Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Jack London - 04 - Part 2


Thuyền trưởng Warfield trông sung sướng ra mặt, tuy gã chỉ làu nhàu: "Nó đáng đồng tiền bát gạo đấy chứ, đừng lo". 

Chiếc Malahini xông thẳng vào giữa đám tàu buồm và tìm chỗ đủ rộng để buông neo. 

"Kìa lão Isaacs trên chiếc Dolly" – Grief nhận xét và giơ một tay lên vẫy chào. "Và kia là thằng cha Peter Gee trên chiếc Roberta. Không gì có thể giữ cho hắn khỏi xuất hiện ở một nơi bán ngọc như nơi này. Kìa gã Francini trên chiếc "Xương Rồng". Có bao nhiêu lái buôn đều tụ họp tại đây. Lão Parlay ắt phải bán được giá cao". 

"Tụi chúng chưa sửa xong máy" - thuyền trưởng Warfield làu nhàu, giọng hỉ hả. Hắn đang đưa mắt ngang qua mặt hồ về nơi chiếc Nuhiva nhô buồm qua rặng dừa thưa thớt. 

II 

Dinh thự của Parlay là một toà nhà gỗ nguy nga hai từng. Gỗ mua tận xứ California, về còn mái thì lợp tôn uốn. So với vòng đai mỏng manh của đảo san hô, trông nó quá so le: nó trải dài ra trên bãi cát mịn và đứng sừng sững trên giải cát khác nào một thứ quái vật khổng lồ từ lòng đất mọc chồi lên. Ngay sau khi thả neo, đám con buôn trên chiếc Malahini đã lên bờ và yết kiến chúa đảo cho phải phép. Các thuyền trưởng và lái buôn khác đã tề tựu đông đủ trong gian đại sảnh và đang quan sát mỏ trân châu sẽ được đem ra bán đấu giá hôm sau. Bọn gia nhân, toàn là thổ dân đảo Hikihoho và họ hàng của chủ nhân, lăng xăng đi đi lại lại rót uýt-ki và rượu bạc hà. Parlay cũng xen lẫn vào đám người từ chiếng, luôn miệng ba hoa hay cười diễu. Trông lão này chỉ còn là một thân tàn héo hắt, vang bóng của con người xưa kia đã từng có thời phương phì, lực lưỡng. Mắt lão trũng sâu, long lên sòng sọc, má lão hóp lõm hẳn xuống. Tóc lão đâm ra tua tủa hinh như chỉ mọc thành từng đám. Bộ ria và râu mép dưới của lão đều được vuốt rẽ sang cùng một bên. 

"Trời ơi!" – Mulhall khẽ lẩm bẩm. "Trông lão già này mình cứ ngỡ là một Nã Phá Luân Đệ Tam cao giò – nhưng đã mòn mỏi, má triệt, răn rúm. Mà lại ốm o loẻo khoẻo nữa. Thảo nào lão cứ phải ngoẹo đầu sang một bên. Lão phải giữ cho thân thể được thăng bằng đi cho vững mà". 

"Sắp có bão rồi" – lão già nói với Grief thay câu chào. "Bác chắc phải quý ngọc lắm nên mới chịu lặn lội đến đây vào một ngày giở trời như hôm nay". 

"Ngọc của cụ thật là quý giá. Nếu có phải xuống hoả ngục tìm chúng, tôi cũng xuống ngay" – Grief cười lấy lòng và đảo mắt lướt qua đám trân châu bày la liệt trên mặt bàn. 

"Trước đây từng có bao nhiêu người đã không quản ngại đường xa đến đây vì chúng" – lão Parlay ba hoa. "Thử coi viên kia xem!" Lão chỉ một viên ngọc trai tròn xoe, to bằng một hạt dẻ nhỏ, được đặt riêng trên một mảnh da hoẵng. "Bên Tahiti, có người đã trả tôi sáu vạn quan rồi đấy. Ngày mai người ta tất trả bằng giá ấy, có khi cao hơn, nếu họ may mắn thoát khỏi cơn bão. Xem nào, anh họ tôi - họ bên vợ mà – đã mò được viên trân châu ấy. Hắn là thổ dân, chắc bác cũng dư biết. Hắn còn là một tay bợm giỏi. Hắn dấu kỹ viên ngọc. Thực ra, ngọc là của tôi. Em họ hắn, đồng thời là em họ tôi nữa, - ở đây ai cũng là họ hàng thân thích cả - giết hắn đoạt viên ngọc, rồi đáp thuyền buồm trốn sang bên Noo-Nau. Tôi đuổi theo nhưng chúa đảo Noo-Nau đã giết hắn cướp ngọc trước khi tôi đến kịp. Thưa phải, mỗi viên ngọc bày trên mặt bàn kia tượng trưng cho bao người đã bỏ mạng vì nó. Thuyền trưởng uống gi chứ? Trông bác lạ mặt quá. Bác mới đến vùng đảo này lần đầu phải không?" 

"Đây là thuyền trưởng Robinson chỉ huy chiếc Roberta" – Grief giới thiệu. 

Trong khi đó Mulhall bắt tay Peter Gee. 

"Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được rằng trên đời này lại có nhiều trân châu đến thế" – Mulhall nói. 

"Tôi cũng thế, tôi chưa hề thấy ngần ấy ngọc tụ chung cùng một nơi và cùng một lúc" – Peter Gee công nhận. 

"Chỗ ngọc này đáng giá tất cả bao nhiêu?" – Mulhall hỏi. 

"Độ năm, sáu chục ngàn bảng Anh - ấy là theo giá bán cho nhà buôn chúng tôi. Bên Paris…" - hắn nhún vai. 

Mulhall lau mồ hôi đọng trên mí mắt. Chung quanh ai nấy đầu vã mồ hôi như tắm và thở hít những hơi dài. Nhà chủ không có nước đá, tân khách phải uống uýt-ki hay rượu bạc hà hâm hẩm nóng. 

"Vâng" – Parlay ba hoa. "Bao vong hồn đang phảng phất quanh chiếc bàn kia. Tôi thuộc sự tích những viên ngọc ấy, từng viên một. Bác coi bộ ba kia - giống hệt nhau phải không? Một thợ lặn quê bên Đảo Phục Sinh mò được chúng cho tôi nội trong một tuần. Ngay tuần sau hắn bị cá mập đớp cụt mất một tay; sau hắn chết vì máu nhiễm độc. Cái viên ngọc méo mó to tướng kia lại chẳng đáng giá bao nhiêu; ngày mai, có ai trả giá hai chục quan mua nó, tôi cũng tự cho là hên rồi - phải lặn xuống sâu hai mươi hai sải mới vớt được lên đấy. Gã thợ lặn là thổ dân đảo Rarotonga. Hắn đã phá bao kỷ lục về môn lặn. Hắn phải lặn xuống tới hai mươi hai sải mới mò được nó. Tôi được chứng kiến hắn lặn mà. Chắc hắn lặn mà nổ phổi, hoặc chất đạm nổi phao trong máu hắn, hoặc cả hai cùng một lúc, bởi vì lên bộ được hai tiếng thì hắn ngoẻo. Lúc chết hắn ta hét rùm trời, ở xa hàng mấy dặm còn nghe thấy tiếng hắn rú. Xưa nay tôi chưa từng thấy một gã thổ dân nào lực lưỡng hơn hắn. Trong đám thợ lặn của tôi, có tới nửa tá chết vì chứng chất đạm nổi phao trong máu. Và sẽ còn nhiều người phải chết - nhiều người chết nữa". 

"Thôi xin cụ im miệng đi cho" - một thuyền trưởng cự Parlay. "Trời thế này làm gì có bão". 

"Nếu tôi còn trẻ và khoẻ mạnh, tôi đã rút neo và chuồn cho lẹ" – lão già cãi lại với giọng đã the thé vì tuổi tác. "Nếu tôi mà còn trai tráng, nhất là khi còn thưởng thức được hương vị của rượu, thì tôi đã chuồn rồi. Nhưng các bác thì không. Chẳng ai chịu ra về đâu. Tôi đã không khuyên các bác nếu tôi biết là các bác muốn chuồn. Ai mà xua được đám diều hâu bay khỏi cái xác thối trương chứ? Nào, các bác, ta uống thêm ly nữa chứ. A ha, vì mấy viên ngọc trai khốn khổ mà bao người coi thường mọi hiểm nguy! Đây, bao vưu vật còn nằm trơ ra đó. Mai nhất định bán đấu giá, đúng mười giờ. Lão Parlay đã chịu đem của báu ra bán hết và bầy diều hâu đang xúm lại quanh – Parlay nay đã già rồi, nhưng hồi trai tráng, còn cường kiện hơn bất cứ một chú diều nào và sẽ được mục kích hầu hết bầy diều ấy đi đến chỗ tử vong". 

"Có phải lão đúng là một quái vật quỉ quyệt không?" – viên quản lý của chiếc Malahini rỉ tai Peter Gee. 

"Nếu quả có bão thì đã sao?" - thuyền trưởng chiếc Dolly nói. "Đảo Hikihoho chưa từng bị bão mà". 

"Như thế càng chắc chắn lần này thế nào nó cũng bị" - thuyền trưởng Warfield trả lời một cách bi quan. "Tôi không tin ở đây được an toàn lắm". 

"Giờ thì ai ba hoa vậy?" – Grief trách. 

"Tôi rất ân hận nếu phải mất bộ máy mới toanh trước khi mình được sử dụng nó đã đời" -thuyền trưởng Warfield đáp giọng rầu rĩ. 

Parlay nhanh nhẹn băng qua gian phòng chật ních những người đến chỗ tường treo phong vũ biểu. 

"Này, các bạn vàng, mau lại đây xem thử" – lão sung sướng reo lên. Gã đứng gần nhất chăm chú nhìn chiếc ống thuỷ tinh. Trông gã hốt hoảng ra mặt. 

"Tụt xuống mười độ rồi" – gã chỉ nói được có thế. Tuy nhiên ai nấy đều lo lắng và cảm thấy bứt rứt như muốn bước ngay ra phía cửa. 

"Thử lắng nghe coi?" – Parlay ra lệnh. 

Qua màn im lặng, tiếng sóng biển bên ngoài có vẻ réo to khác thường. Từ xa, vọng lại tiếng biển gầm dữ dội. 

"Biển bắt đầu động rồi" - một người trong bọn nói: Mọi người đổ xô ra tụ tập bên mấy khung cửa sổ. 

Họ đưa mắt nhìn qua rặng dừa thưa thớt về phía biển khơi. Từng đợt sóng cao, đều đặn, nối đuôi nhau tung mình vào bờ san hô. Trong chốc lát, họ lặng ngắm cái cảnh kỳ lạ đó và trầm giọng bàn tán với nhau. Và, trong mấy phút ngắn ngủi đó, ai cũng phải nhận thấy rằng sóng biển mỗi lúc một lớn thêm. Cái cảnh trùng dương dâng sóng trong khi không có lấy một hơi gió thoảng thật là ghê rợn. Họ tự nhiên hạ thấp giọng xuống. Giọng ba hoa the thé đột ngột của lão Parlay làm họ giật mình và bực dọc. 

"Quý vị còn thừa chán thì giờ để ra kịp ngoài khơi. Quý vị có thể dùng xuồng săn kéo tầu băng qua đầm mặn". 

"Này cụ, chẳng hề gì đâu" - Darling, phó thuyền trưởng chiếc "Xương Rồng", một gã trai tráng lực lưỡng trạc hăm lăm nói. "Bão thổi về hướng Nam qua đây rồi đi thẳng. Ở đây, chúng ta không bị một chút ảnh hưởng nào của nó". 

Trong phòng ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhõm. Người ta lại bắt đầu bàn chuyện, giọng họ mỗi lúc một ồn ào hơn. Một số con buôn còn đủ gan trở lại bên bàn xem lại mớ ngọc trai. Giọng the thé của Parlay cất cao hơn nữa. 

"Quý vị có lý lắm" – lão khuyến khích. "Dù giờ tận thế có đang điểm đi chăng nữa, các bạn cứ việc mà mua bán". 

"Ngọc này, ngày mai tụi tôi phải mua cho bằng được" - Isaacs cam quyết với lão. 

"Nếu vậy quý vị ắt phải xuống tận âm ty mà mua". 

Cả bọn phá lên cười ra vẻ không tin, càng khiến lão già sốt tiết. Lão hùng hổ quay hỏi Darling. 

"Cái thứ nhãi ranh như chú bắt đầu am hiểu về giông bão từ thuở nào vậy? Ai là kẻ sắp đặt lộ trình cho bão tố trong vùng Paumotus này? Chú học hỏi điều ấy ở những sách nào vậy? Ta đã từng dong duổi khắp vùng Paumotus trước khi đứa già nhất trong bọn chú ra đời, ta biết chứ. Về phía đông, những đường càn quét của bão táp đều nằm trên một vòng tròn trải qua quá rộng đến nỗi chúng thành hình một đường thẳng. Về phía tây nơi này, chúng hợp thành một vòng cung hết sức cong. Hãy nhớ lại bản đồ của chú. Làm sao mà trận bão năm 1891 lại tàn phá Auru và Hiolau? Vì vòng cung đó, chú em! Chỉ độ một, hai hay nhiều nhất là ba tiếng nữa, gió sẽ bắt đầu thổi. Hãy dỏng tai mà nghe". 

Một tiếng sóng đổ ầm làm rung động cả nền móng đặc san hô. Ngôi nhà cũng rung chuyển theo. Bọn gia nhân bản xứ, tay còn cầm những chai uýt-ki và rượu bạc hà, xúm xít lại với nhau như để che chở lẫn cho nhau, và dương cặp mắt thao láo vì sợ hãi trân trối nhìn qua cửa sổ ra phía đợt sóng dũng mãnh tung mình vào sâu trên bờ biển lên đến tận góc nhà kho chứa khô dừa. 

Parlay quay lại nhìn chiếc phong vũ biển, cười sặc sụa và đưa mắt liếc quanh đám tân khách. Thuyền trưởng Warfield bước ngang phòng tới nhìn góp. 

"Hăm chín độ bẩy mươi lăm" - hắn đọc to. "Lại tụt thêm năm độ nữa. Lão già yêu quái này nói đúng đấy. Bão đang đến đấy. Riêng tôi, tôi muốn trở về tàu ngay". 

"Trời mỗi lúc một tối sầm lại" - Isaacs lại nói như rên rỉ. 

"Trời! Có khác gì trên sân khấu không chứ?" – Mulhall nói với Grief, mặt nhìn đồng hồ. "Mới mười giờ sáng mà xem như đã chạng vạng tối. Ánh sáng tắt dần để mở đầu vở kịch. Sao chưa thấy điệu nhạc chậm ấy nhỉ? 

Như để đáp lại lời gã, một làn sóng khác ào ạt ồ vào bờ làm rung chuyển cả đảo san hô lẫn toà nhà. Gần như hoảng hốt, đám tân khách kéo nhau ra cửa. Trong ánh sáng mờ nhạt, bộ mặt đẫm mồ hôi của họ trông thật ghê rợn. Isaacs ho rũ rượi như lên cơn suyễn trong bầu không khí oi nồng đến ngột ngạt. 

"Vội vã làm gì thế các bồ?" – Parlay cười nức nở, chế giễu đám tân khách ra về. "Uống ly chót đã nào!". Không ai buồn để ý đến lão. Trong khi họ bước xuống con đường trải mảnh ốc vụn đi ra bãi biển, lão thò đầu ra cửa gọi với: "Này, quý ngài, đừng có quên là đúng mười giờ sáng mai lão Parlay bán ngọc đấy nhé?". 

III 



Ngoài bãi biển đang diễn ra một cảnh tượng kỳ quặc. Hết xuồng săn này đến xuồng săn kia được vội vã chèo đi. Trời tối xầm hơn nữa. Gió vẫn lặng và với mỗi đợt sóng dội mạnh vào bờ biến phía ngoài, bãi cát lại rung chuyển dưới chân họ. Narii Herring ung dung dạo bước dọc theo bờ cát. Hắn tủm tỉm cười khi nhận thấy vẻ hấp tấp hiện rõ trên mặt đám thuyền trưởng và lái buôn. Theo sát hắn là ba thuỷ thủ Kanaka trên tàu hắn và Tai-Hotauri. 

"Mau xuống xuồng giúp một tay chèo chứ" - thuyền trưởng Warfield ra lệnh cho gã này. 

Tai-Hotauri chậm rãi bước tới, mặt vênh vênh, trong khi Narii Herring và mấy thủy thủ Kanaka dừng lại cách họ chừng bốn chục bước, nhìn theo. 

"Thuyền trưởng, tôi không giúp việc cho ông nữa" – Tai-Hotauri to tiếng nói, giọng hỗn hào; nhưng vẻ mặt của hắn lại không phù hợp với ý nghĩa lời hắn nói, bởi vì hắn nháy mắt một cái. "Xin thuyền trưởng đuổi tôi đi" - hắn hạ giọng thì thầm, mắt nháy thêm một cái đầy ý nghĩa. 

Thuyền trưởng Warfield hội ý và cũng bắt đầu đóng kịch. Ông cất cao giọng nói và giơ nắm đấm. 

"Quân chó má, có xuống xuồng ngay không thì bảo?" – ông quát: "Liệu xác, không thì tao đánh cho thấy ông bà ông vải". 

Gã Kanaka vội vàng lùi bước và Grief bước vào giữa can ngăn thuyền trưởng. 

"Tôi sang làm việc bên chiếc Nuhiva" – Tai-Hotauri miệng nói chân bước vào nhập bọn nhóm người kia. 

"Trở lại đây ngay" – viên thuyền trưởng nạt nộ. 

"Này thuyền trưởng, hắn đầu có phải là nô lệ" – Narii Herring lên tiếng. "Hồi xưa hắn đã từng đi biển với tôi. Bây giờ hắn trở về với tôi thì có gì là lạ?" 

"Thôi ta đi. Ta phải về tàu ngay" – Grief giục giã. "Anh có thấy là trời mỗi lúc một tối sầm không?" 

Thuyền trưởng Warfield đành nhượng bộ, nhưng trong khi con xuồng lướt ra xa, ông đứng trong đám dây chão đằng đuôi và giơ nắm tay đấm đấm về phía bờ biển. 

Ông thét lớn "Narii, rồi sẽ có ngày ta thanh toán với mi. Trong giới thuyền trưởng chỉ có mi chuyên cướp giật thuỷ thủ của người khác". Ông ngồi xuống và hạ giọng hỏi: "Này, thằng Tai-Hotauri có ý gì vậy? Nó đang mưu mô một việc gì, nhưng việc gì mới được chứ?". 

IV 

Con xuồng vừa ép sát mạn tàu Malahini thì Hermann nhô đầu ra khỏi hàng lan can đón họ, mặt lộ vẻ lo âu. 

"Phong vũ biểu như muốn tụt xuống tận đáy" - hắn báo tin "Sắp bão lớn rồi. Tôi đã cho nới thêm dây neo bên mạn phải". 

"Nới thêm dây neo lớn nữa" - thuyền trưởng Warfield hạ lệnh và đứng ra chỉ huy. "Bảo mấy người kéo xuồng lên chứ. Thả xuồng xuống boong, úp sấp, rồi buộc chặt lại". 

Trên boong những tàu buồm khác, thuỷ thủ hấp tấp làm việc. Đâu đâu cũng vang tiếng dây xích được nối dài kêu loảng xoảng. Hết tàu này đến tàu khác xê dịch, chuyển hướng và buông thêm neo. 

Cũng như chiếc Malahini, những tàu nào có ba mỏ neo đều sửa soạn thả nốt chiếc thứ ba giữa lúc gió hông nổi lên và chỉ rõ phương hướng xuất xứ của gió. 

Tiếng sóng lớn đánh vào bờ mỗi lúc một gầm to hơn, mặc dầu mặt hồ vẫn phẳng lặng như gương. Nơi mà toà nhà nguy nga của lão Parlay đứng sững trên bãi cát vắng tanh vắng ngắt. Dãy nhà kho chứa xuồng, khô dừa và vỏ xà cừ không một bóng người qua lại. 

"Chỉ cần hai xu là tôi rút neo ngay và cuốn xéo thật mau" – Grief nói. "Nếu ta đang ở ngoài khơi thì tôi nhất định biến rồi. Nhưng với những vách san hô ở phía Bắc và phía đông liên tiếp bao quanh, chúng ta có khác gì nằm trong rọ. Ở nguyên đây, chúng ta còn có cơ thoát khỏi. Thuyền trưởng Warfield, ông nghĩ sao?". 

"Tôi đồng ý với ông, mặc dầu tôi cho rằng mặt đầm nước mặn chẳng phải là vũng ao yên ổn để độ qua trận bão này. Không hiểu nó đã tràn vào lối nào? Kìa, một nhà kho chứa dừa khô của lão Parlay bị cuốn đi rồi". 

Họ còn kịp thấy ngôi nhà kho lợp tranh bị nâng lên rồi đổ sụp, trong khi một làn bọt sóng lướt qua mỏm cát trôi xuống dần. 

"Phá thông rồi!" – Mulhall reo to. "Như thế mới đáng mặt tướng tiên phong chứ. Kìa, nó lại dâng lên nữa kìa!". 

Ngôi nhà kho bẹp dúm lúc này bị hất tung lên rồi vứt lại trên mỏm cát. Đợt sóng thứ ba chẻ nó ra thành từng mảnh bị quấn xuôi triều dốc xuống đầm. 

"Giá bão nổi ngay, có gió mặt mình cũng đỡ khổ" - Hermann làu nhàu. "Tôi thấy khó thở quá. Nóng đếch gì mà nóng quá thế này. Tôi thấy trong người háo như lò lửa ấy". 

Hắn rút con dao găm dày bản ra khỏi bao, bổ một trái dừa non rồi tu hết nước. Mấy người kia cũng bắt chước theo, chỉ ngừng uống mỗi một lần để theo dõi một ngôi nhà kho chứa xà cừ của Parlay xụp đổ tan tành. Bây giờ phong vũ biểu chỉ hai mươi chín độ rưỡi. 

"Ta phải ở gần giữa vùng khí áp thấp" – Grief nhận xét với giọng vui vẻ. "Từ trước đến giờ, tôi chưa từng được ở vào điểm trung tâm của một trận bão. Mulhall, anh nên nhân dịp này rút thêm ít kinh nghiệm. Cứ theo tốc độ phong vũ biểu đang tụt xuống, trận bão này ắt phải to lắm". 

Thuyền trưởng Warfield thốt lên mấy tiếng lầm bầm và ai nấy đều đảo mắt nhìn về phía ông. Ông đang dương viễn vọng kính quét dọc theo chiều dài đầm nước mặn chạy về phía đông nam. 

"Bão đến rồi đấy" – ông thản nhiên nói. 

Họ chẳng cần có viễn vọng kính cũng nhìn thấy. Trên mặt hồ mặn hình như hiện ra một lớp màn mỏng bị thủng lỗ chỗ trông thật quái đản, di động như bay. Đi trước nó, dọc theo đảo san hô, và di động với cùng một vận tốc là một cơn gió mạnh khiến rặng dừa phải rạp ngọn xuống và các tàu dừa lờ mờ tung bay phấp phới. Đường ranh trước của cơn gió trên mặt biển là một giải nước sẫm màu, gợn sóng, hợp thành một khối có giới hạn rõ rệt. Từng đợt gió mạnh mở đường cho giải nước ấy giật từng cơn khác nào từng loạt súng bắn lẻ tẻ. Phía sau giải nước là một vùng biển trông phẳng lặng như tấm kính rộng chừng một phần tư dặm, rồi đến một giải nước sẫm nữa lộng gió và sau đó đầm nước mặn nhấp nhô sóng nhồi, tung bọt trắng phau réo sôi sùng sục. 

"Cái giải phẳng lặng ấy là cái gì vậy?" – Mulhall hỏi. 

"Vùng lặng gió chứ gì" – Warfield đáp. 

"Thế sao nó cũng đi nhanh ngang gió" – gã kia bắt bẻ. 

"Nó phải di chuyển theo gió chứ, nếu không nó tất bị gió tràn lên và sẽ chẳng còn vùng lặng gió nữa. Thứ này là bão "hai đầu". Tôi đã có lần gặp phải một cơn phong ba dữ dội chẳng kém gì ngoài khơi đảo Savali. Một trận bão hai đầu chính cống. Chúng tôi bị tạt một lần rồi thấy phẳng lặng như tờ. Sau đó chúng tôi bị tạt thêm lần nữa. Chúng tôi chỉ còn nước đứng nguyên một chỗ chờ nó thổi qua. Bão đến rồi đó. Coi kìa, chiếc Roberta". 

Chiếc Roberta buông dây neo chùng nằm gần gió nhất, bị thổi dạt sang một bên mạn như một cọng rơm. Thế rồi dây xích lại kéo nó đứng thẳng mũi dậy hướng theo chiều gió, thân tàu chòng chành dữ dội. Hết chiếc tàu này đến chiếc tàu khác - kể cả chiếc Malahini - đều bị tạt nghiêng theo trận gió đầu để rồi lại đứng thẳng dậy với sợi dây xích bị kéo thẳng căng. 

Khi chiếc Malahini chòng chành theo sức giật của dây neo. Mulhall và phần lớn đoàn thuỷ thủ Kanaka loạng choạng suýt ngã. 

Thế rồi gió tắt. Giải biển lặng sóng di động như bay đã lên tới chỗ họ. Grief đánh một que diêm và ngọn lửa để trần cháy đều không nhấp nháy trong bầu không khí yên lặng. Khắp vùng chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng ảm đạm. Màn mây giăng kín bầu trời, trong suốt mấy giờ qua, mỗi lúc một hạ thấp xuống và lúc này hình như đã là hẳn xuống mặt biển. 

Cũng như chiếc Roberta, trong khoảnh khắc, tất cả các thuyền buồm đều lần lượt căng dây xích khi đầu thứ hai của trận bão thổi tới. Mặt biển trắng ngầu những bọt nước réo lên sùng sục, cuộn mình thành những đợt sóng nhỏ tung toé. Bỗng tàu Malahini rung động dưới chân họ. Những sợi chão dương buồm bị kéo căng đập mạnh vào các cột buồm để lại những đường vằn, và toàn thể màn lưới chão reo vi vu như thể bị một bàn tay mạnh mẽ gẩy lên thành tiếng. Nếu đứng hướng mặt về phía gió thì không tài nào thở được. Nằm rạp đằng sau phòng ngủ kín gió cùng với những người khác, Mulhall tìm ra chân lý ấy. Trong khoảng khắc giớ lùa vào lồng ngực gã một thể tích không khí quá lớn lao đến nỗi gã không kịp thở ra, khiến gã suýt chết ngạt trước khi gã kịp quay đầu sang phía khác. 

"Thật là ghê gớm" – gã hổn hển nói; nhưng không ai nghe rõ lời gã. 

Hermann và phần đông đoàn thuỷ thủ Kanaka đang bò lổm ngổm về phía mũi để thả nốt chiếc neo thứ ba. Grief vỗ vai thuyền trưởng Warfield và chỉ sang chiếc Roberta. Con tàu đang bị dạt về phía họ. Warfield kề miệng sát tai Grief hét: 

"Mình cũng bị dạt mà!". 

Grief vùng dậy chạy đến xoay bánh lái ngược lại, điều khiển chiếc Malahini lượn sang bên trái. Mỏ neo thứ ba bám chặt. Chiếc Roberta trôi qua, đuôi đi trước, cách họ trên chục thước. Họ vẫy tay chào Peter Gee và thuyền trưởng Robinson đang làm việc ráo riết đàng mũi cùng với một số thuỷ thủ. 

"Hắn đang chặt đứt vòng xích buộc neo" – Grief hét, "Hắn định mạo hiểm vượt cửa đầm. Bất đắc dĩ mà. Neo nào cũng trơn tuột". 

"Tàu mình đứng vững rồi" – có tiếng ai hét lơn trả lời. "Coi kìa chiếc Xương Rồng đang lao về phía chiếc Misi. Thế là chúng rồi đời".