Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 20 - Phần 1

Chương 20: Cuộc hành quân của lọ gia vị

Tôi buộc lòng đi đến kết luận rằng Shiva, kình địch của tôi, người anh em tráo đổi của tôi, sẽ không được vào diễn đàn của tâm trí tôi nữa; vì những lý do tôi phải thừa nhận là thấp hèn. Tôi sợ hắn sẽ khám phá ra cái điều mà tôi biết chắc mình sẽ không giấu nổi hắn – bí mật về sự ra đời của chúng tôi. Shiva, người coi thế giới là vật chất, người cho rằng chỉ có thể kiến giải lịch sử như một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của cá-nhân-chống-lại-đám-đông, chắc chắn sẽ quyết tâm đòi lại quyền vị khi chào đời của hắn; và; khiếp đảm trước ý nghĩ gã địch thủ đầu gối gõ nhau sẽ thế chỗ mình tại căn phòng màu xanh của tôi thời thơ ấu, trong khi tôi, lẽ tất nhiên, phải rầu rĩ rời bỏ quả đồi hai tầng để đến với khu ổ chuột phía Bắc thành phố; nhất định không thừa nhận rằng lời tiên đoán của Ramram Seth là dành cho con trai của Winkie, rằng Shiva mới là người được Thủ tướng viết thư cho, và vì Shiva ngư phủ mới chỉ về phía biển… tóm lại, định cho mười một năm làm con của tôi một giá trị vượt xa huyết thống đơn thuần, tôi quyết rằng bản thể đối lập mang xu hướng hủy diệt và bạo lực của tôi sẽ không bao giờ được tham gia những cuộc họp ngày càng bè phái của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm nữa; rằng tôi sẽ bảo vệ bí mật của tôi – và đã từng của Mary - bằng cả tính mạng mình.

Thời kỳ này, có những đêm tôi tránh không nhóm họp Hội nghị gì cả - không phải vì sự chuyển hướng đáng thất vọng của nó, mà chẳng qua vì tôi biết, để dựng lên một rào chắn bao quanh hiểu biết mới của tôi và ngăn được lũ trẻ tiếp cận nó thì phải có thời gian, và máu lạnh; sau cùng, tôi đã tự tin là mình sẽ làm được… nhưng tôi lại sợ Shiva. Hung bạo và mạnh mẽ nhất trong Lũ trẻ, hắn sẽ đột nhập được vào nơi kẻ khác không vào được. Ở mọi hoàn cảnh, tôi né tránh các bạn thiếu niên đồng bào[1], và rồi đột nhiên tất cả trở nên quá muộn, bởi vì, sau khi đã lưu đày Shiva, tôi phát hiện ra mình cũng bị ném vào một chuyến lưu đày mà từ đó tôi không thể liên lạc với hơn năm trăm đồng nghiệp của mình nữa: tôi bị quẳng qua đường biên giới ra-đời-từ-Chia-cắt sang Pakistan.

[1] Fellow-Children đọc gần giống Fellow-Citizen (quốc dân đồng bào).

Cuối tháng Chín năm 1958, tang kỳ của cậu tôi Hanif Aziz đến hồi kết thúc; và kỳ diệu thay, đám mây bụi vẫn bao phủ chúng tôi được một trận mưa rào lành làm nắng xuống. Khi đã tắm rửa và mặc quần áo mới giặt và bật quạt trần lên, chúng tôi bước ra từ nhà tắm, lòng ngập tràn, trong chốc lát, một niềm lạc quan ảo tưởng của sự sạch sẽ còn tươi mùi xà phòng; và tìm thấy một Ahmed Sinai bụi bặm, chưa tắm rửa, tay cầm chai whisky, mắt vằn máu, ngả nghiêng leo từ văn phòng lên lầu dưới ách kiềm tỏa mê loạn của tửu tinh. Ông tiếp tục đánh vật, trong thế giới trừu tượng của riêng ông, với những hiện thực không ai ngờ nổi mà mạc khải của Mary đã giải phóng ra; và dưới tác động quắc cần câu của rượu, đã nổi một trận lôi đình khôn bề tả xiết mà ông trút lên, không phải Mary đã quay gót ra đi, cũng không phải đứa bé bị tráo ở bên ông, mà là mẹ tôi – hay, tôi nên gọi, là Amina Sinai. Có lẽ vì biết mình phải xin bà tha thứ, nhưng sẽ không làm, Ahmed Sinai rủa xả vợ hàng giờ trước sự choáng váng của gia đình bà; tôi sẽ không nhắc lại những cái tên ông đã gọi bà, hay những nẻo đường ti tiện ông khuyên bà nên chọn cho đời mình. Nhưng rốt cuộc Mẹ Bề trên là người đã ra tay can thiệp.

“Đã một lần, con gái ta,” bà lên tiếng, phớt lờ Ahmed vẫn đang lèm bèm,: “cha con và ta, cáigìkhôngbiết, nói rằng không có gì phải xấu hổ khi từ bỏ một kẻ không đáng mặt làm chồng. Giờ ta nói lại: con có, cáigìkhôngbiết, một người chồng ti tiện không lời nào tả xiết. Bỏ hắn đi; ngay hôm nay, và đem lũ trẻ, cáigìkhôngbiết, đi xa khỏi những lời chửi rủa mà hắn phun ra khỏi mép như thứ súc vật, cáigìkhôngbiết, đầu cống miệng rãnh. Ta nói, đưa lũ trẻ đi, cáigìkhôngbiết - cả hai đứa,” bà nói, ghì chặt tôi vào ngực. Một khi Mẹ Bề trên đã hợp pháp hóa tôi, chẳng có ai phản đối bà; giờ đây nhìn lại, sau nhiều năm, tôi thấy dường như cả người cha lèm bèm chửi bới của tôi cũng bị tác động bởi sự hậu thuẫn bà dành cho đứa bé thò lò mười một tuổi.

Mẹ Bề trên an bài tất cả; mẹ tôi giống như mát tít - đất sét của chợ gốm - dưới bàn tay toàn năng của bà. Thời điểm đó, bà tôi (tôi phải tiếp tục gọi bà như thế) vẫn tin rằng bà và Aadam Aziz sẽ sớm sang Pakistan định cư; vì vậy bà dặn dì Emerald đem tất cả chúng tôi theo – Amina, con Khỉ, tôi, kể cả mợ Pia - rồi đợi bà sang sau. “Chị em thì phải đùm bọc nhau, cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên bảo, “những khi hoạn nạn.” Dì Emerald khó chịu ra mặt; nhưng cả dì và Đại tướng Zulfikar vẫn tuân lời. Và, do cha tôi đang trong một tình trạng điên dại khiến chúng tôi lo sợ cho an toàn của mình, và vì nhà Zulfikar đã đặt vé trên một chuyến tàu nhổ neo đêm đó, tôi rời ngôi nhà đã gắn bó suốt đời ngày hôm ấy, để Ahmed Sinai lại một mình với Alice Pereira; bởi vì khi mẹ tôi rời bỏ người chồng thứ hai, tất cả người hầu cũng bỏ đi.

Ở Pakistan, giai đoạn phát triển vũ bão thứ hai của tôi kết thúc. Và, ở Pakistan: tôi phát hiện ra: không rõ vì sao sự tồn tại của đường biên giới đã “làm nhiễu” việc thu phát suy nghĩ của tôi với hơn-năm-trăm-đứa-trẻ; do đó, không chỉ một lần nữa bị lưu đày khỏi nhà mình, tôi còn bị lưu đày khỏi tặng vật trời ban cho chỉ tôi và chính tôi khi chào đời: món quà của những đứa trẻ nửa đêm.

Chúng tôi buông neo ngoài Rann xứ Kutch[2]vào một chiều oi bức, Cái nóng vo ve bên tai điếc của tôi; nhưng tôi quyết định ở lại trên boong, ngắm từng chiếc ghe nhỏ, phảng phất báo điềm gở và dhow của dân chài làm dịch vụ chở hàng giữa tàu của chúng tôi và Rann, vận chuyển những đồ vật phủ bạt đen qua lại, qua lại. Dưới khoang tàu, người lớn chơi bài bingo; tôi chịu không rõ con Khỉ đang ở đâu. Đây là lần đầu tiên tôi đi tàu thật sự (mấy lần lên thăm tàu chiến Mỹ ở cảng Bombay chỉ là đi tham quan, không tính; chưa kể sự bối rối khi đi cùng hàng chục bà bầu bụng chửa vượt mặt, những người luôn tham gia những đoàn du khách này với hy vọng mình sẽ lâm bồn và sinh ra những đứa trẻ co tư cách mang quốc tịch Mỹ, do ra đời trên biển). Tôi chăm chú nhìn Rann qua màn hơi nóng. Rann xứ Kutch… Tôi luôn nghĩ đó là một cái tên huyền bí, và nửa-sợ-nửa-mong được đến đây, khu vực tắc kè hoa nửa năm là đất còn nửa năm là biển này, nơi người ta đồn rằng đại dương khi rút đi sẽ bỏ lại đủ thứ phế tích kỳ dị, như rương châu báu, xác sứa trắng như ma, và đôi khi cả những hình thù quái dị-truyền kỳ còn ngáp ngoải của nhân ngư. Lần đầu chiêm ngưỡng dải đất lưỡng thê này, vũng lầy của ác mộng này, đáng lẽ tôi phải cảm thấy hưng phấn; nhưng oi bức và những sự kiện vừa qua vẫn làm tâm tình tôi trĩu nặng; môi trên của tôi hãy còn ướt nước mũi như con nít, nhưng tôi đã bị đè nặng bởi xúc cảm của việc bước từ một thời thơ ấu quá dài và thò lò mũi xanh sang tuổi trưởng thành quá sớm (tuy còn chảy mũi). Giọng tôi trầm xuống; tôi phải bắt đầu cạo râu; và mặt tôi lấm chấm nốt máu ở chỗ dao cạo đã gọt đi những đầu trứng cá… người quản lý đi qua bảo tôi, “Nên xuống dưới thì hơn, con trai. Giờ này đang nóng nhất đấy.” Tôi hỏi về những chuyến ghe chở hàng. “Tiếp tế ấy mà,” ông ta đáp rồi bỏ đi, để tôi lại ngẫm nghĩ về một tương lai chả có gì đáng mong đợi, ngoài sự hiếu khách miễn cưỡng của Đại tướng Zulfikar, kiểu tự mãn hợm hĩnh của dì Emerald, người không nghi ngờ gì sẽ thích thú phô trương sự thành đạt và địa vị trần tục của mình với bà chị gái đau khổ và bà chị dâu góa bụa, và thái độ vênh váo đầu teo chân tay to của Zafar con họ… “Pakistan”, tôi nói to, “Đúng là cái xứ rác rưởi!” Thế mà chúng tôi thậm chí còn chưa đến nơi… Tôi nhìn đoàn ghe, chúng như đang chèo xuyên qua màn sương váng vất. Boong tàu dường như cũng lắc lư dữ dội, mặc dù trời đang gần như lặng gió; và dù tôi cố bám vào lan can, sàn tàu vẫn quá nhanh so với tôi: nó lao đến và đập thẳng vào mũi tôi.

[2] Rann trong tiếng Hindi là hoang mạc. Rann of Kutch là vùng đồng lầy ngập mặn lớn, nằm vắt qua biên giới giữa tỉnh Kutch ở bang Gujarat thuộc Ấn Độ và tỉnh Sindh của Pakistan.

Tôi đã tới Pakistan như vậy đấy, với một cơn say nắng nhẹ để bổ sung cho hai bàn tay trắng, và kiến thức về sự ra đời của mình; mà tên của con tàu là gì nhỉ? Đôi tàu chị em nào dạo ấy vẫn chạy tuyến Bombay và Karachi trước khi chính trị chấm dứt hành trình của chúng? Tàu của chúng tôi là S.S.Sabarmati; chiếc chị em của nó, vừa qua mặt chúng tôi trước khi tàu cập cảng Karachi, là Sarasvati. Chúng tôi cưỡi động cơ hơi nước đi đày trên con tàu mang tên viên Trung tá, một lần nữa cho thấy ta không thể nào thoát khỏi sự trùng hiện.

Chúng tôi đến Rawalpindi trên một chuyến tàu nóng, bụi mù. (Viên Tướng và Emerald đi khoang Có Điều Hòa; họ mua cho chúng tôi vé hạng nhất bình thường.) Nhưng khi đến Pindi trời đã mát và tôi đặt chân, lần đầu trong đời, đến một thành phố miền Bắc… Tôi nhớ đấy là một đô thị hạng thấp, không có gì nổi bật; trại lính, hàng hoa quả, một ngành sản xuất đồ thể thao; những người nhà binh cao lớn ngoài phố; xe Jeep; thợ khắc gỗ; polo[3]. Một thành phố có thể trở nên rất, rất lạnh. Và trong một khu quy hoạch đô thị mới và đắt đỏ, một tòa nhà đồ sộ có tường cao cắm dây thép gai bao quanh và lính gác đi tuần: nhà của Đại tướng Zulfikar. Cạnh chiếc giường đôi của đức ông Đại tướng có một bồn tắm; trong nhà có một khẩu lệnh: “Chấn chỉnh lại đi!”; người hầu mặc quân phục và đội mũ nồi xanh; buổi tối mùi bhang và chara[4] bốc lên từ nơi ở của họ. Đồ đạc trong nhà đắt tiền và đẹp một cách bất ngờ; thẩm mỹ của Emerald không chê vào đâu được. Đây là một ngôi nhà ảm đạm, thiếu sinh khí, vì cái không khí nhà binh của nó; kể cả lũ cá vàng trong bể ốp tường ở phòng ăn dường như cũng nhả bong bóng một cách uể oải; có lẽ cư dân thú vị nhất của tòa nhà thậm chí không phải là người. Quý vị chắc sẽ cho phép tôi, trong giây lát, mô tả về con chó Bonzo của ngài Đại tướng. Xin lỗi: con chó cái già săn thỏ của ngài Đại tướng.

[3] Môn thể thao du nhập từ Anh, luật giống khúc côn cầu, nhưng người chơi cưỡi ngựa và thi đấu trên cỏ.

[4] Bhang là hỗn hợp lá và hoa của cây cannabis (còn gọi là marijuana) cái, dùng làm thuốc hút hoặc đồ uống. Charas là chiết xuất nhựa cây cannabis, dùng làm thuốc phiện.

Sinh vật già nua mong manh bị bướu cổ này đã sống một đời cực kỳ lười nhác và vô dụng; nhưng trong lúc tôi hồi phục sau cơn say nắng, nó đã là tác giả vụ náo nhiệt đầu tiên từ khi chúng tôi ở đây - một kiểu trailer[5] cho “cuộc cách mạng của lọ gia vị”. Một hôm Đại tướng Zulfikar đưa nó tới thao trường, nơi ông ta sẽ quan sát một nhóm lính dò mìn thao diễn tại một bãi mìn được chuẩn bị đặc biệt. (Đại tướng khao khát cho rải mìn toàn bộ biên giới Ấn-Pak. “Chấn chỉnh lại đi!” ông ta sẽ quát. “Hãy cho bọn Hindu ấy có cái mà lo sợ! Ta sẽ cho lũ xâm lược ấy nổ tan xác, chẳng còn quái gì mà đầu thai nữa.” Tuy nhiên, ông ta không đặc biệt quan tâm tới biên giới Đông Pakistan, với quan điểm là “lũ mọi đen ấy tự biết lo thân.”)… Và lúc này Bonzo giằng tuột dây, và bằng cách nào đó thoát khỏi những bàn tay hớt hải vồ bắt của đám jawan trẻ, lạch bạch đi vào bãi mìn.

[5] Một đoạn phim ngắn, đóng vai trò giới thiệu, quảng bá cho một bộ phim sắp được công chiếu.

Kinh hoàng tột độ. Toán lính mìn dò dẫm như một đoạn phim quay chậm đầy khiếp đảm ra khỏi vùng phát nổ. Tướng Zulfikar và các sĩ quan hụp xuống nấp sau đài quan sát, chờ đợi vụ nổ… Nhưng chẳng có gì; và khi những tinh hoa của Quân đội Pakistan từ trong thùng rác hay sau băng ghế ló ra, họ thấy Bonzo tao nhã bước đi giữa thửa ruộng gieo toàn hạt chết chóc, mũi gí sát đất, Bonzo-kẻ-vô-ưu, rất đỗi ung dung. Đại tướng Zulfikar ném chiếc mũ lưỡi trai lên trời. “Quá tuyệt vời!” ông ta kêu lên bằng cái giọng mỏng quẹt len từ giữa mũi và cằm ra, “Lão phu nhân đây đánh hơi được mìn!” Bonzo được tuyển mộ ngay lập tức vào quân ngũ, giữ vai trò lính-dò-mìn-bốn-chân mang quân hàm thượng sĩ.

Tôi đề cập đến thành tích của Bonzo vì nó cho Đại tướng cây gậy để đả chúng tôi. Đám người nhà Sinai chúng tôi – và Pia Aziz – là những thành viên vô tích sự, năng suất lao động bằng không trong gia đình Zulfikar, và Đại tướng không muốn chúng tôi quên điều đó. “Đến một con chó săn thỏ già cốc đế còn biết tự nuôi thân,” chúng tôi nghe được ông ta lẩm bẩm, “thế mà nhà này lại đầy những kẻ không biết tự chấn chỉnh bản thân cho ra hồn.” Nhưng trước khi tháng Mười kết thúc ông ta sẽ phải biết ơn (ít nhất là) về sự có mặt của tôi… và sự lột xác của con Khỉ cũng không còn xa nữa.

Bọn tôi đi học cùng ông em họ Zafar, cái thằng không còn háo hức cưới em gái tôi lắm nữa khi chúng tôi nay đã là con một gia đình đỗ vỡ; nhưng vụ mất mặt nhất của nó xảy ra vào một cuối tuần khi chúng tôi được đưa đến căn nhà nghỉ trên núi của Đại tướng ở Nathia Gali, trên Murree một quãng. Tôi đang trong tình trạng rất hưng phấn (bệnh của tôi mới khỏi): núi non! Biết đâu sẽ có cả báo! Trời lạnh và rét buốt! – vì thế tôi chẳng nghĩ ngợi gì khi Đại tướng hỏi tôi có thể ngủ chung giường với Zafar không, và thậm chí không đoán ra khi họ trải một tấm cao su trên đệm… Tôi tỉnh giấc sau nửa đêm giữa một vũng tướng chất lỏng âm ấm, khai nồng và bắt đầu la cứu mạng. Ngài Đại tướng xuất hiện bên giường và bắt đầu đánh thằng con tơi bời hoa lá. “Mày lớn bằng này rồi! Khốn kiếp! Vậy mà mày vẫn thế! Chấn chỉnh lại đi! Đồ vô dụng! Có ai cư xử khốn nạn như mày không? Chỉ lũ hèn nhát mới thế! Trời nguyền rủa tao nếu tao có thằng con hèn nhát…” Tật đái dầm của Zafar em họ tôi, tuy vậy, tiếp tục là nỗi hổ thẹn của gia đình; bất chấp đòn roi, chất lỏng ấy vẫn chảy dọc chân nó; và một hôm điều này xảy ra lúc nó đang thức. Nhưng đấy là sau khi một số nước đi nhất định đã, nhờ sự phụ tá của tôi, được thực hiện bằng lọ gia vị, cho tôi thấy tuy ở đất nước này sóng ngoại cảm bị nhiễu, các chế độ liên kết hình như vẫn vận hành; một cách chủ động-nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, tôi đã góp phần thay đổi vận mệnh của Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết.

Con Khỉ Đồng và tôi, ngày ấy, là những nhân chứng bất lực trước cảnh mẹ tôi ngày một héo hon. Bà, người luôn cần mẫn trong cái nóng, đã bắt đầu héo tàn dưới cái lạnh phương Bắc. Bị tước đi hai người chồng, bà đồng thời bị tước đi (trong mắt bà) ý nghĩa cuộc sống; rồi còn có một mối quan hệ cần vun đắp lại, giữa mẹ và con trai. Một đêm bà siết chặt tôi và nói, “Yêu thương, con ta, là một điều người mẹ học được; nó không ra đời cùng đứa trẻ, mà hun đúc theo thời gian; và trong mười một năm, mẹ đã học yêu con như con trai của mẹ.” Nhưng đằng sau vẻ dịu dàng của bà là một sự xa cách, như thể bà đang thuyết phục chính mình… cũng sự xa cách này, trong tiếng thì thào nửa đêm của con Khỉ, “Ê, anh trai, hay mình đổ nước lên thằng Zafar – mọi người sẽ nghĩ là nó đái dầm?” – và chính cảm giác về khoảng cách này đã cho tôi thấy rằng, dù gọi tôi bằng con trai anh trai,óc tưởng tượng của họ phải nỗ lực để tiêu hóa lời thú tội của Mary; khi đó chưa biết rằng họ sẽ không thể thành công trong việc tái định hình anh trai con trai, tôi vẫn khiếp sợ Shiva; và do đó bị nhấn càng sâu hơn vào trái tim ảo tưởng của nỗi khát khao chứng tỏ tôi xứng đáng với tình ruột thịt của họ. Bất chấp sự công nhận của Mẹ Bề trên, tôi chưa từng thấy yên lòng cho đến khi, trên một hiên nhà sau-đó-hơn-ba-năm, cha tôi bảo, “Lại đây, con trai; lại đây để ta yêu con.” Có lẽ vì vậy nên tôi đã xử sự như thế vào cái đêm 7 tháng Mười năm 1958.

… Một thằng bé mười một tuổi, Padma, biết rất ít về tình hình nội trị Pakistan; nhưng nó có thể thấy, vào cái hôm tháng Mười ấy, rằng một bữa tiệc tối bất thường đang được chuẩn bị. Saleem lên mười một không biết gì về Hiến pháp 1956 và việc nó ngày một bị xói mòn; nhưng cặp mắt cậu đủ sắc sảo để phát hiện những sĩ quan an ninh Quân đội, và quân cảnh, xuất hiện vào buổi chiều và bí mật nấp sau những bụi cây trong vườn. Đấu tranh phe phái và sự kém cỏi về nhiều mặt của Ngài Ghu-lam Mohammed[6] là điều bí ẩn với cậu bé; nhưng cậu thấy rõ dì Emerald đã đeo lên những món nữ trang đẹp nhất của mình. Vở hài kịch bốn-thủ-tướng-trong-hai-năm chưa từng làm cậu khúc khích; song cậu có thể cảm thấy, trong bầu không khí kịch tính bao trùm tòa nhà của Đại tướng, có gì như một hồi kết sắp hạ màn. Chả biết gì về sự nổi lên của đảng Cộng hòa, nhưng cậu vẫn tò mò về danh sách khách mời dự tiệc của Zulfikar; mặc dù cậu đang ở một đất nước nơi những cái tên không gợi lên điều gì – ai là Chaudhuri Muhammad Ali? Hay Suhrawadry? Hay Chundrigar, hay Noon?[7] - sự nặc danh của khách mời, điều được chú dì cậu bảo vệ kỹ lưỡng, là một điều khó hiểu. Mặc dù cậu đã một lần cắt từng ngón cái tít Pakistan từ báo ra - TỦ BAY GIẾT CHẾT PHÓ PHÁT NGÔN VIÊN ĐÔNG PAKISTAN - cậu chịu không biết vì sao, vào sáu giờ tối, một đoàn xe limousine màu đen chạy qua những bức tường có lính gác của Điền trang Zulfikar; vì sao cờ phấp phới trên nóc capô xe; vì sao người ngồi trên xe không một ai cười; hay vì sao Emerald và Pia và mẹ tôi đằng sau Đại tướng Zulfikar với vẻ mặt có lẽ thích hợp với đám ma hơn là một buổi giao tế xã hội. Ai cái gì đang chết? Ai vì sao đến trong những chiếc limousine? – Tôi chịu không có khái niệm gì; nhưng tôi đứng sẵn sàng sau lưng mẹ tôi và chăm chú nhìn những ô kính mờ trên từng chiếc xe bí hiểm.

[6] Có lẽ là Malik Ghulam Muhammad, Toàn quyền (Đại diện cho Nữ hoàng Anh) Pakistan từ năm 1951 đến 1956.

[7] Thủ tướng thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của Pakistan trong giai đoạn 1955-1958.

Cửa xe mở ra; các nội hầu, sĩ quan phụ tá nhảy xuống xe và mở cửa sau, đứng nghiêm chào; một bắp cơ nhỏ bắt đầu giật trên má dì Emerald. Thế rồi, những ai từ những cỗ xe phấp phới cờ bước xuống? Những cái tên nào sẽ được gán cho một dãy hoành tráng những bộ ria, những gậy chỉ huy, những cặp mắt sắc lẹm, những huân chương và những sao vừa xuất hiện? Saleem chẳng biết tên cũng như số thứ tự; tuy nhiên, quân hàm là cái có thể nhận ra. Mề đay và sao, được đeo một cách kiêu hãnh trên ngực và vai, báo hiệu sự xuất hiện của các sếp lớn thứ thiệt. Và từ xe sau cùng bước ra một người đàn ông cao lớn có cái đầu tròn đáng kinh ngạc, tròn như quả địa cầu nhôm dù không kẻ các đường kinh và vĩ tuyến; có cái đầu tinh cầu, nhưng ông ta không được ghi địa danh như quả cầu con Khỉ từng giẫm bẹp; cũng không được SẢN XUẤT TẠI ANH (dù chắc chắn là được đào tạo tại Sandhurst[8], ông ta đi giữa những mề-đay-và-sao đang giơ tay chào; đến bên dì Emerald; và làm động tác chào tất cả.

[8] Học viện Quân sự Hoàng gia Anh.

“Ngài Tổng tư lệnh,” dì tôi nói, “hoan nghênh ngài đến tệ xá.”

“Emerald, Emerald,” cái miệng trên quả đầu hình trái đất lên tiếng – cái miệng nằm ngay dưới một hàng ria chỉn chu, “Sao phải khách sáo thế, takalluf thế?” Nghe vậy dì bèn chào đón ông ta với, “Nếu vậy, Ayub, hôm nay trông ngài thật tuyệt.”

Ông ta khi ấy là Đại tướng, tuy chức Thống chế không còn xa nữa… chúng tôi theo sau ông ta vào nhà; chúng tôi nhìn ông ta uống (nước) và cười (to); tại bàn ăn, chúng tôi lại quan sát ông ta, xem ông ta nốc như lực điền, khiến bộ ria nhoe nhoét rau quả dầm… “Nghe này, Em[9],” ông ta bảo, “Lần nào ta đến cũng thịnh soạn thế này! Nhưng ta chỉ là một anh lính bình thường; dal và cơm từ bếp nhà này đã là đại tiệc với ta rồi.”

[9] Cách gọi ngắn và thân mật tên Emerald.

“Một người lính, thưa ngài,” dì tôi đáp, “nhưng bình thường thì không! Không bao giờ!”

Quần dài cho tôi tư cách có mặt tại bàn ăn, cạnh ông em họ Zafar, vây quanh là mề-đay-và-sao; tuy nhiên, tuổi tác còn non nớt đặt chúng tôi vào thế buộc phải im lặng. (Đại tướng Zulfikar cho tôi một cú suỵt kiểu nhà binh, “Chỉ hó hé một tiếng là ta sẽ tống mày xuống nhà của lính gác. Muốn ngồi lại thì phải ngồi im. Rõ chưa?” Ngồi im như thóc, Zafar và tôi được nghe nhìn thoải mái. Nhưng Zafar, không giống tôi, sẽ không nỗ lực chứng tỏ mình đáng mặt con nhà…)