một năm tôi cống hiến nhưng tôi sẽ đi ngay, Sahib, chỉ có điều đây là một thằng bé ngoan, Sahib, ngài không được đuổi nó đi, Sahib, sau mười một năm nó là con trai ngài… Ôi, bé con có gương mặt như mặt trời mới mọc. Ôi bé Saleem mảnh trăng của ta, con phải biết rằng cha con là Winkie còn mẹ con đã qua đời…

Mary Pereira chạy ra khỏi phòng.

Ahmed Sinai lên tiếng, với một giọng xa xăm như tiếng chim: “Kia, trong góc nhà, là lão đầy tớ già Musa, kẻ từng một lần ăn cắp của ta.”

(Có câu chuyện nào chịu nổi nhiều thế từ sớm thế không? Tôi liếc sang Padma; xem ra cô bị choáng, như một con cá.)

Ngày xửa ngày xưa, có một người hầu, kẻ ăn cắp của cha tôi; kẻ thề rằng hắn vô tội; kẻ tự nguyện rằng bệnh hủi sẽ giáng xuống đầu nếu hắn là tên dối trá; kẻ đã bị chứng minh là nói dối. Hắn bỏ đi trong ô nhục; nhưng từ hồi đó tôi đã bảo hắn là một trái bom hẹn giờ, và hắn đã quay về để phát nổ. Quả thật, Musa đã mắc chứng hủi; và đã vượt qua sự im lặng suốt ngần ấy năm quay về xin cha tôi tha thứ, để lão được giải thoát khỏi lời nguyền tự gieo này.

… Một kẻ được gọi là Chúa dù không phải Chúa; một kẻ khác bị nhầm là ma, nhưng không phải ma; và một người thứ ba phát hiện ra rằng mặc dù tên hắn là Saleem Sinai, hắn không phải là con của cha mẹ hắn…

“Ta tha thứ cho ngươi,” Ahmed Sinai bảo lão hủi. Kể từ hôm đó, ông đã được chữa khỏi một trong các chứng ám ảnh của mình; ông không bao giờ cố gắng khám phá lời nguyền (hoàn toàn hư cấu) của dòng họ nữa.

“Tôi chẳng biết kể theo cách nào khác,” tôi bảo Padma. “Quá đau đớn; tôi đành huỵch toẹt ra, một cách nghe thật điên rồ, như vậy thôi.”

“Ôi, thưa ông,” Padma òa khóc nức nở, “Ôi, thưa ông, thưa ông!”

“Thôi nào,” tôi nói, “Chuyện qua đã lâu rồi.”

Nhưng nước mắt của cô không dành cho tôi, lúc này đây, cô đã quên mất thứ-gặm-mòn-xương-dưới-lớp-da; cô đang khóc vì Mary Pereira, người mà, như tôi đã nói, cô đã trở nên đặc biệt có cảm tình.

“Thế rồi cô ấy ra sao?” cô hỏi, mắt đỏ hoe. “Cô Mary ấy?”

Một cơn giận vô cớ bỗng siết chặt tôi. Tôi hét: “Cô đi mà hỏi cô ta!”

Hỏi cô ta đã về quê ở thành phố Panjim thuộc bang Goa ra sao, hỏi cô ta đã kể cho người mẹ già nua về câu chuyện nhục nhã của mình thế nào! Hỏi cô ta xem bà mẹ đã nổi điên khi biết về vụ tai tiếng ấy ra sao! (vừa khéo thay: đó là thời kỳ người già dễ mất đi óc minh mẫn)! Hỏi xem: cô con gái và bà mẹ có ra đường để tìm kiếm sự tha thứ? Có phải đấy là thời điểm mười năm một lần xác ướp của Thánh Francis Xavier (linh thiêng không kém sợi tóc của Đấng Tiên tri) được đem ra từ hầm mộ ở Nhà thờ Bom Jesus và diễu hành quanh thành phố? Có phải Mary và cụ bà Pereira quẫn trí đều phủ phục lên cỗ linh xa; có phải bà lão đã hóa dại vì đau khổ trước tội lỗi của con gái? Có phải bà Pereira, miệng than, “Ôi! Hỡi ôi! Ôi hỡi ôi!”, đã trầy trật trèo lên linh sàng nhằm hôn chân Đức Thánh? Giữa đám đông vô kể, có phải bà lão Pereira đã phát cơn cuồng đạo? Hỏi xem! Có hay không việc bà lão, trong cơn kích động điên cuồng, đã đặt môi quanh ngón cái của bàn chân trái của Thánh Francis? Hãy tự hỏi xem: có phải mẹ của Mary đã cắn đứt ngón chân ấy?

“Sao?” Padma rền rĩ, khiếp đảm trước cơn giận của tôi. “Sao, hỏi gì?”

… Và chuyện này có đúng không: có phải báo chí đã dựng chuyện khi đưa tin bà cụ đã bị thần linh trừng phạt; khi họ trích dẫn nguồn tin từ Giáo hội và các nhân chứng, mô tả cảnh bà cụ bị hóa đá ra sao? Không à? Hỏi cô ta xem có phải Giáo hội đã cho diễu bức tượng đá hình một bà già khắp các thành phố làng mạc ở Goa, cho tất cả thấy điều gì xảy đến với những kẻ mạo phạm “thánh thần”? Hỏi xem: có phải người ta đã trông thấy bức tượng cùng lúc tại mấy làng – và có phải thế là giả mạo, hay là một phép mầu còn lớn lao hơn?

“Ông thừa biết em chẳng hỏi ai được,” Padma tru tréo… nhưng tôi, cảm thấy cơn giận đã lắng xuống, sẽ không mạc khải gì nữa trong đêm nay.

Nói trắng ra thì: Mary Pereira rời bỏ chúng tôi, và đi về nhà mẹ ở Goa. Nhưng Alice Pereira vẫn ở lại; Alice tiếp tục làm việc ở văn phòng của Ahmed Sinai, đánh máy, đưa đồ ăn nhẹ và nước uống có ga.

Về phần tôi – khi tang kỳ của cậu Hanif kết thúc, tôi bước vào chuyến lưu đày thứ hai.