Bạch Hổ Tinh Quân - Hồi 17 - phần 4

Thực ra, Tử Khuê cũng có chút cảm tình với dung mạo và cốt cách của Bất Thành. Gã mang khí chất một bậc đại trượng phu, một dũng sĩ kiên cường chứ chẳng phải phường ngu ngốc, ba phải như Khổng Đam. 

Lúc này, trông Lã Bất Thành chẳng khác gì một con sói cô đơn, lạc lõng đang trên đường tìm về vùng thảo nguyên xưa cũ, thân quen. Tử Khuê có cảm giác như thế vì Lĩnh Sơn, tổng đàn của Nam Bắc bang không xa Đồng Quan là mấy, nếu chỉ đi chơi thì Bất Thành chẳng cần phải mang theo tay nải lớn. Và đúng ra, với cương vị cao hiện tại, họ Lã phải có vài thủ hại tháp tùng.

Tử Khuê còn nhận ra việc gã uống rượu suông với đĩa lạc rang nho nhỏ, chẳng có cơm canh gì cả. Nghĩa là hầu bao của gã khá nhẹ, không dám gọi thức ăn. Chắc lát nữa sẽ ghé một quán cơm rẻ tiền nào đó mà chén cho no.

Nhưng sự tình còn bi đát hơn phỏng đoán của Tử Khuê. Lã Bất Thành đã uống cạn bình rượu, gọi tiểu nhị tính tiền. Và gã phát hiện túi bạc giăt lưng đã biến mất.

Suy cho cùng thì Lã Bất Thành chỉ là một kẻ quê mùa, chất phác. Suốt đời gã quanh quẩn ở Đại Bạch Sơn, một vùng khỉ ho cò gáy làm sao có thể đối phó với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt phi thường của bọn trộm cắp chốn phồn hoa. Khi đã mất cảnh giác thì võ công cao cũng vô dụng.

Lã Bất Thành tái mặt, ánh mắt đầy vẻ bi phẫn. Nhưng gã vẫn điềm đạm bảo tiểu nhị:

- Bần đạo hớ hênh nên đã để kẻ gian nẫng mất túi bạc. Bần đạo xin gửi lại cây trường kích, sau này sẽ đến chuộc.

Gã tiểu nhị bực bội mỉa mai:

- Cây sắt này mà đem bán cho lò rèn thì cũng chẳng đủ ba lượng bạc. Xin đạo trưởng thế bằng vật khác.

Lã Bất Thành lên tiếng:

- Cây Ngân kích ấy là vật quý giá nhất đời bần đạo, ngoài ra chẳng còn gì khác.

Dù không muốn thân cận với họ Lã, song Tử Khuê chẳng nỡ để một bậc anh hùng phải chịu nhục. Chàng liền lên tiếng:

- Này tiểu nhị! Tiền rượu của vị đạo trưởng ấy sẽ do ta thanh toán.

Gã hầu bàn mừng rỡ, quay lại cảm tạ vị mạnh thường quân rổi bỏ vào bếp.

Lã Bất Thành khoác tay nải lên vai và xách trường kích đi đến bên Tử Khuê. Gã chắp một tay lên ngực, cúi đầu thi lễ:

- Giờ đây cây Ngân kích này đã thuộc về thí chủ. Mong thí chủ cho biết danh tánh và nơi cư trú, để sau này bần đạo mang bạc đến chuộc.

Tử Khuê không ngờ Bất Thành lại giữ khí tiết đến mức thái quá như vậy. Chàng không phúc đáp mà mời gã ngối và nói:

- Dám hỏi đạo trưởng đang trên đường đi đâu vậy?

Bất Thành buồn rầu đáp:

- Bần đạo định về cố quận ở phía Bắc tỉnh Sơn Tây. Nhưng giờ đây lộ phí đã mất sạch, có lẽ đành phải ở lại Trung Nguyên.

Tử Khuê nghiêm nghị bảo:

- Đạo trưởng luyện võ đã mấy chục năm, sao lại chịu để tài năng mai một ở chốn quạnh hiu? Đạo trưởng làm như thế chẳng phải đã phụ lòng người có công dạy dỗ hay sao?

Bất Thành nở nụ cười thê lương:

- Thực ra, bần đạo cũng có đất để tung hoành. Nhưng nơi ấy là chốn tranh danh đoạt lợi, xem thường tình nghĩa và đạo lý, nên kẻ sơn dã này không thích hợp. Nhược bằng đơn thân hành hiệp thì cũng chẳng xong, vì bần đạo thiếu cả thủ đoạn lẫn bạc tiền.

Tử Khuê gật gù thông cảm và lấy ra sáu thỏi bạc Nguyên Bảo, mỗi thảo năm chục lượng. Đây là loại bạc do triều đình nhà Minh đúc ra. Hai đầu hơi cong lên, toàn bộ thỏi bạc hơi giống hình móng ngựa nên gọi là Mã Đề Ngân.

Chàng đẩy số bạc ba trăm lượng ấy về phía Lã Bất Thành rồi nói:

- Đạo gia cho phép quyên giáo. Chân nhân hãy nhận lấy chút lòng tôn kính Tam Thanh của tại hạ. Khi về đến cố quận, mong đạo trưởng tụng kinh cầu chư thần phù hộ cho Thượng Quan Nhẫn tôi.

Cách cho của chàng rất tể nhị và hợp qui tắc Đạo giáo, khiến Lã Bất Thành có thể yên tâm nhận lấy. Nhưng gã không cầm ngay mà nhìn chàng chăm chú, rồi chậm rãi hỏi:

- Bần đạo tò mò, muốn biết chí hướng của Thượng Quan thí chủ?

Tử Khuê cười đáp:

- Tại hạ tùy thời mà hành sự. Đời loạn thì vung ba thước gươm thiêng diệt ác, chẳng cần ai biết đến mình. Khi giang hồ lặng sóng thì về nhà, vui cùng thê tử, múa gươm dưới trăng cùng bằng hữu hát câu tương phùng.

Nghe xong Lã Bất Thành trầm ngâm một lúc rồi phát biểu:

- Nếu thí chủ lập chí như thế thì bần đạo xin theo hầu, không về Sơn Tây nữa. Bần đạo tuy mộc mạc quê mùa, nhưng tự tin chẳng nhìn lầm người.

Sắc diện gã chân thành, tha thiết, khiến Tử Khuê cảm động và sinh lòng tín nhiệm. Chàng cười mát:

- Sao tôn giá lại vội vàng như vậy? Biết đâu tại hạ bất tài, vô hạnh song lại quen dùng lời hoa mỹ?

Lã Bất Thành bình thản đáp:

- Lúc vừa tròn hai tuổi, bần đạo bị sói tha đi, sống chung với chúng bốn năm. Sau đó mới được tiên sư đem về giáo dưỡng. Bởi vậy mà bần đạo có chút bản năng của loài sói, linh cảm được bạn và thù. Khi tiếp cận thí chủ, bần đạo nghe lòng ấm áp, bình yên, nên biết rằng có thẻ nương tựa được.

Tuổi ấu thơ bi thảm và kỳ lại của Bất Thành đã làm tăng thiện cảm trong lòng Tử Khuê, nhưng thận trọng thêm vẫn hơn. Chàng liền gọi thức ăn mới, mời họ Lã cùng mình đối ẩm, chuyện trò.

Khi hỏi rõ nguyên nhân rởi bỏ Lĩnh Sơn của gã, chàng mới biết được những bí mật vô cùng đáng sợ. Té ra, Nam Thiên Tôn và Quân Sơn Chân Nhân mới là kẻ chủ mưu trong việc xưng hùng xưng bá, còn Bắc Thiên Tôn chỉ là người bị dụ dỗ. Đúng là nhất thời hồ đồ, ôm hận nghìn thu!

Sau khi Phùng lão bị giết, Nam Thiên Tôn chẳng hề nhắc đến chuyện báo thù, mà chỉ lo chiêu mộ anh tài, củng cố thực lực Nam Bắc Bang.

Ngay cả việc mời cao thủ Độc Môn đến khám nghiệm thi hài của Bắc Thiên Tôn lão cũng không làm. Mới đây, Lã Bất Thành còn tình cờ nghe lóm được một phần cuộc trò chuyện giữa Từ Tôn Chiến và sứ giả Long Vân Bảo. Song phương giao ước với nhau rằng sẽ liên thủ mà thôn tính võ lâm Trung Nguyên chia đôi thiên hạ.

Chính vì lý do ấy mà Lã Bất Thành ly khai Nam Bắc bang, xin phép Từ lão cho mình về lại quê xưa.

Tử Khuê hỏi bất cứ điều gì họ Lã cũng thành thật tỏ bày, chẳng hề giấu giếm, kể cả lai lịch cái tên gã:

- Năm xưa có người mắc bệnh nan y đến Đại Bạch Sơn xin thuốc. Lúc bệnh nhân hạ sơn, có hỏi nhỏ bần đạo rằng bệnh mình có thể khỏi hay chăng. Bần đạo liền thành thực đáp rằng không. Thế là người ấy về nhà treo cổ tự vẫn, thay vì còn sống thêm được một hai năm nữa. Tiên sư trách mắng bần đạo thậm tệ và ban cho đạo hiệu Bất Thành để nhắc nhở.

Nói xong gã nghiêm nghị bảo:

- Giờ đây, bần đạo đã biết cẩn ngôn, thí chủ cứ yên tâm nói ra lai lịch thực.

Tử Khuê thầm hài lòng vì Lã Bất Thành trung thực, song không hề ngu ngốc. Chàng cười đáp:

- Các hạ quả là tinh tế. Ta chính là Ngân Diện Hầu đây.

Lã Bất Thành lập tức đứng lên, chắp tay thi lễ:

- Bần đạo vẫn luôn cảm kích việc Hầu gia đả thương lão Nhạc Tự Thương. Giờ đây bần đạo đã có thể toàn tâm, toàn ý theo phò bặc quý nhân giáng ma vệ đạo. Chỉ mong rằng sau này Hầu gia ban cho bần đạo thủ cấp của Xoa Lạp Cốc chủ để tế mộ tiên sư.

Sau hơn hai tháng lội suối băng rừng, chịu biết bao nhọc nhằn cơ cực trên cao nguyên Hoàng Thổ, Tử Khuê và Lã Bất Thành mới đến được Anh Ngọa sơn, thuộc huyện Hoài Viễn, phủ Thỏa Đức.

Nhưng hỡi ôi! Lôi Đình Thần Cung chẳng còn một bóng người. Phần cây "Hắc Ngọc tiên đào" thì đã chết khô. Tử Khuê vô cùng tuyệt vọng, đứng thừ người nhìn thân cây trơ trụi và lũ cành cây khẳng khiu, tàn tạ. Phụ thân chàng cũng chẳng khác gì cây tiên đào này, héo úa và sắp sửa mục nát.

Lã Bất Thành đã biết mục đích của Ngân Diện Hầu là đến đây tìm thuốc. Gã cũng thất vọng vô cùng song vẫn còn sáng suốt hơn người trong cuộc. Gã lặng lẽ suy nghĩ rồi bàn:

- Bầm Hầu gia! Bần đạo từng nghe tiên sư dạy rẳng: "Một số loài thảo mộc cho quả làm thuốc là chính nhưng rễ của chúng cũng chứa một phần dược tính".

Tử Khuê tỉnh ngộ, lóe lên niềm hy vọng, hân hoan nói:

- Cảm tạ các hạ đã nhắc nhở, nếu không thì ta chẳng nhớ ra và sau này sẽ hối hận.

Hai người liền xoay trần, cùng nhau xô ngã thân cây có chu vi một vòng tay người. Đất Hoàng Thổ chỉ là một thứ bụi mịn, độ bám không cao, nên khi cây đổ đã mang theo đầy đủ rễ cái, rễ con.

Tử Khuê vung kiếm chặt lấy một đoạn rễ cái trắng hồng, mập mạp, dài cỡ sãi tay. May thay nó vẫn còn tươi, rỉ nhựa màu trắng như sữa. Chàng lại chặt nhỏ đoạn rễ ấy thành từng khúc ngắn rồi bỏ vào tay nải. Y phục của chàng được dồn hết qua túi hành lý của Lã Bất Thành.

Tử Khuê rất đắc ý về việc kết giao với Lã Bất Thành. Gã cũng đôn hậu giống chàng nên chuyện trò tương đắc, khiến đường thiên lý bớt tịch mịch. Hơn nữa, chính tài săn bắn của gã đã cung cấp thực phẩm cho họ, vì cao nguyên Hoàng Thổ rất hoang vu, hàng trăm dặm mới có một thôn nhỏ. Ngay nước uống cũng thiếu trầm trọng. Nhưng với chút bản năng của loài sói, Lã Bất Thành đã tìm ra nước, cũng như hang ổ của những loài thú nhỏ.

Sáng hôm sau, hai người lên đường trở lại Trung Thổ. Lúc về còn gian khổ gấp bội so với lúc đi. Những cơn mưa đã xói mòn cắt nát đường quan đạo vốn đã lâu chưa được tu sửa. Có những đêm, Tử Khuê và Lã Bất Thành phải nhịn đói, nằm ép bên nhau dưới gốc cây, chịu đựng cơn mưa tầm tã, lạnh lùng.

Gian truân cùng cực như thế mà gương mặt Lã Bất Thành vẫn tươi tắn, vui vẻ. Tử Khuê chợt nhận ra mình có thêm một bằng hữu tốt, ngoài Dịch Quan San.

Giữa tháng tám, sau tiết Trung Thu hai hôm, họ về đến Trường An thì Tử Khuê nghe được nhiều tin xấu. Quần ma hội tụ cả ở đất Cửu Chân, khởi đầu sự nghiệp tranh hùng, tranh bá.

Lôi Đình Thần Cung đã xây dựng cơ ngơi mới trên mảnh đất khô cằn dưới chân núi Quảng Sơn, bất kể trên lưng chừng núi có Tổng Đàn võ lâm tọa lạc. Trác Ngạn Chi có quyền làm như thế vì ngàn mẫu đất ấy là tài sản của Ngân Diện Hầu Tiêu Lạp Dân.

Long Vân Bảo vẫn ở nguyên cứ địa Thốc Sơn, nhưng họ đã thu phục được toàn bộ những bang hội lớn nhỏ từ phía Nam sông Hoài trở xuống, trừ phái Võ Đương và Thiên Sư Giáo.

Điều khá là bất ngờ là Nam Thiên Tôn đã bỏ Long Vân Bảo mà liên kết cùng Xoa Lạp Cốc. Hiện nay, Nhạc Tự Chương đã kéo quân về sát nhập với Nam Bắc Bang, và trở thành Đồng Bang Chủ. Họ Nhạc và Nam Thiên Tôn cũng âm thầm chinh phục giới võ lâm miền Tây, chỉ còn mấy phái Bạch đạo như Hoa Sơn, Toàn Chân, Nga Mi, Thanh Thành.

Song cái tin khiến Tử Khuê rụng rời chân tay là số phận Quách gia trang. Giang hồ đồn đãi rằng nhà chàng đã bị một đội quân hắc y đông đảo đột kích vào đêm cuối tháng sáu. Cùng lúc ấy, nhiều nơi trọng yếu trong thành cũng phát hỏa nên quân binh chỉ có thể cho một toán lính nhỏ đến hỗ trợ nhà họ Quách. Mười tám gã lính lệ ấy cũng bị bỏ mạng phía ngoài trang. Có lẽ bọn hắc y đã dùng đến hỏa dược nên Quách gia trang bị bốc cháy dữ dội. Sức nóng khủng khiếp đến nỗi nhà sập, da thịt, xương cốt người cũng hóa thành tro, còn nguyên trạng rất ít, nên Nha môn Hứa Xương chỉ có thể phỏng đoán rằng không một ai sống sót. Và số người chết là bao nhiêu thì cũng chẳng rõ.

Con dâu trưởng của Quách gia trang là Hoàng Phong Hầu Trình Thiên Kim không có mặt nên thoát chết. Nàng đã tố cáo hung thủ là Long Vân Bảo, song không có chứng cứ để kiện. Do đó, Nữ Hầu tước thề sẽ tự báo thù cho nhà chồng. Nàng chiêu mộ hào kiệt bốn phương, chờ ngày đủ lực lượng là tấn công núi Thốc Sơn.

Những thông tin ấy do gã Phân đà chủ Cái bang thành Trường An cung cấp cho Tử Khuê. Chàng đã không để lộ thân phận Ngân Diện Hầu, mà dùng mười lượng bạc để hỏi thăm, cục diện võ lâm chẳng có gì bí mật nên gã hóa tử bốn túi ấy đã vui lòng kể rõ.

Nghe xong hung tin sét đánh đó, Tử Khuê choáng váng, cơ hồ không đứng vững nổi. May mà mặt chàng đen đúa vì cháy nắng, nên chẳng thể tái đi. Tử Khuê cố bình tâm cáo từ, về lại phòng mình trong Trường An đại lữ điếm.

Đến lúc này chàng mới để cho lệ thảm tuôn rơi ướt gối. Hình bóng người thân như phản phất trước mắt, mang theo nỗi bị thương cùng cực. Sự thống khổ tột cùng đã làm chàng bật khóc, không sao kiềm chế được.

Lã Bất Thành ở phòng bên cạnh nghe tiếng chàng khóc nức nở vội chạy sang ngay. Nhưng gã không lên tiếng hỏi han hay an ủi mà cứ đứng yên bên giường. Hình như gã cho rằng than khóc là điều cần thiết để một người vơi đi nỗi thương tâm.

Nhưng rồi Tử Khuê cũng nhận ra sự hiện diện của gã. Chàng ngồi lên gạt lệ và rầu rĩ nói:

- Tại hạ đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát, và sắp sửa liều mình với một kẻ thù rất lợi hại. Nay bản thân tại hạ sống chết còn chưa rõ, e rằng đành lỗi hẹn với Lã các hạ, không thể sánh vai hành hiệp được rồi. Các hạ hãy trở về cố quận ngay sáng mai. Nếu tại hạ còn sống, tất sẽ có ngày đến Đại Bạch Sơn thăm cố hữu.

Lã Bất Thành nhếch mếp cười thê lương:

- Bần đạo đã trót với cao, xem thí chủ là bằng hữu, là tri kỷ nên chẳng thể rời bỏ được. Dẫu cho thí chủ có đi vào núi giáo, rừng gươm thì bần đạo cũng xách ngân kích theo hầu.

Tử Khuê vô cùng cảm động, nhưng vẫn không muốn người bạn trung hậu kia chết oan khi theo chàng đếnThốc Sơn tìm Long Vân Tú Sĩ.

Chàng còn đang suy nghĩ tìm cách thoái thác, Lã Bất Thành đã lại lên tiếng:

- Trong lúc thí chủ ra ngoài, bần đạo có trò chuyện với gã tiểu nhị của khách điếm này. Gã ta cũng biết vài đường quyền cước nên rất chú ý đến tình hình võ lâm. Nhờ vậy mà bần đạo thu thập được khá nhiều thông tin, trong đó có việc gia trang của Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê bị thiêu rụi, toàn gia chết thảm. Nay thí chủ lại thương tâm cực độ như thế, bần đạo có thể đoan chắc Ngân Diện Hầu là Quách đại hiệp.

Tử Khuê giật mình, hổ thẹn gật đầu và hỏi lại:

- Một lần nữa các hạ đoán đúng. Nhưng ta muốn biết vì sao các hạ có thể đi đến kết luận ấy?

Lã Bất Thành bình thản đáp:

- Điểm đáng ngờ nhất là việc thí chủ lặn lội mấy ngàn dặm đường khổ ải để tìm thuốc cho Quách trang chủ với giá vạn lượng vàng, Hai là một gã trai trẻ như Tiều Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên thì không đủ tài để tìm ra những sơ hở trong pho "Kích pháp" của tiên sư.

Quả trên đường đi, trong những lúc dừng chân, Tử Khuê vì muốn thành toàn cho gã nên đã dạy đôi điều, song người tìm ra những sơ hở ấy là sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân, tổ sư trong nghề hóa giải sở học của kẻ khác. Bắc Thiên Tôn vì quá tự mãn nên đã không nhìn thấy những khuyết điểm trong sở học.

Nghe Lã Bất Thành giải thích rất chí lý, Tử Khuê chỉ còn cách cúi đầu bái phục.