05. Otrera phát minh ra người Amazon (Phần 2)

OTRERA PHÁT MINH RA NGƯỜI AMAZON

(Phần 2)

Bạn đang thắc mắc: đợi đã, đó là một quốc gia toàn nữ giới. Sao họ có một thế hệ tiếp theo được? Tất cả những đứa bé Amazon giết người đáng yêu đến từ đâu?

Ừm, người Amazon có những nô lệ nam giới. Tôi đã đề cập điều đó, đúng chứ? Một số gã trở thành những ông chồng nội trợ đầu tiên, và họ chỉ có nhiều đặc quyền và đặc lợi như phụ nữ có ở các đất nước khác, nghĩa là không có gì. Thật sự tốt đẹp.

Ngoài ra, người Amazon có sự dàn xếp lạ lùng với một bộ lạc hàng xóm gọi là Gargarean. Những người Gargarean sống ở đối diện bên này của ngọn núi khổng lồ phía đông bắc của đất nước Amazon. Họ là một bộ lạc toàn đàn ông, điều này tôi không hiểu. Nghiêm túc, một bộ lạc toàn là đàn ông ư? Bạn biết việc giặt giũ chẳng bao giờ xong, phòng khách là một khu vực thảm họa và đồ ăn thừa trong tủ lạnh bốc mùi tệ hơn các hồ hơi Phaethon.

Ban sẽ nghĩ một bộ lạc toàn đàn ông sẽ là kẻ thù tồi tệ nhất của những người Amazon, nhưng hình như không. Có bao giờ nghe những người cao tuổi nói Hàng rào tốt tạo nên những người hàng xóm tốt không? Tôi cũng không. Theo Annabeth nó có nghĩa là điều gì đó giống như Đừng chạm vào đồ của tôi và chúng ta sẽ hòa thuận với nhau. Trong trường hợp của người Gargarean và người Amazon, một ngọn núi tạo nên một hàng xóm tuyệt vời. Hai nhóm người chẳng bao giờ làm phiền lẫn nhau. Một lần một năm, bằng sự đồng ý chung, họ có một bữa tối có gì ăn nấy lớn và tiệc ngủ qua đêm trên đỉnh núi. Những người Amazon gần gũi với những người Gargarean. Và bạn biết gì không? Khoảng chín tháng sau, toàn bộ một loạt người Amazon sinh ra những đứa bé giết người bé bé xinh xinh.

Họ giữ các bé gái và nuôi nấng chúng thành thế hệ những chiến binh tiếp theo. Các bé trai… ừm, ai cần những bé trai chứ?

Người Amazon gửi những đứa bé khỏe mạnh nhất cho người Gargarean nuôi dưỡng. Nếu Otrera nghĩ đứa bé bệnh tật và ốm yếu (nó là một đứa bé; sao nó không thể ốm yếu chứ?), cô sẽ để đứa bé ở nơi hoang vắng, đặt lên một tảng đá và để nó tự sinh tồn. Khắc nghiệt và tàn nhẫn ư? Đúng. Lúc bấy giờ cuộc sống có rất nhiều điều thú vị.

Otrera lãnh đạo những chiến binh của mình thực hiện rất nhiều chiến dịch thành công qua Tiểu Á và vào Hy Lạp. Họ thành lập hai thành phố nổi tiếng ở bờ tây Thổ Nhĩ Kì – Smyrna và Ephesus. Tại sao họ chọn những cái tên đó, tôi không biết. Tôi sẽ chọn Làng-Đá-Mông và Thành-Phố-Đập-Xuống, nhưng đó chỉ là tôi.

Họ chiến đấu với người Hy Lạp nhiều đến nỗi mà nếu bạn đến Athens ngày nay bạn sẽ thấy rất nhiều bức tranh của những trận chiến Hy Lạp – Amazon. Những bức tranh luôn cho thấy người Hy Lạp chiến thắng, nhưng đó chỉ là là điều mơ tưởng. Sự thật là, người Amazon dọa Cheez Whiz sợ bỏ chạy khỏi Hy Lạp. Những chiến binh Otrera biến những người đàn ông thành nô lệ. Họ chiến đấu như những con quỷ. Và họ hoàn toàn không nấu bữa tối cho bạn hay chà sàn của bạn.

Nhanh chóng lực lượng Amazon mở rộng đến nỗi họ chia thành những bộ lạc khác nhau. Những thị trấn nhượng quyền bắt đầu xuất hiện khắp mọi nơi. Các tác giả Hy Lạp Cổ bị lúng túng khi họ cố miêu tả nơi người Amazon sống: “Họ ở đó. Không họ ở kia. HỌ Ở MỌI NƠI!”

Otrera vẫn là Nữ hoàng của Toàn bộ Enchilada (tôi hoàn toàn chắc chắn đó là tước vị chính thức của cô). Cô cai trị từ thủ đô Sinope của mình, và nếu cô kêu gọi một cuộc chiến tất cả những bè phái Amazon tuân lệnh. Bạn không muốn ở phe khiêu khích cơn giận của Otrera đâu. Không may, khi đối phó với đám đàn ông, đó là phe duy nhất cô có.

Được rồi… Tôi rút lại điều đó. Cô ấy từng phải lòng một chàng trai. Chuyện tình lãng mạn của họ xấu xí hơn bất cứ cuộc tàn sát chiến tranh nào.

Một ngày, Otrera vừa kết thúc một ngày giết chóc hàng xóm vất vả. Cô và những chiến binh của mình đang đi dọc bờ biển Hắc Hải sau một trận chiến – cướp bóc các xác chết, bắt những người sống sót làm nô lệ– khi một tia sáng đỏ chiếu sáng những đám mây.

Nàng làm một công việc tuyệt vời đấy, một giọng nói ầm ầm từ bầu trời. Hãy gặp ta ở hòn đảo nơi đường chân trời. Chúng ta có chuyện để bàn.

Người Amazon không dễ bị sợ hãi, nhưng giọng nói đó đã làm họ khiếp đảm.

Một trong các tướng của cô liếc nhìn cô. “Người sẽ không đi, phải không?”

Otrera nhìn chằm chằm qua mặt nước. Không nghi ngờ gì, một dải đất không rõ ràng vừa mới hiện ra trên đường chân trời.

“Đúng,” cô quyết định. “Một tia sáng đỏ và một giọng nói lạ trên bãi chiến trường… Hoặc chúng ta đều bị ảo giác từ món thịt hầm tối qua, hoặc đó là điều thần Ares đang nói. Ta tốt hơn nên đi xem ông ấy muốn gì.”

Otrera đơn độc chèo một chiếc thuyền đến hòn đảo. Thần Ares đứng đó trên bờ biển, cao hai mét mốt trong bộ áo giáp chiến đấu bằng đồng, với một ngọn giáo bốc cháy trong tay ông. Áo choàng của ông có màu của máu. Đôi ủng của ông lốm đốm bùn và máu đông (bởi vì ông thích nhảy clacket trên xác những kẻ thù của ông). Ông có khuôn mặt đẹp trai thô kệch, nếu bạn thích vẻ ngoài của kẻ giết người Neanderthal. Đôi mắt ông ta phát sáng với ánh lửa tàn sát thuần.

“Otrera, cuối cùng chúng ta gặp nhau,” ông nói. “Quỷ thần ơi, cô gái, nàng thật xinh đẹp.”

Đầu gối Otrera run run. Không phải bạn gặp một trong những vị thần yêu thích của mình mỗi ngày. Nhưng cô không cúi đầu hay quỳ xuống. Cô bỏ việc cúi đầu với đàn ông, ngay cả Ares rồi. Ngoài ra, cô nghĩ thần chiến tranh sẽ thích một màn trình diễn sức mạnh.

“Bản thân ngài cũng không tệ,” cô nói. “Tôi thích đôi ủng.”

“Cảm ơn!” Ares cười toe. “Ta lấy chúng từ cửa hàng quân dụng ở Sparta. Họ bán cái này… Nhưng điều đó không quan trọng. Ta muốn nàng xây cho ta một đền thờ ở đây trên hòn đảo này. Nàng thấy tảng đá lớn kia chứ?”

“Tảng đá gì?”

Ares giơ ngọn giáo của mình lên. Những đám mây tách ra. Một tảng thiên thạch lớn lao mạnh xuống từ không trung và đập xuống giữa hòn đảo. Khi hơi nước biến mất và bụi lắng xuống, một phiến đá có kích thước của một chiếc xe buýt trường học nhô ra trên mặt đất mặt đất.

“Ồ,” Otrera nói. “Tảng đá đó.”

“Đó là một tảng đá thiêng.”

“Được rồi.”

“Cầu nguyện với tảng đá đó về cơ bản là một đường dây trực tiếp đến ta. Hãy xây một đền thờ bằng đá quanh nó. Mỗi năm, hãy mang người Amazon của nàng đến đây và hiến tế một vài con vật quan trọng của các nàng.”

“Chúng sẽ là ngựa của chúng tôi,” Otrera nói. “Chúng tôi dùng chúng trong trận chiến. Chúng cho chúng tôi một lợi thế khổng lồ.”

“Đúng là ngựa!” Ares nói. “Hãy làm thế cho ta, và ta sẽ vẫn ban phước cho nàng trong chiến đấu. Nàng sẽ vẫn tàn sát người. Chúng ta sẽ thật hòa thuận. Nàng nói gì?”

“Hãy đánh với tôi.”

Ares nhìn chằm chằm cô với đôi mắt năng lượng hạt nhân của mình. “Gì chứ?”

“Chúng ta đều tôn trọng sức mạnh. Hãy cùng đảm bảo thỏa thuận với một cú hạ đo ván.”

“Ôi chao. Ta nghĩ là ta phải lòng nàng rồi.”

Otrera lao mình vào vị thần. Cô đấm mạnh lên mặt ông. Họ ngã lên mặt đất, đấm đá, lừa gạt và dùng hết sức của mình để đánh bại nhau hoàn toàn. Đó là tình yêu ngay cú đấm đầu tiên.

Sau khi họ kết thúc cuộc chiến, họ quyết định kết hôn. Từ ngày đó trở đi, Otrera được biết đến là cô dâu của Ares. Nó có ảnh hưởng tích cực đến hình ảnh mới của cô. Khi những đội quân kẻ thù thấy cô lao về phía họ, họ làm ướt nhẹp mấy chiếc quần ống túm màu đồng của họ.

Otrera xây một đền thờ trên hòn đảo, y như Ares đã yêu cầu. Để bảo vệ nó, Ares gửi đến một đàn chim giết người có thể bắn ra những cái lông của chúng như những mũi tên.

Mỗi năm, Otrera tổ chức một lễ hội lớn trên hòn đảo, hiến tế những con ngựa và nói chuyện với tảng đá đen khổng lồ. Những con chim giết người không quấy rầy người Amazon, nhưng nếu bất cứ ai khác cố đến đền thờ những con chim bắn đầy lông vào họ và xé họ ra từng mảnh với những cái mỏ sắc bén của mình. Nói cách khác, đền thờ không có nhiều người-ngoài-thị-trấn.

Ares và Otrera có hai người con gái: Hippolyta và Penthesileia. Cả hai cái tên nhanh chóng bắn lên danh sách 25 Những Tên Bé Gái Nổi Tiếng Nhất cho năm 1438 TCN. Từ đó trở đi, các nữ hoàng Amazon và thậm chí những người Amazon nói chung được biết như là những người con gái của Ares. Một số về nghĩa đen là con của ông. Những người còn lại cố gắng hết sức hành động như họ là con ông. Ối, nhìn kìa! Con bé có nụ cười của cha và cơn thịnh nộ đầy sát khí của ông ấy. Thật đáng yêu!

Ares vui vẻ. Người Amazon vui vẻ. Nhưng một người quan trọng đã bị bỏ sót khỏi Chương trình người Amazon Xây-Đền-Thờ & Cảm-Kích-Thần-Thánh: Artemis, vị thần Olympus yêu thích khác của Otrera. Là một người lãnh đạo thông minh, Otrera nghĩ cô tốt hơn là để cho nữ thần săn bắn thấy sự biết ơn nào đó trước khi trời bắt đầu cho mưa những mũi tên bạc.

Otrera quyết định xây dựng một đền thờ cho Artemis ở thành phố Ephesus, trên bờ biển tây Thổ Nhĩ Kì. Cô nghĩ điều đó sẽ khiến nó đủ gần cho người Hy Lạp đến viếng thăm, bởi vì những hòn đảo của họ ở ngay bên kia Biển Aegean.

Lần này cô không dùng những con chim bắn ra mũi tên. Chúng sẽ khiến cho đô-la du lịch sụt giảm. Thay vào đó, Otrera xây một đền thờ trên một ngọn đồi cao để nó có thể được thấy từ mọi nơi. Cô xây nó đẹp đẽ hết sức có thể, với những bức tường bằng gỗ tuyết tùng thơm, sàn bằng đá cẩm thạch bóng loáng và trần nhà dát vàng. Ở giữa điện thờ, một bức tượng của Artemis được mặc lên một chiếc váy bằng những đồ trang trí nước mắt hổ phách vì thế bà tỏa sáng khi ánh sáng xuyên qua những ô cửa sổ.

Mỗi năm, Otrera tổ chức một lễ hội lớn ở đền thờ. Người Amazon dành cả ngày tiệc tùng, nhảy những điệu nhảy chiến tranh hung bạo trên đường phố Ephsus. Họ hiến tế châu báu cho Artemis bằng cách xếp nó lên bức tượng, vì vậy trước khi kết thúc lễ hội Artemis trông như một mô hình thời trang hip-hop được mua ở Nhà Kho Vàng Giảm Giá của Vua Midas.

Đền thờ là một cú hít – di sản lớn nhất của Otrera. Nó tồn tại lâu hơn cô. Nó tồn tại lâu hơn người Hy Lạp Cổ. Quái, nó suýt nữa tồn tại lâu hơn Đế quốc La Mã. Nó đã bị phá hủy vài lần, nhưng người Ephesus luôn xây dựng lại nó. Nó vẫn còn trong khoảng thời gian Ki-tô giáo khi một gã tên là John đến đó để thay đổi tín ngưỡng người địa phương.

Nơi này nổi tiếng đến nỗi nó nằm trong danh sách Bảy Kì Quan của Thế giới Cổ đại… cùng với kim tự tháp Ai Cập, và, ừm, những cái khác. Những cửa hàng McDonald đầu tiên ư? Tôi quên rồi.

Đền thờ đáp trả lại cho Otrera bằng nhiều cách hơn cả dô-la du lịch. Một lần, nó cứu cô và toàn bộ đội quân của cô khỏi cái chết bởi mấy cây nho.

Nó xảy ra như thế nào: vị thần rượu nho mới này, Dionysus, đang lăn qua thế giới người phàm với nhóm môn đồ của mình, dạy mọi người những điều tuyệt vời của tiệc tùng, bạo lực say xỉn và một chai Cabernet thượng hạng với bữa tối. Nếu vương quốc của bạn đón chào Dionysus, tuyệt! Nếu bạn cố gắng chiến đấu với ông, ối!

Ông ấy đang trên đường đến chiếm Ấn Độ, bởi vì đó dường như là một ý tưởng hay lúc đấy, khi ông tình cờ đi qua vùng đất của người Amazon.

Khi ông gặp người Amazon đầu tiên đến do thám bữa tiệc, ông vui vẻ.

“Ồ, này!” ông nói. “Một quốc gia của phụ nữ à? Hợp với ta đấy. Các nàng tiệc tùng với chúng ta đêm nay thì sao nhỉ?”

Những trinh thám Amazon nói. “Chắc chắn, tại sao không?”

Họ quyết định họ thích rượu nho. Họ gia nhập nhóm những nữ hâm mộ cuồng nhiệt của Dionysus được biết đến là các maenad. Những cô này hầu như là các nymph biến thành những kẻ ám sát những bữa tiệc nồng nhiệt hoang dã, những người sẽ xé toạc đám kẻ thù của thần rượu nho thành các mảnh với đôi bàn tay trần của họ. Vì vậy hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu những người Amazon trở thành các maenad. Phải, đại loại như Vụ thảm sát ở Texas bằng cưa máy mà không cần cưa máy.

Sau đó, những nhóm người Amazon khác cố gắng ngăn cản Dionysus. Họ sẽ không đi theo bất cứ người đàn ông nào, đặc biệt bởi vì đội quân của ông gồm một bọn thần rừng và những gã say xỉn bốc mùi như Chardonnay rẻ tiền.

Người Amazon tấn công. Dionysus dùng sức mạnh thần thánh của mình để làm họ phát điên và biến họ thành những cành nho, và sau đó đạp mạnh lên họ để làm nhiều rượu hơn.

Otrera sớm nghe về những thất bại này: một gã nào đó tuyên bố là một vị thần, ầm ầm xông vào vương quốc của cô và đánh cắp các môn đồ của cô hoặc biến họ thành những quả mọng ngon lành. Cô quyết định giải quyết vấn đề theo cách khôn khéo thường lệ của mình.

“Giết tất cả bọn chúng!” cô gầm lên.

Cô triệu tập toàn bộ quân đội của mình, đó thật là một cảnh tượng cực kì ấn tượng. Hàng ngàn những mũi giáo và khiên lấp lánh trong ánh mặt trời. Những hàng cung thủ lên nòng – những kỵ binh tốt nhất trên thế giới – chuẩn bị những mũi tên đang cháy của họ.

Người Amazon có thể tiêu diệt hầu hết kẻ thù trong thời gian tính bằng phút. Danh tiếng của họ khủng khiếp đến nỗi những vương quốc khác thuê họ như những lính đánh thuê để đánh những cuộc chiến của họ. Thường thì bên kia sẽ từ bỏ ngay khi họ thấy người Amazon đang đến.

Suốt nhiều năm, Otrera đã trở nên giàu có, hùng mạnh và tự tin. Cô nghĩ cô có thể quét sạch một đảm say xỉn, không thành vấn đề.

Điểm yếu chí tử của cô? Tôi nghĩ đó là lòng kiêu hãnh.

Cô đã quên điều gì đã xảy ra với những gã trai làng cố gắng hạ cô khi xưa. Không bao giờ đánh giá thấp kẻ thù của bạn.

Dionysus là một vị thần. Otrera gần gũi với Ares và Artemis như thế nào không thành vấn đề; họ không thể giúp cô chống lại một vị thần Olympus khác. Người Amazon xông vào trận chiến và bị đánh bại hoàn toàn. Các maenad xé họ toạc ra bằng đôi tay trần của mình. Những thần nông đánh họ với gậy và những chai rượu nho cũ. Mỗi lần Dionysus búng ngón tay của mình, một đoàn Amazon khác phát điên, biến thành những con gấu túi hoặc bị nghẹt thở đến chết trong một bụi nho rậm rạp.

Otrera nhanh chóng nhận ta cô bị áp đảo. Cô kéo người của mình đi ngay trước khi tất cả họ bị tiêu diệt. Sau đó người Amazon bỏ chạy lấy mạng.

Dionysus và đội quân say xỉn của ông đuổi theo họ nửa đường xuống bờ biển Thổ Nhĩ Kì. Cuối cùng, Otrera tới được Ephesus và chạy đến đền thờ của Artemis. Cô lao mình tới trước bức tượng của nữ thần.

“Làm ơn, Nữ thần Artemis!” cô cầu xin. “Xin hãy cứu người của tôi! Đừng để họ bị tiêu diệt bởi sự ngu dốt của tôi!”

Artemis nghe thấy cô và can thiệp vào. Hoặc có lẽ Dionysus chán nản và quyết định giết ai đó khác. Đội quân của thần rượu nho xoay lại và tiến về hướng Ấn Độ, để yên cho Ephesus. Người Amazon được cứu. Cuối cùng, họ xây dựng lại đội quân của mình và cố gắng để nhổ hết những cây nho mềm nhũn mọc lên giữa những ngón chân họ.

Từ đó trở đi, đền thờ của Artemis nổi tiếng như một nơi nương náu cho phụ nữ. Bất cứ người phụ nữ nào đến án thờ và cầu xin sự bảo vệ sẽ được che chở bởi sức mạnh của Artemis. Không ai có thể hại cô ta. Các nữ thầy tu của đền thờ và toàn bộ thị trấn Ephesus sẽ chiến đấu vì cô nếu cần thiết.

Sau đó, mọi chuyện lắng xuống với Otrera. Cô lui về tủ đô của mình ở Sinope và ít nhiều cai trị trong hòa bình. Cô kết đồng minh với những hàng xóm của mình và mang an toàn và an ninh cho người của mình.

Điều duy nhất cô không thể bảo vệ những người Amazon khỏi ư? Những người Amazon khác. Như điều xảy ra với hai người con gái tuyệt vời, khát máu của cô…

Như tôi đã nói lúc trước, cuộc hôn nhân đấm-đá vĩ đại Ares - Otrera dẫn đến sự ra đời của hai người con gái. Bởi vì cha mẹ của họ, họ là những cô bé đều ngọt ngào, dễ thương những đứa bé thích lấp lánh và ngựa nhỏ và những thứ đồ có viền màu hồng…

Phải, không quá nhiều…

Không ai biết chính xác Nữ hoàng Otrera quyết định nghỉ hưu khi nào, nhưng sau đó một thời gian tất cả những trận đánh, tàn sát và tiệc tùng nhảy múa điên loạn trở nên mệt mỏi. Cô giao lại quyền cai trị người Amazon cho con gái lớn của mình, Hippolyta.

Đầu tiên, Hippolyta làm việc rất tốt. Cha cô, Ares, cũng rất hài lòng ông cho cô một bộ áo giáp phép thuật để mặc cho những sự kiện đặc biệt như là lễ bat mitzvahs và công thành chiến. Ông cũng cho cô một sợi thắt lưng phép thuật giúp cho Hippolyta cực kì mạnh.

Không may, Hippolyta xấu số gặp phải một anh chàng tên là Hercules. Nói thêm về điều đó sau. Từ bây giờ, chỉ nói về chuyện có một cuộc chiến lớn và người Amazon chịu đựng thất bại tồi tệ nhất từ khi sự xâm lược của Gã Rượu Nho.

Trong sự hỗn loạn của cuộc chiến, Hippolyta vô tình bị chính em gái của mình giết chết, Penthesileia. Chiếc thắt lưng của người Amazon bị mất (ít nhất trong một khoảng thời gian). Những người Hy Lạp trốn đi. Penthesileia trở thành nữ hoàng và, sau khi khóc than cái chết của chị mình, cô xây dựng lại đội quân Amazon một lần nữa.

Mặc dù đó là một tai nạn, Penthesileia không bao giờ tha thứ cho bản thân vì cái chết của Hippolyta. Cô cũng không bao giờ tha thứ cho người Hy Lạp. Nhiều năm sau đó, khi cuộc chiến thành Troy nổ ra, cô đăng kí giúp đỡ Priam, vua của Troy, vì thế cô có thể đập vỡ sọ của đám người Hy Lạp và báo thù cho cái chết của chị cô.

Điều đó không kết thúc tốt đẹp cho lắm. Penthesileia chiến đấu dũng cảm và giết rất nhiều chiến binh vĩ đại, nhưng cuối cùng cô bị giết bởi chiến binh Hy Lạp vĩ đại nổi tiếng nhất thế gian - Achilles. Khi Achilles tìm cơ thể cô từ chiến trường về, anh ta rửa những vết thương của cô để cô có một đám tang thích hợp. Anh ta tháo chiếc mũ sắt của cô xuống, thấy được nữ hoàng Amazon xinh đẹp như thế nào và cảm thất cực kì sầu não. Như thể một cô gái dũng cảm và cực kì quyến rũ như thế phải chết thật là đáng tiếc.

Achilles chờ đến thời gian ngừng bắn sau đó, khi người Troy và Hy lạp trao đổi xác chết để chôn cất. Những cuộc gặp mặt đó hẳn rất thú vị. Tôi sẽ đổi với anh George để lấy Johnny và Billy Joe. Ồ, đợi đã. Tôi nghĩ cái chân này thuộc về Billy Joe. Tôi không chắc.

Achilles đưa thi thể của Penthesileia cho người Troy. Anh ta tán dương sự dũng cảm và sắc đẹp của cô nhiều đến nỗi một đồng chí Hy Lạp của anh ta, tên là Thersites, bực mình.

Một đám bạn của Thersites đã bị Penthesileia giết. Anh ta xoay sang Achilles và nói, “Anh bạn, tại sao anh lại tán dương cô ta? Cô ta là một kẻ thù và cô ta là một ả đàn bà. Anh phải lòng với cô gái đã chết này à?” (Anh ta gọi cô thứ gì đó tồi tệ hơn một cô gái.)

Achilles nhẹ nhàng đặt Penthesileia xuống. Anh ta xoay sang người đồng chí của mình và tát Thersites bằng mu bàn tay mạnh đến nỗi tất cả răng của anh ta bay ra như những con cái hồi trắng nhảy khỏi một dòng suối đỏ. Thersites ngã xuống chết ngay.

Achilles đối mặt với người Troy. “Xin hãy chôn cất Penthesileia với sự kính trọng.”

Người Troy, không mong muốn bị giết bởi chấn thương hàm răng, thực theo điều anh ta yêu cầu.

Tôi không biết liệu Otrera vẫn còn sống khi các con gái của cô chết. Vì lợi ích của cô, tôi hy vọng không. Thậm chí đối với một người phụ nữ chiến đấu cứng rắn như Otrera, đó sẽ thật khó khăn để tiếp nhận.

Mặc dù vậy Otrera và các con gái của cô trở thành truyền thuyết – những nữ chiến binh vĩ đại nhất mọi thời đại.

Có lẽ bạn đang tự hỏi tại sao tôi kèm Otrera vào cuốn sách này, bởi vì nó về những anh hùng Hy Lạp và về ngữ nghĩa cô không phải người Hy Lạp. Có lẽ bạn đang tự hỏi liệu cô thậm chí có là một anh hùng.

Tôi sẽ thừa nhận cô có những vết nhơ: kẻ giết người thường xuyên, một cuộc tàn sát đây và đó. Cô cũng thích Ares, điều này chỉ thật kinh tởm.

Tôi cũng phải tự vượt qua định kiến của chính mình. Tôi có một cuộc tranh cãi với Otrera khi cô ta sống dậy và cố gắng giết tôi. (Câu chuyện dài. Đừng hỏi.)

Nhưng đây là vấn đề. Phụ nữ không nhận được sự đối xử công bằng trong những câu chuyện cũ. Ngay cả Otrera, người phụ nữ nổi tiếng, thành công và hùng mạnh nhất của thế giới cổ đại, hầu như không được đề cập đến.

Tôi phải ngưỡng mộ lòng can đảm của cô. Cô đi từ việc là một bà nội trợ Kỉ nguyên Đồng bị chà đạp thành nữ hoàng của một đế quốc. Người Amazon trở nên nổi tiếng đến nỗi một dòng sông ở Brazil đặt tên theo họ, cùng với công ty hiện đại kia đã hoàn toàn không có kết nối với quốc gia Amazon cổ. (Khụ, à hem.)

Đối với tất cả những người phụ nữ cô đã cứu và huấn luyện chiến đấu, Otrera hoàn toàn là một anh hùng. Cô cho họ hy vọng. Cô cho họ kiểm soát cuộc đời của chính họ. Tôi ư, tôi sẽ dễ dãi hơn một chút với việc toàn bộ điều những ông chồng bị chặt đầu và tôi sẽ không để lại những đứa bé nam ở nơi hoang dã đến chết, nhưng cô ấy là một người phụ nữ khắc nghiệt sống trong một giai đoạn khắt nghiệt.

Vậy, phải, tôi nghĩ cô ấy thuộc về một cuốn sách về những anh hùng Hy Lạp. Nếu cô ấy khiếp cho bạn gặp ác mộng, cái cách mà cô ấy làm với những tác giả Hy Lạp cổ, ừm… chỉ nhớ là, người Amazon không còn quanh quẩn chung quanh nữa. Họ mờ nhạt khỏi lịch sử hàng ngàn năm trước. (Chớp, chớp) Không có nhiều cơ hội họ sẽ theo sau bạn lắm. Như thể, một cơ hội hai mươi phần trăm là nhiều nhất. Có lẽ ba mươi phần trăm…

Trong khi chúng ta đang nói chuyện về những người chết tôi đã chạm trán, tôi đoán tôi tốt hơn là xử lí một chủ đề khó khăn hơn.

Tôi sẽ hít một hơi thở sâu. Người này mang lại một vài kí ức đau đớn.

Được rồi. Tôi có thể làm điều này. Hãy cùng nói chuyện về Daedalus, nhà phát minh vĩ đại nhất của mọi thời đại.