Những Đứa Con Của Tự Do - Phần 3 - Chương 31 - 32 - 33
Chương 31
Ngày 4 tháng Bảy
Các cánh cửa lại đóng và cái nóng tăng lên tức
khắc. Đoàn tàu khởi hành. Trong toa, mọi người nằm xuống sàn. Chúng tôi,
các chiến hữu trong đội, ngồi dựa lưng vào thành toa trong cùng. Nhìn
chúng tôi như vậy, có thể ngỡ chúng tôi là con cái những người ka, ấy
thế mà, thế mà...
Chúng tôi bàn về hành trình. Jacques đánh cuộc
là Angoulême, Claude mơ Paris, Marc tin chắc chúng tôi đang đi về
Poitiers, số đông đồng ý là Compiègne. Ở đó, có một trại chuyển tiếp
dùng làm ga thông tàu. Tất cả chúng tôi đều biết là cuộc chiến đang tiếp
diễn ở Normandie, hình như có đánh nhau ở miền Tours. Các đạo quân Đồng
minh đang tiến về phía chúng tôi, còn chúng tôi đang tiến về phía cái
chết. Thằng em tôi nói:
- Anh biết đấy, em cho rằng chúng mình là con
tin nhiều hơn là tù nhân. Có thể chúng sẽ thả chúng mình ở biên giới.
Tất cả lũ Đức kia đều muốn về nhà chúng, và nếu tàu không đi được đến
Đức, thì Schuster và quân của hắn sẽ bị bắt. Thực ra, chúng sợ lực lượng
Kháng chiến gây cho chúng quá nhiều chậm trễ bằng cách làm nổ đường
sắt. Chính vì thế mà tàu không tiến lên. Schuster cố lách giữa các mắt
lưới. Một mặt, hắn bị kẹp bởi gọng kìm của bạn bè chúng ta ở các chiến
khu, còn mặt khác, hắn sợ chết khiếp một trận ném bom của không quân
Anh.
- Em lấy ở đâu ra ý tưởng ấy? Em tự nghĩ một mình ư?
- Không, nó thú nhận. Trong khi ta đi tiểu trên đường tàu. Meyer đã nghe thấy hai thằng lính nói với nhau.
- Thế Meyer hiểu tiếng Đức sao? Jacques chất vấn.
- Cậu ấy nói tiếng yiddish...
- Thế bây giờ Meyer ở đâu?
- Ở toa bên cạnh, Claude trả lời.
Và nó vừa nói hết câu là tàu lại dừng. Claude trườn lên cửa sổ. Xa xa, nhìn thấy một nhà ga nhỏ, đó là Parcoul-Médillac.
Lúc ấy là mười giờ sáng, không bóng dáng một
hành khách, cũng chẳng thấy một nhân viên hỏa xa. Thinh lặng bao trùm
vùng quê lân cận. Ngày kéo dài trong cái nóng không kham nổi. Chúng tôi
ngạt thở. Để giúp chúng tôi trụ được, Jacques kể một câu chuyện,
François Francois ngồi bên nghe anh, chìm trong suy nghĩ. Một người rên
rỉ ở cuối toa, anh ngất đi. Ba chúng tôi khiêng anh về phía cửa sổ. Ở
đấy có một chút gió. Một người khác xoay tròn, hình như anh chớm phát
điên, anh bắt đầu hét lên, tiếng anh than nhức nhối và đến lượt anh gục
xuống. Ngày trôi qua như thế, cách nhà ga nhỏ vài mét, một ngày mồng 4
tháng Bảy, ở Parcoul-Médiallic.
Chương 32
Lúc
ấy là bốn giờ chiều. Jacques không còn nước bọt nữa, anh ngừng lời. Vài
tiếng rì rầm khuấy động sự đợi chờ không sao chịu nổi. Tôi ngồi xuống
cạnh Claude và nói:
- Em có lý, phải nghĩ đến chuyện tẩu thoát.
- Chúng ta chỉ mưu sự khi nào chắc chắn tất cả có thể cùng thoát, Jacques ra lệnh.
- Suỵt! thằng em tôi nói khẽ.
- Gì thế?
- Anh im đi mà nghe!
Claude đứng dậy, tôi làm theo. Nó tiến về phía
cửa sổ và nhìn ra đằng trước. Lại là tiếng của cơn giông mà em tôi nghe
thấy trước những người khác hay sao?
Bọn Đức rời tàu và chạy về phía các cánh đồng,
Schuster dẫn đầu. Các nhân viên Gestapo và gia đình chúng lao đến nấp
sau các bờ dốc. Binh lính đặt trên đó những khẩu liên thanh nhằm vào
chúng tôi, như để đó những khẩu liên thanh nhằm vào chúng tôi, như để
phòng trước mọi cuộc bỏ trốn. Giờ đây Claude đang nhìn lên trời, căng
tai nghe ngóng. Nó hét:
- Máy bay! Anh lùi lại đi! Tất cả mọi người lùi lại và nằm xuống!
Nghe tiếng ù ù của những máy bay đang đến gần.
Chàng thanh niên đội trưởng đội phi c khu trục
vừa tổ chức mừng sinh nhật hai mươi ba tuổi, ngày hôm qua, ở nhà ăn sĩ
quan tại một phi trường phía Nam nước Anh. Hôm nay, anh lướt trên không
trung. Tay anh giữ cần lái, ngón cái đặt trên nút bấm điều khiển các
khẩu liên thanh bên cánh. Trước mặt anh, một đoàn tàu đứng im trên đường
sắt, việc tấn công sẽ dễ dàng. Anh ra lệnh cho các đội viên vào đội
hình, chuẩn bị oanh kích, và máy bay của anh lao xuống mặt đất. Các toa
tàu in hình trong kính ngắm, chắc chắn đây là một chuyến hàng của bọn
Đức nhằm tiếp tế cho mặt trận. Lệnh ban ra là phá hủy hết. Phía sau anh,
các phi cơ biên xếp thành hàng trên nền trời xanh, họ đã sẵn sàng. Đoàn
tàu ở trong tầm bắn. Ngón cái của phi công chạm nhẹ vào cò súng. Trong
buồng lái, cũng cảm thấy cái nóng.
Bây giờ đây! Tiếng nổ giòn từ các cánh phi cơ và
những vạch đạn dài như những lưỡi dao xuyên về phía con tàu mà đội bay
đang lượn bên trên, trước sự đáp trả của bọn lính Đức.
Trong toa chúng tôi, những vách gỗ vỡ ra dưới
làn xạ kích. Đạn rít khắp nơi; một người rú lên và lăn xuống, một người
khác ôm lấy ruột gan đang bung ra từ vùng bụng bị xé rách, người thứ ba
bị tiện đứt chân, đúng là một cuộc tàn sát. Các tù nhân cố ẩn nấp sau
những hành lý còm của mình; mối hy vọng nực cười được sống sót sau cuộc
không kích. Jacques lao mình đè lên François Francois, lấy thân mình che
chắn cho cậu. Bốn phi cơ Anh nối tiếp nhau, tiếng động cơ gầm gào đập
thình thịch tận thái dương chúng tôi, nhưng kìa chúng đã bay ra xa và
lên cao trên bầu trời. Qua ô cửa sổ, bọn tôi thấy chúng lượn ở phía xa
và bay ngược dọc đoàn tàu, lần này ở tầm
- Tôi lo lắng cho Claude và ôm chặt nó vào lòng. Mặt nó tái xanh tái nhợt.
- Em không sao chứ?
- Không, nhưng anh, thì anh đang chảy máu ở cổ, em tôi vừa nói vừa vuốt lên vết thương của tôi.
Chỉ là một mảnh đạn làm xước da. Xung quanh
chúng tôi nỗi ảo não ngự trị. Trong toa có sáu người chết và chừng ấy
người bị thương. Jacques, Charles và François Francois an toàn. Chúng
tôi không biết gì về tổn thất ở các toa khác. Trên bờ dốc, một tên lính
Đức dằm mình trong máu.
Xa xa, chúng tôi rình nghe tiếng máy bay đang đến gần. Claude thông báo:
- Họ trở lại.
Tôi nhìn nụ cười buồn bã phác trên môi nó, như
thể nó muốn nói với tôi lời vĩnh biệt mà không dám bất tuân mệnh lệnh
tôi đã ra cho nó là phải sống. Tôi chẳng biết điều gì xảy ra với tôi.
Các động tác của tôi chỉ nối tiếp nhau, vận hành do cái mệnh lệnh khác
mà mẹ đã ban cho tôi trong một cơn ác mộng gần đây. "Hãy cứu lấy mạng
sống của em con." Tôi hét bảo Claude
- Đưa áo sơ mi cho anh!
- Gì cơ?
- Cởi ngay áo và quẳng cho anh.
Tôi cũng làm như vậy với sơ mi của mình, nó màu
lam, áo em tôi trăng trắng và trên thân mình một người nằm sóng sượt
trước mặt, tôi giằng ra một mảnh vải nhuốm máu đỏ.
Tay cầm ba mảnh vải, tôi lao ra cửa sổ, Claude
đứng làm thang cho tôi. Tôi thò cánh tay ra ngoài, và vừa nhìn những
chiếc máy bay đang lao xuống chúng tôi, vừa vẫy tay cùng với lá cờ ứng
tác của mình.
Trong buồng lái, chàng đội trưởng trẻ tuổi chói
mắt vì ánh nắng. Anh hơi nghiêng đầu sang một bên, để khỏi bị lóa. Ngón
cái của anh vuốt ve cò súng. Con tàu còn ở ngoài tầm ngắm, nhưng vài
giây nữa, anh có thể hạ lệnh bắn loạt thứ hai. Xa xa, đầu máy tỏa khói ở
chỗ xiên ngang. Bằng chứng cho thấy đạn đã xuyên thủng nồi hơi.
Một chuyến tạt qua nữa có lẽ, và đoàn tàu này sẽ không bao giờ lại ra đi được nữa.
Ở đầu cánh trái của anh, cánh của phi công biên
gần như hòa nhập. Anh ra hiệu cho anh ta, sắp tấn công đến nơi. Anh nhìn
vào kính ngắm và ngạc nhiên vì một đốm màu ra hiệu bên sườn một toa
tàu. Như thể nó lay động. Ánh lấp lánh của một nòngăng? Chàng phi công
trẻ biết rõ các nhiễu xạ lạ thường của ánh sáng. Đã bao lần, trên không
trung kia, anh từng xuyên qua những chiếc cầu vồng mà người ta không
nhìn thấy từ mặt đất, như những vạch muôn màu nối liền các áng mây.
Máy bay chớm nhào xuống, và trên cần lái bàn tay
người phi công đang chuẩn bị. Phía trước anh, cái vệt đỏ và lam tiếp
tục vẫy. Làm gì ra những khẩu súng có màu, thế rồi có miếng vải trắng ở
giữa, chẳng phải tạo nên một lá cờ Pháp đó sao? Ánh mắt anh chằm chằm
vào những mảnh vải mà người ta đang vẫy vẫy từ bên trong một toa tàu.
Chàng đội trưởng người Anh bàng hoàng, ngón tay cái của anh im sững lại.
- Break, break, break! 1 anh hét vào máy vô
tuyến, và để biết chắc các phi công biên đã nghe được lệnh mình, anh
nhấn lại ga, đập mạnh cánh và lấy lại độ cao.
Phía sau anh, các phi cơ phá đội hình và cố theo anh; cứ như thể một bầy ong hoảng hốt đang bay lên trời.
Từ cửa sổ, tôi nhìn thấy các phi cơ xa dần. Tôi
cảm thấy rõ những cánh tay của thằng em trĩu xuống dưới bàn chân mình,
nhưng tôi víu lấy thành toa, để nhìn các phi công tiếp tục bay.
Tôi những muốn được là một người trong số họ; tối nay, họ sẽ trở về nước
- Thế nào? Claude cầu khẩn.
- Thế thì, anh cho là họ đã hiểu. Cái đập cánh của họ là một lời chào.
Trên cao, các máy bay lại tập hợp. Người đội
trưởng trẻ thông báo tin tức cho những phi công khác. Đoàn tàu mà họ đã
nã liên thanh, không phải một chuyến tàu chở hàng. Trên toa là các tù
binh. Anh đã nhìn thấy một người trong các tù binh ấy vẫy cờ để báo cho
họ biết.
Viên phi công ngả cần lái, máy bay nghiêng mình
và lướt cánh. Bên dưới, Jeannot nhìn thấy nó vòng lại và bay ngược đường
để ở vào vị trí phía sau đoàn tàu. Thế rồi, kìa nó lại chúc xuống đất;
lần này, với tốc độ chầm chậm. Máy bay ngược lên theo chiều ngang con
tàu. Có thể nói nó gần như là là, chỉ cách mặt đất vài mét.
Dọc các bờ dốc, binh lính Đức kinh ngạc, không
một tên nào dám cựa quậy. Còn người phi công không rời mắt khỏi lá cờ
ứng tác mà một tù binh tiếp tục vẫy vẫy bên cửa sổ một toa tàu. Khi đến
ngang tầm lá cờ, anh giảm tốc độ hơn nữa, ở giới hạn của sự ngừng hoạt
động. Anh quay mặt lại. Khoảnh khắc vài giây, hai cặp mắt xanh nhìn nhau
đăm đắm. Mắt một trung úy trẻ tuổi người Anh trên chiếc máy bay khu
trực thuộc Không lực Hoàng gia và mắt một tù nhân trẻ tuổi người Do Thái
đang bị đày sang Đức. Bàn tay người phi công đưa lên vành mũ và bàn tay
ấy tôn vinh người tù đang chào lại anh.
Rồi máy bay cất mình lên cao, kèm theo một cái nghiêng cánh chào lần cuối.
- Họ đi rồi ư? Claude hỏi.
- Ừ. Tối nay, họ sẽ ở bên Anh.
- Một ngày kia anh sẽ lái máy bay, Raymond, em thề với anh đấy!
- Anh tưởng em muốn gọi anh là Jeannot cho đến...
- Ta gần như thắng cuộc chiến rồi, anh ơi, hãy nhìn những vệt khói trên trời đi. Mùa xuân đã trở lại. Jacques nói đúng.
Ngày 4 tháng Bảy năm 1944, vào bốn giờ mười phút
chiều, hai ánh mắt giao nhau giữa cuộc chiến tranh; chưa đầy vài giây,
nhưng với hai chàng trai trẻ, đó là thời gian của một sự vĩnh cửu.
° ° °
Bọn Đức đứng dậy và lại xuất hiện giữa những đám
cỏ dại. Chúng trở về con tàu. Schuster lao đến đầu máy để đánh giá
thiệt hại. Trong lúc ấy bốn người bị dẫn tới bức tường của một nhà kho
dựng gần ga. Bốn tù nhân định chạy trốn, lợi dụng cuộc không kích. Chúng
để họ xếp hàng và lập tức hạ sát họ bằng súng liên thanh. Nằm dài trên
sân ga, những thân hình bất động của họ đẫm máu, những con mắt lờ đờ như
quan sát chúng tôi và bảo chúng tôi rằng với họ, địa ngục đã kết thúc
hôm nay, dọc con đường sắt này.
Cửa toa chúng tôi mở ra, tên quân cảnh Đức ọc
một cái. Y lùi lại một bước và nôn mửa. Hai tên lính khác vào tiếp, một
tay che miệng để khỏi ngửi thấy không khí hôi thối ngự trị nơi này. Mùi
khai của nước tiểu hòa lẫn với mùi phân, với xú uế của phủ tạng Bastien,
người bị thủng bụng.
Một gã phiên dịch thông báo rằng vài giờ nữa
những người chết sẽ được đưa ra khỏi toa, và chúng tôi biết rằng với cái
nóng đang ngự trị, mỗi phút sắp tới sẽ khó mà sống nổi.
Tôi tự hỏi liệu chúng có bỏ công chôn cất hay không bốn người bị giết hãy còn nằm sóng sượt, cách đó vài mét.
Ở các toa bên cạnh mọi người cầu cứu. Trên con
tàu này có đủ mọi loại nghề nghiệp. Những bóng ma trên tàu là công nhân,
công chứng viên, thợ mộc, kỹ sư, giáo viên. Một thầy thuốc, cũng là tù
nhân, được phép cứu chữa số người bị thươngng đảo. Ông tên là Van Dick,
một bác sĩ ngoại khoa người Tây Ban Nha từng làm thầy thuốc ba năm ở
trại Vernet trợ lực cho ông. Trong những giờ tiếp theo họ đã cố hết sức
để cứu lấy vài mạng sống, song vô hiệu; họ chẳng có một phương tiện nào
và cái nóng nặng nề gay gắt sẽ sớm kết liễu những người còn đang rên rỉ.
Một số cầu khẩn hãy báo cho gia đình mình, số khác dường như mỉm cười
khi tắt thở, như được giải thoát khỏi các đau khổ. Ở chỗ này tại
Parcoul-Médillac, vào lúc chập tối, hàng mấy chục người chết đi.
Đầu máy kod ùng được nữa. Tối nay tàu sẽ không lên đường. Schuster gọi một đầu máy khác, sẽ tới trong đêm.
Từ nay đến lúc ấy các nhân viên hỏa xa sẽ có thì
giờ phá hoại đầu máy đó đôi chút, bầu chứa nước của nó sẽ bị rò rỉ, và
đoàn tàu sẽ phải dừng lại nhiều hơn để lấy nước.
Đêm tĩnh lặng. Lẽ ra chúng tôi phải phản kháng
nhưng chúng tôi không còn sức nữa. Cái nóng giữa hè đè nặng lên chúng
tôi như một lớp chì úp xuống và dìm tất cả chúng tôi vào một trạng thái
nửa vô ý thức. Lưỡi chúng tôi bắt đầu sưng phồng lên, khiến việc thở hít
trở thành khó khăn. Álvarez đã không nhầm.
Chú Thích
1. Dừng lại, dừng lại, dừng lại (tiếng Anh).
Chương 33
- Cậu cho là cậu ấy thoát rồi chứ? Jacques hỏi.
Álvarez xứng với vận may mà cuộc đời đã ban tặng
cho cậu. Người đàn ông và cô con gái đã đón cậu về nhà đề nghị cậu ở
lại với họ cho đến Giải phóng. Tuy nhiên, vừa khỏi các vết thương là
Álvarez cảm ơn họ đã chăm sóc và nuôi nấng mình, cậu phải quay lại chiến
đấu. Người đàn ông không nài ép, ông biết người trò chuyện với mình có
quyết tâm. Thế là, ông cắt ra một bản đồ địa phương trên cuốn lịch Thông
tin Bưu điện của mình và tặng anh bạn. Ông cũng tặng cậu một con dao và
khuyên cậu đến Sainte-Bazeille. Tại đó, người trưởng ga tham gia lực
lượng Kháng chiến. Khi Álvarez đến nơi, cậu ngồi trên chiếc ghế dài đối
diện sân ga. Viên trưởng ga nọ phát hiện ra cậu và ngay lập tức đưa cậu
vào văn phòng của mình. Ông ta cho cậu biết bọn SS trong miền vẫn đang
truy tìm cậu. Ông dẫn cậu đến một nhà kho nhỏ có để vài dụng cụ và y
phục của nhân viên hỏa xa, cho cậu khoác một áo vét màu xám, đội lên đầu
cậu chiếc mũ lưỡi trai và giao cho cậu một khối đồ nhẹ. Sau khi đã kiểm
tra vẻ tề chỉnh của trang phục, ông yêu cầu cậu đi theo mình dọc đường
tàu. Trên đường, họ gặp hai đội tuần tra Đức. Đội thứ nhất không để ý gì
đến họ, đội thứ hai chào họ.
Họ đến nhà ưởng ga vào chập tối. Ở đó Álvarez
được vợ ông và hai người con tiếp đón. Gia đình không hỏi gì cậu hết. Ba
ngày liền, cậu được nuôi nấng chăm sóc với một tình thương yêu vô bờ.
Các cứu tinh của cậu là người xứ Basque 1. Sáng ngày thứ ba, một xe dẫn
động bánh trước, màu đen, dừng trước một ngôi nhà nhỏ nơi Álvarez đang
dưỡng sức. Trên xe, ba chiến sĩ du kích đến đón cậu để cùng cậu tiếp tục
đi chiến đấu.
° ° °
Ngày 6 tháng Bảy
Tảng sáng, tàu lại lên đường. Chẳng bao lâu
chúng tôi đi qua nhà ga nhỏ ở một làng mang cái tên ngộ nghĩnh. Trên các
tấm biển, có thể đọc thấy "Khả Ái". Xét hoàn cảnh, sự mỉa mai về địa lý
này khiến chúng tôi cười lăn. Nhưng đột nhiên, đoàn tàu lại đứng im
lìm. Khi chúng tôi đang ngạt thở trong toa, thì Schuster điên tiết vì
lần dừng thứ mấy mươi này, và nghĩ đến một lộ trình khác. Tên truy úy
Đức biết rằng đi về phía Bắc là không thể. Quân Đồng minh đang tiến bước
không gì cản nổi và y ngày càng lo sợ hơn những hành động của lực lượng
Kháng chiến, họ phả hỏng đường tàu để trì hoãn việc đưa chúng tôi đi
đày.
° ° °
Đột nhiên cánh cửa mở ra và xoay chuyển ầm ầm.
Chói mắt, chúng tôi nhìn thấy trong khung cửa tên lính Đức đang sủa ông
ổng. Claude nhìn tôi, nghi hoặc. Một người tù làm công việc phiên dịch
nói:
- Hội Chữ thập Đỏ đang ở đây, cần đi lấy một thùng trên sân ga.
Jacques chỉ tôi. Tôi nhảy khỏi toa và ngã quỵ
xuống. Chắc là cái đầu tóc đỏ của tôi khiến tên quân cảnh Đức đứng đằng
trước tôi không ưa: thời gian ánh mắt của hắn và tôi giao nhau và thế là
hắn nện báng súng vào mặt tôi một cái thật ác liệt. Tôi bị hất ra phía
sau và ngã phệt xuống đất. Tôi sờ soạng tìm kính. Cuối cùng, kính ở dưới
tay tôi đây rồi. Tôi nhặt những mảnh vỡ nhét vào túi, và trong một màn
sương mù dày đặc,tôi bám sát gót tên lính đang đưa tôi đến sau một hàng
rào. Hắn dùng nòng súng chỉ cho tôi một thùng nước và một hộp bìa cứng
đựng những nắm bánh mì đen để chia nhau. Việc tiếp tế cho mỗi toa được
tổ chức như vậy. Và tôi hiểu rằng những người trong hội Chữ thập Đỏ và
chúng tôi không bao giờ được nhìn thấy nhau.
Khi tôi trở lại toa tàu, Jacques và Charles lao
ra cửa để giúp tôi trèo lên. Xung quanh mình, tôi chỉ htấy một màn sương
dày đặc nhốm đỏ. Charles lau rửa mặt cho tôi nhưng sương mù không tan.
Thế là tôi hiểu điều vừa xảy đến với mình. Tôi đã bảo em rồi, tạo hóa
thấy chẳng đủ hài hước khi ban cho tóc tôi màu cà rốt, tạo hóa còn phải
khiến tôi thành cậu thị như một chú chuột chũi. Không mục kỉnh, thế giới
mờ ảo, tôi mù lòa, chỉ đủ biết được liệu bây giờ đang là ngày hay đêm,
và hơi hơi phân biệt được các hình thù chuyển động xung quanh mình. Tuy
thế, tôi nhận ra sự hiện diện của thằng em bên cạnh tôi.
- Này, tên đê tiện ấy làm anh bị tổn hại quá tệ.
Tôi cầm trong tay những gì còn lại của cặp kính.
Một mẩu kính ở bên phải gọng, một mẩu khác chỉ nhỉnh hơn tí chút lõng
thõng phía trái. Chắc Claude phải mệt mỏi lắm, nên mới không thấy anh nó
chẳng đeo gì trên mũi cả. Và tôi biết nó còn chưa ước lượng được tầm
rộng lớn của bi kich. Từ giờ, nó sẽ phải tẩu thoát mà chẳng có tôi;
không có chuyện vướng víu thêm một kẻ tàn tật. Jacques thì hiểu hết; anh
bảo Claude để chúng tôi lại và đến ngồi xuống cạnh tôi. Anh thì thào:
- Đừng bỏ cuộc!
- Thì anh bảo tôi làm thế nào bây giờ?
- Chính ta sẽ tìm ra một giải pháp chứ.
- Jacques ạ, tôi thấy anh bao giờ cũng lạc quan nhưng ở chỗ này thì anh vượt quá giới hạn rồi!
Claude tự đến với chúng tôi và gần như xô đẩy tôi để tôi nhường cho nó một ít chỗ.
- Này, em đã nghĩ đến một điều cho cặp kính của anh. Phải đem trả lại cái thùng chứ?
- Thế thì sao nào?
- Thế thì, vì chúng không cho phép một sự tiếp
xúc nào giữa hội Chữ thập Đỏ và chúng ta, mình vẫn sẽ phải để lại cái
thùng ở sau hàng rào, một khi nó rỗng không rồi.
Tôi đã nhầm, chẳng những Claude hiểu tình thế
của tôi, mà nó còn đã đang xây dựng một kế hoạch rồi. Và dù điều này khó
xảy ra đến mấy, tôi vẫn đi đến chỗ tự hỏi liệu từ nay trở đi, trong hai
đứa, có phải thằng em sẽ là tôi hay không.
- Anh vẫn không hiểu em định đi đến đâu?
- Mỗi bên gọng của anh còn một mẩu kính. Đủ để một thày thuốc nhãn khoa biết được độ cận thị của anh.
Với một mảnh gỗ và một sợi chỉ dứt từ áo sơ mi,
tôi đang cố vãn hồi điều bất khả vãn hồi. Nổi xung, Claude đã đặt tay nó
lên bàn tay tôi.
- Thôi đừng cố vá víu nữa! Mẹ kiếp, anh hãy nghe
em này. Anh sẽ không bao giờ nhảy được qua cửa sổ, cũng không thể chạy
vắt chân lên cổ với cặp kính ở tình trạng này. Ngược lại, nếu ta đặt
những gì còn lại ở đáy thùng, có lẽ ai đó sẽ hiểu ra và sẽ giúp đỡ chúng
ta.
Tôi rơm rớm nước mắt, xin thú nhận như vậy.
Không phải vì giải pháp của thằng em chan chứa tình yêu thương của nó,
mà vì vào khoảnh khắc ấy, ở tận cùng nỗi hoang mang bối rối của chúng
tôi, Claude vẫn còn đủ sức mạnh để tin vào niềm hy vọng. Ngày hôm ấy tôi
đã hết sức tự hào vì nó, tôi đã yêu nó mãnh liệt đến mức bây giờ tôi
vẫn còn tự hỏi không biết mình đã dành thì giờ nói với nó điều ấy chưa.
Jacques bảo:
- Ý tưởng của nó được đấy.
- Còn lâu mới ngốc nhé, François Francois bổ sung, và tất cả những người khác đều tán thành.
Tôi chẳng tin điều ấy một giây một phút nào.
Tưởng tượng rằng chiếc thùng thoát khỏi sự lục soát trước khi hội Chữ
thập Đỏ thu hồi nó. Mơ rằng một người đàn ông hay đàn bà nào đó phát
hiện trong thùng những mẩu kính của tôi và quan tâm đến số phận tôi, đến
vấn đề thị lực của một tù nhân đang bị đày sang Đức, còn hơn cả khó
tin. Nhưng ngay cả Charles cũng thấy kế hoạch của thằng em tôi "dất cừ".
Thế là, coi khinh những nghi ngờ và nỗi bi quan
của mình, tôi chấp nhận ra rời hai mẩu kính bé tí mà giá như giữ lại thì
chúng cũng khiến vừa vặn nhận ra được các vách của toa tàu.
Để trả lại bạn bè một chút xíu của niềm hy vọng
mà họ đã xiết bao hào hiệp tặng mình, cuối buổi chiều, như Claude đã đề
nghị, tôi đặt vào chiếc thùng rỗng sẽ rời khỏi toa tàu, những gì còn lại
từ cặp kính của tôi. Và khi cánh cửa đóng lại, tôi đã nhìn thấy, trong
bóng người nữ y tá thuộc hội Chữ thập Đỏ đang đi ra xa, màu đen của cái
chết chìm ngợp lấy tôi.
Đêm ấy, một cơn giông nổ ra bên trên làng Khả
Ái. Mưa tràn trề trên nóc và chảy vào trong toa qua những lỗ thủng do
đạn máy bay để lại. Những người hãy còn đủ sức đều đứng dậy, đầu ngẩng
lên, miệng há to để hứng lấy các giọt nước.
Chú Thích
1. Các miền Basque (Pays basques) là một
tổng thể địa lý ở hai miền dãy núi Pyrénées phía Tây, có phần thuộc Tây
Ban Nha, có phần thuộc Pháp.