Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Jack London - 04 - Part 3

Chiếc Misi nguyên lúc trước có thể đứng vững một mình, nhưng bây giờ lại bị gia thêm sức cản gió quá mãnh liệt của chiếc Xương Rồng, nên cả hai đều bám dính vào nhau trôi tuột đi băng qua mặt đầm réo sùng sục, trắng phau bọt sóng. Người ta thấy thuỷ thủ trên hai con tàu mải miết, nào chặt, nào đẩy gỡ chúng rời nhau ra. Chiếc Roberta, đã đứt neo, phía mũi trương một mảnh vải bạt đang hướng mũi lao về phía cửa biển ở tận đầu Tây Bắc của đầm nước mặn. Họ thấy con tàu vượt được qua cửa và chạy thẳng ra khơi. Tuy nhiên, chiếc Misi và chiếc Xương Rồng không sao rời được nhau ra. Cả hai bị thổi bạt lên bờ đảo san hô cách cửa biển nửa dặm. 

Giông tố mỗi lúc một thổi mạnh thêm. Để chịu đựng toàn thể sức gió thổi, người ta phải dồn tất cả sức lực trong mình, bò bốn chân trên boong ngược chiều gió, trong một lúc là người nào cũng thấy mệt nhoài. Cùng với mấy thủy thủ Kanaka, Hermann vẫn gắng công bò lên, nào chằng nào buộc, luôn tay thêm dây neo chặt mép buồm vào cột. Gió xé tan manh áo lót mỏng và giật từng mảng ra khỏi lưng họ. Họ di động hết sức chậm chạp như thể người họ nặng hàng tấn, không bao giờ dám buông một tay trước khi tay kia đã nắm vững. Những đầu chão thừa nhô ngang ra, trông cứng nhắc. Sau khi bị giật, các đầu thừa dứt dời ra và bay đi mất. 

Mulhall lần lượt vỗ vai từng người rồi chỉ về phía bờ biển. Dãy nhà kho lợp tranh đã biến mất và toà nhà của Parlay đang lung lay như say rượu. Vì lẽ giông tố thổi dọc theo chu vi đảo san hô, ngôi nhà được che chở nhờ rặng dừa mọc thành hàng dài hàng mấy dặm; nhưng những đợt sóng biển lớn, từ mé ngoài vỗ mạnh vào trong, đang rìa nát nền móng và đập phá nó thành mảnh vụn. Nó đã xiêu hẳn xuống triền đồi cát, và chẳng mấy chốc giờ lâm chung của nó sẽ điểm. Đây đó, người ta thấy thổ dân tự trói mình vào những thân dừa. Rặng dừa không lay động hay nghiêng ngả gì. Gió bẻ cong ngọn chúng xuống và chúng ở nguyên thế đó trong khi tàu lá rên rỉ nghe đến rợn người. Phía dưới, những ngọn sóng bạc đầu tung mình băng qua bãi cát. 

Dọc theo chiều dài của đầm mặn, biển cũng đang động dữ dội. Nó có thửa chỗ để tung mình trong khoảng mười dặm trải rộng từ riềm đón gió của đảo san hô, và không một chiếc tàu nào là không chúi hay nhô mũi. Chiếc Malahini bắt đầu hụp chúi đầu và ngọn cột cái dưới những đợt sóng lớn, và đôi lúc, nước biển tạt lên boong cao ngang mặt dãy lan can. 

"Giờ đến lúc sử dụng động cơ của anh đó" – Grief hô lớn. Thuyền trưởng Warfield bò tới chỗ viên kỹ sư đang nằm và hét to để ra lệnh rối rít. 

Nhờ sức máy chạy hết tốc lực về phía trước, chiếc Malahini lấy lại được đôi chút thăng bằng. Mặc dầu sóng vẫn tràn lên đằng mũi, nó không còn bị mấy chiếc neo giật mạnh trở lại như lúc trước nữa. Mặt khác, nó vẫn không thêm được chút dây xích nào. Chạy hết sức, giỏi lắm bộ máy bốn chục mã lực của nó cũng chỉ có thể làm chão bớt căng thẳng mà thôi. 

Gió vẫn tăng sức mạnh. Chiếc Nuhiva bé nhỏ, nằm trước chiếc Malahini và gần bờ biển hơn, động cơ vẫn chưa sửa xong và thuyền trưởng còn ở trên bờ, đang trải qua một thời gian khốn đốn. Nó lặn hụp quá nhiều lần và quá sâu đến nỗi lần nào họ cũng phập phồng chỉ sợ nó không sao thoát khỏi sóng nước. 

Lối ba giờ chiều, bị chôn vùi với đợt sóng thứ hai trước khi nó kịp gỡ mình ra khỏi làn sóng trước, nó không ngoi lên được nữa. 

Mulhall nhìn Grief. 

"Nước biển tràn vào qua các cửa sổ của nó rồi" – Grief hét to trả lời. 

Thuyền trưởng Warfield chỉ sang chiếc "Winifred" - một chiếc tàu buồm nhỏ đang hụp lặn mé ngoài họ, và quát vào tai Grief. Giọng ông vang lên thành từng chuỗi yếu ớt, thỉnh thoảng lại bị ngất bằng những quãng yên lặng mỗi khi bị giông tố gào thét thổi tạt đi. 

"Nó có khác gì một chiếc bồn tắm nhỏ nhoi đã rữa nát… Neo bám vững… Nhưng làm sao nó tránh khỏi bị tan thây được… Cũ kỹ như thuyền của cụ Noeh ấy". 

Một giờ sau, Hermann chỉ sang phía nó. Mấy chiếc cột con, cột cái phía trước và phần lớn mũi tàu bị biến mất vì bị mấy chiếc neo giật đứt khỏi thân tàu. Nó nghiêng về một bên mạn, lẩn mình trong luống trũng giữa hai làn sóng rồi chúi hẳn đầu xuống; và ở thế đó nó bị cuốn đi theo chiều gió. 

Giờ chỉ còn lại năm chiếc tàu, và chỉ có chiếc Malahini là gắn thêm động cơ. Sợ cùng chung một số phận với chiếc Nuhiva hay chiếc Mildred, hai chiếc nữa đành theo gương chiếc Roberta chặt đứt vòng dây neo và lao về phía cửa bể. Chiếc Dolly dẫn đầu nhưng cánh buồm của nó bị gió cuốn mất, và nó đi đến chỗ tử vong ở riềm khuất gió của đảo san hô, gần chiếc Misi và chiếc Xương Rồng. Thấy thế, chiếc Moana vẫn không sờn lòng, chặt neo và theo sau để đi đến cùng một kết quả. 

"Máy cừ đấy chứ hả?" - thuyền trưởng Warfield hỏi vọng sang phía chủ thuyền. 

Grief giơ tay bắt. "Đáng đồng tiền bát gạo lắm" - hắn la đáp lại. "Gió đang đổi hướng lượn về phía nam, tàu ta sẽ bớt chòng chành". 

Từ từ và đều đặn nhưng với tốc lực mỗi lúc một tăng, cuồng phong lượn vòng xuống phía nam và phía tây nam; cho đến khi cả ba chiếc tàu buồm còn sót lại đều hướng thẳng mũi vào bờ. Cái xác nhà của Parlay bị thổi tung xuống đầm mặn và bị đẩy hắt về phía họ. Nó bay qua chiếc Malahini, rớt xuống chiếc Papara nằm cách đuôi nó chừng một phần tư dặm. Đoàn thuỷ thủ chiếc Papara hối hả ra công phá, gỡ và chừng một khắc sau xác nhà được đẩy ra khỏi tàu nhưng cũng mang theo chiếc cột buồm mũi và bộ buồm phụ trước mũi. 

Gần bờ biển, về phía trước mũi họ là chiếc Tahaa, thon nhỏ giống như chiếc du thuyền nhưng lại lắp quá nhiều cột buồm. Mấy chiếc neo của nó vẫn còn bám vững nhưng viên thuyền trưởng thấy gió không bớt sức lộng, bắt đầu tìm cách giảm sức gió cản, bằng cách chặt dây các cột buồm trên tàu. 

"Máy ta cừ quá" – Grief khen viên thuyền trưởng. "Cũng may có nó ta đỡ phải chặt cột buồm". 

Thuyền trưởng Warfield lắc đầu ra vẻ hoài nghi. 

Vùng biển trong vùng nước mặn lặng sóng dần với hướng gió đổi thay; nhưng họ bắt đầu cảm thấy sức tung dồn của biển cả mé ngoài vỗ qua mặt đảo san hô. Rặng dừa không sót lại mấy cây. Một số bị gãy ngang thân: mấy cây khác bị tróc gốc. Họ được chứng kiến cảnh một nửa thân cây bị bẻ gẫy rời; trên có ba người bám chặt, và bị cuồng phong lôi cuốn xuống đầm mặn. Hai người rời thân cây bơi về phía chiếc Tahaa. Một lát sau, ngay trước khi đêm xuống, họ thấy một người từ đuôi chiếc tàu nhảy xuống nước và mạnh mẽ bơi sải về chiếc Malahini qua những đợt sóng nhỏ nhấp nhô tung bọt trắng ngần. 

"Đó là Tai-Hotauri" - Grief đoán. "Giờ thì ta biết tin đây". 

Gã thổ dân Kanaka bám vào sợi dây chão ở đầu mũi, trêo lên đầu tàu và bò về phía đuôi. Hắn dành được đủ thời gian để lấy lại hơi sức và nấp sau phía khuất gió của căn phòng, gã kể lại câu chuyện qua những lời ngắt quãng và phần lớn nhờ cách giơ tay làm hiệu. 

"Narii… Đạo tặc khốn khiếp. Nó muốn cướp ngọc trai. Một đứa giết Parlay… Không biết là đứa nào… Ba thằng Kanaka, Narii, tôi… Năm hạt đậu… Narii nói một hạt đen… Chẳng ai biết… Giết Parlay… Narii gian dối khốn khiếp… Viên nào cũng đen… Năm đen… Kho khô dừa tối ngòm… Người nào cũng được viên đen… Gió lớn đến… Không cách gì… Ai nấy lên cây… Ngọc trai mang vận xui; trước kia tôi từng nói với ông thế… Không may mắn đâu". 

"Parlay bây giờ ở đâu?" – Grief thét lên hỏi. 

"Trên cây… Ba thằng Kanaka của nó cũng ở cây ấy; Narii và một thằng Kanaka nữa ở cây khác… Cây của tôi bị tróc gốc, thế rồi tôi về tàu". 

"Mớ ngọc trai ở đâu?" 

"Trên cây cùng với Parlay, có lẽ Narii lấy được ngọc rồi". 

Grief lần lượt thét vào tai từng người kể lại câu chuyện của Tai-Hotauri, riêng thuyền trưởng Warfield nổi cơn thịnh nộ và họ thấy ông nghiến răng kèn kẹt. 

Hermann xuống phía dưới rồi trở lên, tay cầm mỗi cây đuốc nhưng đúng lúc vừa giơ lên quá vách phòng nó bị gió thổi tắt ngóm. Hắn may mắn hơn với cây đèn lồng xem địa bàn được thắp sáng, sau khi họ thay phiên nhau bao lần hoài công cố gắng châm lửa. 

"Đêm nay gió mới lộng chứ" – Grief hét vào tai Mulhall "và mỗi lúc lại thổi mạnh thêm". 

"Mạnh thế nào?" 

"Một trăm dặm một giờ - hai trăm cũng nên. Tôi cũng không biết nữa. Chưa bao giờ tôi thấy giớ thổi mạnh hơn". 

Đầm mặn mỗi lúc một chuyển động mạnh vì sức sóng biển tràn vào qua thành đảo san hô. Cả một vùng trùng dương rộng hàng trăm hải lý đang bị đẩy lui dưới sức cuồng phong, sức đẩy còn mạnh gấp bội sức nước rút của thuỷ triều. Ngay khi ấy thuỷ triều bắt đầu dâng lên, mực biển lên cao rất dễ nhận thấy. Trăng và gió đang dồn nước miền Nam Thái Bình Dương tràn lên đảo san hô Hikihoho. 

Thuyền trưởng Warfield trở lên boong sau một trong những chuyến xuống phòng máy và báo tin viên kỹ sư bị ngất. 

"Không thể cho máy ngừng chạy được" – ông kết luận với giọng thất vọng. 

"Thôi được" – Grief thét. "Khiêng hắn lên boong. Để tôi thay phiên hắn một lúc". 

Nắp cửa hầm dẫn xuống phòng máy đã được đóng chặt, muốn xuống phải qua một lối đi hẹp từ phòng ngủ. Qua hơi nóng và khói dầu xông lên ngột ngạt. Grief vội vã quan sát động cơ và dụng cụ trong gian phòng nhỏ bé qua một lượt rồi thổi tắt ngọn đèn dầu. Sau đó, ông mò mẫm làm việc trong bóng tối ngoại trừ ánh sáng le lói toả ra từ những điếu xì gà liên tiếp mà ông phải đi sang phòng ngủ để châm hút. Mặc dầu tính vốn điềm đạm, chẳng mấy chốc ông đã bắt đầu tỏ ra mệt nhọc, cáu kỉnh vì bị giam lỏng cùng với một bộ máy quái đản phải chạy hết tốc lực, rền rĩ và rung chuyển trong đêm tối đầy tiếng gào thét. Minh để trần đến ngang thắt lưng, dính đầy dầu mỡ, nhiều chỗ tím bầm hay xước da vì bị con tàu lúc chồm lên, lúc chúi mũi xuống, hất ngã dúi dụi, đầu óc chơi vơi vì bị buộc phải hô hấp thứ không khí trộn lẫn hơi xăng, ông làm lụng vất vả hết giờ này sang giờ khác, lần lượt vuốt ve khen tặng, đổ thêm xăng, và nguyền rủa chiếc động cơ và tất cả những bộ phận của nó. Bộ phận phát lửa bắt đầu hỏng. Bộ máy mỗi lúc một thêm ngộp xăng và tệ hơn hết mấy chiếc xy lanh bắt đầu bốc nóng. Trong khi hội họp trong phòng ngủ để thảo luận, viên kỹ sư hết van xin lại yêu cầu cho máy nghỉ độ nửa tiếng để động cơ nguội đi và để sửa lại hệ thống tuần hoàn. 

Thuyền trưởng Warfield phản đối không cho hãm máy. Gã lai da trắng thề độc rằng động cơ tất hư hỏng và thế nào cũng ngưng chạy hẳn. Mắt nẩy lửa, khắp người xây xát và bê bết những dầu mỡ. Grief la hét và rủa xả cho cả hai im miệng, và thân hành ban bố hiệu lệnh. Mulhall, viên quản lý và Hermann được giao phó việc gạn dầu xăng, gạn đi gạn lại hai, ba lần trong phòng ngủ. 

Một lỗ hổng được phá thông qua sàn phòng máy và một thuỷ thủ Kanaka phải kéo nước dưới hầm tàu lên tưới nguội mấy ống xi lanh, trong khi Grief tiếp tục dội dầu lên những bộ phận đang hoạt động. 

"Ai ngờ ông lại là một chuyên viên dầu xăng" - thuyền trưởng Warfield tán tụng khi Grief sang phòng ngủ để thở hút một chút không khí trong lành hơn. 

"Tôi quả là tắm dầu xăng" – ông hằn học nói dằn từng tiếng qua kẽ răng. "Uống nữa là đằng khác". 

Người ta không biết ông còn tìm ra những cách nào khác để sử dụng xăng bởi vì vào lúc ấy, tất cả những người có mặt trong phòng ngủ, kể cả chỗ dầu xăng đang được gạn lọc, đều bị xô đẩy vào vách phòng trong khi chiếc Malahini đột nhiên chúi mũi xuống biển sâu. Trong một lúc lâu, họ không sao đứng dậy được, lăn đi lộn lại, nện đầu thình thịch vào hết bức tường này đến bức tường kia. Chiếc tàu buồm, bị ba đợt sóng lớn nhồi liên tiếp, rên rỉ, rùng mình và dưới sức nặng của nước biển tràn vào các cầu tàu, hoạt động như một khúc gỗ. Grief bò sang phòng máy, trong khi thuyền trưởng Warfield đợi dịp trèo lên cầu thang thoát lên boong. 

Mãi nửa giờ sau ông mới trở xuống. 

"Thuyền săn trôi mất rồi" – ông báo cáo, "chiếc xuồng lớn cũng mất nốt. Cái gì cũng trôi hết trừ boong tàu và mấy cửa hầm. Và nếu cái máy ấy không chạy, tụi mình cũng đã trôi đi mất rồi. Ta phải tiếp tục cho máy chạy đều". 

Gần tới nửa đêm, lồng ngực và đầu óc viên kỹ sư đã trút sạch khói dầu đủ để cho hắn vào thay phiên Grief cho ông lên boong thông sạch đầu và phổi. Ông nhập bọn đám người đang nằm rạp ở mé sau buồng ngủ, tay bám chắc vào mép tường, khắp người chằng thêm dây thừng cho thật chắc chắn. Đó là cả một khối người hỗn độn, xúm xít vào nhau, bởi vì đầy là nơi ẩn nấp duy nhất của đoàn thuỷ thủ Kanaka. Một số đã nhận lời thuyền trưởng mời vào tạm trú trong phòng ngủ, nhưng rồi lại bị khói dầu xua trở ra. Chiếc Malahini luôn luôn chúi mũi xuống và bị sóng tạt qua boong, và cái mà họ dang thở hít là do không khí, bọt sóng và nước biển hỗn hợp cùng pha trộn. 

"Mulhall, tàu chòng chành dữ quá" – Grief hét về phía ông khách quý sau một lần ngập sũng nước mặn. 

Mulhall, bị nghẹt thở đến gần chết sặc, chỉ đành gật đầu đồng ý. Những lỗ thông nước ở hai bên mạn tàu không sao xối kịp cho khối nước tràn ngập trên boong rút hết xuống biển. Con tàu lăn lộn, hất tung khối nước qua mặt lan can bên mạn này để rồi lại đón nhận khối nước khác tràn lên qua mặt lan can bên kia. Đôi khi, mũi chổng hẳn lên trời, đuôi ngụp thẳng xuống biển, nó hắt nước biển chảy xối về phía sau. Nước mặn tuột theo cầu thang sân thượng đằng mũi, dào dạt leo qua nóc phòng ngủ, trút ngập xuống và gây bầm dập cho những kẻ bám chắc lấy cầu tàu, và đổ xuống biển qua mặt lan can đằng đuôi. 

Mulhall trông thấy một người trước tiên và lưu ý Grief. Đó chính là Narii Herring, đang nằm rạp, tay bám chắc vào nơi mà ánh đèn soi địa bàn chiếu xuống người hắn. Hắn trần như nhộng, ngoại trừ một chiếc đai lưng và một lưỡi dao giắt giữa chiếc đai và lần da. 

Thuyền trưởng Warfield cởi dây trói và bước qua thân mình đám thuỷ thủ. Khi mặt ông hiện rõ trong vùng sáng của ngọn đèn, người ta mới thấy ông đang nổi cơn thịnh nộ, và có thể nhận ra ông quát tháo, nhưng tiếng ông bị gió át đi. Ông không muốn kề sát tai Narii Herring. Trái lại, ông chỉ qua một bên mạn tàu. Narii Herring hội ý. Hàm răng trắng nhởn của hắn nhe ra trong một nụ cười vui thích và riễu cợt. Hắn đứng thẳng dậy – hình ảnh một con người thật hiên ngang. 

"Có khác gì giết hắn?" – Mulhall hét về phía Grief. 

"Nó cũng định giết lão Parlay mà?" – Grief hét đáp lại. 

Lúc ấy nước đã rút hết trên sân thượng và chiếc Malahini đang ở thể thăng bằng. Muốn làm ra vẻ anh hùng rơm, Narii Herring cố bước chững chạc ra mé lan can, nhưng lại bị cơn giớ thổi ngã bổ nhoài. Sau đó, hắn bò lồm ngổm và biến dạng trong đêm tối mặc dầu ai nấy đều tin rằng hắn đã trôi xuống biển qua mạn tàu. Chiếc Malahini hụp xuống thật sâu: và khi họ nhô ra khỏi làn nước đổ như thác lũ xuống mé đuôi, Grief rót vào tai Mulhall. 

"Chúng ta không thể mất người bạn quý ấy đâu! Hắn là Người Cá của đảo Tahiti đấy! Thế nào hắn cũng bơi được qua đầm mặn leo lên bờ đảo san hô mé bên kia - nếu còn vành san hô nào sót lại". 

Năm phút sau, trong một lần khác bị nước biển bao phủ, một đống hài hài hỗn độn qua nóc phòng xuống đầu họ. Họ vội nắm lại và giữ chắc cho đến khi nước rút hết, rồi khiêng chúng xuống khoang tàu để tìm biết lai lịch chúng. Lão Parlay nằm ngửa trên sàn, hai mắt nhắm nghiền không động cựa. Hai gã kia là anh em họ của lão, người xứ Kanaka. Cả ba đều trần truồng và bê bết những máu. Cánh tay một gã Kanaka đã gẫy rục và lủng lẳng cạnh sườn, gã Kanaka kia bị toạc một miếng khá to, máu ở vết thương chảy ra xối xả. 

"Công trình của gã Narii phải không?" – Mulhall hỏi. Grief lắc đầu. "Không. Họ bị thương trong khi trôi theo cầu tàu và qua nóc nhà". 

Một cái gì bỗng ngưng hẳn, làm họ chóng mặt và hoang mang. Trong giây lát, họ khó lòng mà nhận thức ra rằng gió đã tắt. Như được tặng một nhát kiếm cực bén bất thình lình chém xuống, cuồng phong bị chặt đứt. Chiếc tàu buồm tròng trành và lặn hụp để rồi được mấy chiếc neo kéo trở lên với một tiếng dội mạnh mà lần đầu tiên họ nghe thấy, và cũng là lần đầu tiên họ nghe tiếng nước biển dào dạt đổ quanh trên mặt boong. Viên kỹ sư chặn chân vịt lại và cho động cơ nghỉ chạy. 

"Chúng ta đang ở trong tâm bão lặng gió" – Grief nói. "Sắp sửa đến lúc đổi phiên. Nó sẽ đến mạnh như lần trước". Ông nhìn phong vũ biểu. 

"Hai mươi chín độ ba mươi hai phút", - ông cao giọng đọc. 

Trong một lát, ông không sao hạ thấp được giọng. Trong hàng bao tiếng đồng hồ, ông đã quen hét to để cuồng phong khỏi át mất giọng. Giờ đây, ông nói quá lớn đến nỗi, trong bầu không khí yên lặng, tiếng ông làm những người khác phải chối tai. 

"Xương sườn lão dập hết rồi" – viên quản lý miệng nói tay sờ nắn hai bên hông Parlay. "Lão còn thoi thóp nhưng cũng sắp ngoẻo rồi". 

Lão Parlay rên rỉ, động đậy một bên tay nhưng không sao cất nhấc lên được và mở mắt. Mắt lão rực sáng khi nhận ra người quen. 

"Quý ngài" – lão thì thầm qua hơi thở hổn hển "đừng quên… buổi bán đấu giá… lúc mười giờ… dưới âm ty". 

Mắt lão nhắm nghiền và hàm dưới chỉ chực trễ xuống, nhưng lão gắng sức chế ngự cơn quằn quại trong giây phút hấp hối để kịp buông ra tiếng cười khành khạch diễu cợt cuối cùng. 

Trên không và dưới biển cả, giông bão lại nổi dậy đùng đùng. Tiếng gầm rít quen thuộc của cuồng phong lại đến với họ. Chiếc Malahini bị tạt trúng vào một bên sườn và bị ép dí xuống trong khi nó lượn một vòng cánh cung mà mấy chiếc neo buộc nó phải trôi theo. Chúng kéo nó trở vào hướng giớ, nó giật mạnh rồi về thế thăng bằng. Chiếc chân vịt được đẩy cho chạy và động cơ lại tiếp tục hoạt động. 

"Hướng Tây Bắc" - thuyền trưởng Warfield hét về phía Grief khi ông leo lên boong. "Tụt tám độ trong nháy mắt". 

"Bây giờ thì Narii không thể nào vượt qua được đầm mặn nữa" – Grief nhận xét. 

"Nếu thế thì hắn tất bị thổi dạt trở về phía chúng ta – không còn gì xui xẻo hơn nữa." 

V 

Sau khi tâm bão đi qua, phong vũ biểu bắt đầu lên. Sức gió cũng bớt theo cùng một tốc độ. Khi giông tố chỉ còn là một cơn gió mạnh rú rít, chiếc động cơ nẩy tưng lên trên không, rời khỏi bệ trong cơn quằn quại cuối cùng của một tân lực mạnh bốn mươi mã lực, và đổ lăn sang một bên, một luồng nước từ dưới hầm tàu phun lên tung toé bao trùm lấy nó và hơi nóng bốc lên ùn ùn như mây. 

Viên kỹ sư rên xiết vì hoảng sợ, nhưng Grief nhìn cái thân tàn của nó với vẻ trìu mến rồi bước sang phòng ngủ bốc từng nắm bông gòn bỏ đi đưa lên chùi sạch những vết dầu mỡ bám trên ngực và cánh tay. 

Mặt trời đã mọc và cơn gió nồm hiền hoà nhất mùa hè đang thổi khi ông lên tới boong, sau khi khâu lại vết nứt trên sọ một gã Kanaka và bó chắc cánh tay của gã kia. Chiếc Malahini nằm sát bờ biển. Đằng mũi, Hermann và đoàn thuỷ thủ đang kéo chão và gỡ mấy chiếc dây neo xoắn vào nhau. Chiếc Papara và chiếc Tahaa đều đã mất dạng. Thuyền trưởng Warfield dương viễn vọng kính quan sát riềm bên kia đảo san hô. 

"Chúng chìm hết, chẳng còn cột buồm" – ông nói. "Không có động cơ tai hại thế đấy. Chắc chúng bị dạt, băng ra ngoài đầm trước khi cơn bão tạm ngưng thổi để đổi hướng". 

Trên bờ, ở nơi nền nhà cũ của Parlay, không còn một chút vết tích gì chứng tỏ trước kia từng có ngôi nhà ở đó: Trong khoảng ba trăm thước, nơi mà biển cả đã phá vỡ tràn vào, không còn lại một cây nào đứng vững hay cả một thân cây bị đổ. Đây đó, về phía xa xa, còn trơ một cây dừa lẻ loi và có rất nhiều cây đã bị xén đứt ngang thân. 

Trong vòm lá của một cây dừa sống sót, Tai-Hotauri cả quyết gã trông thấy một vật gì cử động. Trên tàu không còn sót một chiếc xuồng nào, và họ nhìn theo gã bơi vào bờ, leo lên cây. 

Khi gã lội trở về tàu, họ giúp một thiếu nữ thổ dân thuộc đám da nhân của Parlay trèo qua lan can, nhưng trước hết nàng trao cho họ một chiếc rổ méo mó đựng một ổ mèo con chưa mở mắt – chúng đã chết, trừ một con còn yếu ớt kêu meo meo và lẩy bẩy bò quanh. 

"Ô kìa" – Mulhall kêu lên "ai kia kìa". 

Họ thấy một người đàn ông tản bộ dọc theo bờ biển. Hắn ung dung bước như thể đang dạo mát vào lúc ban mai. Thuyền trưởng Warfield nghiến chặt răng lại. Đó là Narii Herring. 

"Kìa, thuyền trưởng". - Narii Herring lên tiếng chào khi hắn vừa tới trước mặt họ. "Thuyền trưởng có cho phép tôi lên tàu và đãi tôi một bữa điểm tâm không?". 

Mặt và cổ thuyền trưởng Warfield bắt đầu nổi gân và ửng đỏ. Ông định lên tiếng nhưng nghẹn họng không nói được nên lời. 

"Đồ dịch vật… đồ dịch vật… chỉ cần hai xu… chỉ cần hai xu..." – ông chỉ lắp bắp được có thế.