Từng có một người yêu tôi như sinh mệnh - Chương 03 - Phần 2

Bên ngoài trời rất lạnh, tuyết hình như lại sắp rơi, tôi bất giác kéo chặt hai vạt áo khoác.

Tôn Gia Ngộ đang đứng tựa vào cửa xe hút thuốc lá. Thấy tôi đi ra, anh mới ném đầu thuốc lá xuống đất và nở nụ cười để lộ hàm răng trắng bóng: “Em cũng nhanh ra phết.”

Tôi vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện đánh mất nụ hôn đầu. Thế là tôi cố nghiêm mặt, hỏi anh bằng ngữ điệu lạnh lùng: “Anh muốn cho tôi xem thứ gì?”

Tôn Gia Ngộ nhận ra thái độ lạnh nhạt của tôi, anh mở cửa sau xe và làm động tác “xin mời” rất khoa trương: “Nàng công chúa thân mến, em nhìn xem...”

Trên băng ghế sau của xe có hai cái bắp cải xanh ngát đang nằm lặng lẽ, tỏa ra một vẻ mê hoặc vô cùng.

“Trời ơi...” Bộ dạng lạnh nhạt và xa cách của tôi biến mất hoàn toàn. Tôi mừng rỡ hỏi anh: “Anh... anh kiếm ở đâu ra thế?”

Tôn Gia Ngộ ghé sát mặt tôi, môi anh mơn man trên má tôi: “Hôm qua Đại sứ quán phát bắp cải cho cán bộ công nhân viên, đúng lúc đó thì tôi đi ngang qua. Thế là tôi đợi đến đêm để trèo tường vào, ăn trộm được mấy cái.”

“Anh lại nói linh tinh rồi.”

Anh cười với tôi: “Em không cần biết nó từ đâu ra. Em hãy nghĩ xem nên làm món gì?”

“Ôi, nhiều lắm, xào chua cay, làm dưa góp, trộn sống, xào với phở và thịt thái chỉ...” Tôi đếm đầu ngón tay, vừa đếm vừa nuốt nước bọt ừng ực. Cuối cùng cả hai chúng tôi đều gần như đồng thanh lên tiếng: “Sủi cảo nhân thịt lợn bắp cải.”

Tôn Gia Ngộ cười lớn, đẩy tôi vào ghế phụ: “Đi thôi, đến chỗ tôi mà nấu, tất cả trông chờ vào trình độ nấu nướng của em.”

Tôn Gia Ngộ sống ở khu vực tốt nhất trong thành phố, nhà anh là một ngôi nhà kiểu cũ màu xám, chia thành hai hộ trái phải. Ngôi nhà có hai tầng, phía Nam có một cửa sổ dài nhìn ra biển Đen. Anh sống cùng Lão Tiền, người đàn ông tôi và Bành Duy Duy gặp lần trước và một thương nhân Trung Quốc họ Khâu.

Tôi cảm thấy hơi kỳ lạ, nhìn ở góc độ nào đi nữa cũng thấy anh chẳng giống một người có thể chung sống hòa thuận với những người không có chút quan hệ nào với mình.

Trước nghi vấn của tôi, Tôn Gia Ngộ giải thích nhẹ như gió thoảng mây vờn: “Nhỡ một ngày nào đó có chết ở trong phòng thì cũng có người phát hiện ra.”

“Đúng vậy.” Tôi lại nhớ đến chuyện bị mất nụ hôn đầu, nên trêu anh một cách ác ý: “Nếu không thì thịt thối rữa ra cũng chẳng ai biết.”

Tôn Gia Ngộ quay đầu, trừng mắt với tôi: “Em là con gái sao ăn nói độc địa thế?”

Tôi giả bộ oan ức, bĩu môi: “Những lời tôi nói đều là sự thật, anh không thích nghe thì thôi.”

Tôi không nói dối một chút nào, Andre từng kể cho tôi nghe câu chuyện tương tự, khiến tôi buồn nôn suốt một tuần, nhìn thấy thịt là chạy mất dép.

Trong vụ án đó, một thương nhân người Phúc Kiến bị đồng hương giết chết, róc thịt nấu chín rồi bỏ vào bồn xí, làm cho đường ống nước thải của nhà hàng xóm ở tầng dưới bị tắc nghẽn.

Người hàng xóm gọi thợ đến sửa, sau khi thông đường ống mới phát hiện bên trong toàn là xương vụn và thịt thối rữa.

Người hàng xóm tưởng là xác chết chó mèo bị ngược đãi nên phẫn nộ báo cảnh sát. Cảnh sát thông ống cống ra bao nhiêu xương thịt và nội tạng, cuối cùng lòi ra ngón tay con người. Tất cả những người có mặt ở hiện trường đều sợ chết khiếp.

Vụ án này từng gây chấn động Odessa một thời, khiến giá thuê phòng tăng vọt, bởi vì người bản xứ không chịu cho người Trung Quốc thuê nhà.

“Anh hãy nói xem, ở trong nước không tốt sao? Cứ cố ra nước ngoài rồi bỏ mạng nơi đất khách quê người làm gì?” Tôi không thể hiểu nổi.

Nghe xong câu chuyện của tôi, Tôn Gia Ngộ đến chân mày cũng không thèm động đậy. Anh tắt máy rút chìa khóa, sau đó mới nói: “Em còn nhớ vụ án ở Trung tâm thương mại gần chợ Bảy km không?”

Tôi gật đầu, trước đây anh toàn lảng tránh, hôm nay cuối cùng cũng nhắc đến sự kiện đó.

“Nạn nhân bị đâm hơn một trăm nhát dao, gần như không còn nguyên dạng, em biết tại sao không?”

Tuy tận mắt chứng kiến vụ án mạng nhưng tôi vẫn nổi da gà, lắc đầu lia lịa.

Phải thù hận đến mức nào mới chém người ta hơn một trăm nhát dao như thế chứ?

Tôn Gia Ngộ cười lạnh lùng: “Tên đó là người của tổ chức Thanh Điền, chuyên thu phí bảo kê ở Trung tâm thương mại gần chợ Bảy km. Hắn rất hống hách nên thương nhân ở Trung tâm thương mại vô cùng ghét hắn. Khi không thể chịu nổi nữa, họ đã gom tiền thuê xã hội đen người Ukraine thanh toán hắn. Đáng tiếc là tên đó mệnh lớn, nhận được tin báo từ trước nên chuồn mất. Nửa năm sau, hắn đột nhiên xuất hiện ở khu vực phụ cận, bị người nào đó phát hiện. Sau một cú điện thoại, cả Trung tâm thương mại đóng cửa sớm, đám thương nhân lùng sục mọi ngóc ngách tìm hắn, kết quả như em đã chứng kiến.”

Hai chân tôi mềm nhũn, gần như đứng không vững. Nhớ đến chuyện xảy ra ngày hôm đó, toàn thân tôi lạnh toát.

“Những kẻ ra tay chém người, phần lớn là đồng hương của hắn, những thương nhân trong sạch không hề có tiền án. Người Chiết Giang bình thường nói chuyện hòa nhã, đến lúc chém người lại không hề run tay. Em có thể đoán ra tên đó gây thù chuốc oán đến mức nào.”

“Vụ đó cuối cùng đã kết án chưa?” Tôi hỏi.

“Hơn ba mươi người tham gia, cảnh sát có thể tìm ai định tội chứ? Hội đồng hương xuất đầu lộ diện nhét ít tiền cho cảnh sát là xong. Chuyện xảy ra trong nội bộ người Trung Quốc, cảnh sát cũng chẳng thèm quan tâm.”

Tôi không thể thốt ra lời, hóa ra sự thật là vậy. Thảo nào Tôn Gia Ngộ dặn tôi không được khai với cảnh sát.

Andre cũng từng nói, kể từ khi người Trung Quốc đổ bộ vào Odessa, tỷ lệ phạm tội tăng đến mức chóng mặt. Do nơi này xuất hiện xã hội đen người Phúc Kiến và Chiết Giang nên những thương nhân Trung Quốc nhiều tiền dễ trở thành con cừu béo và mục tiêu của kẻ xấu.

Vậy mà nhiều người vẫn đặt chữ “lợi” lên hàng đầu, mạng sống chỉ xếp thứ hai, thương nhân quả là hạng người kỳ quái nhất trên đời này.

“Có điều...” Tôn Gia Ngộ quay đầu cười nhạo tôi: “May mà thủ phạm là đám thương nhân, nếu em gặp phải xã hội đen thật sự thì đã bị giết người diệt khẩu từ lâu rồi.”

Tôi bước chậm rãi sau lưng Tôn Gia Ngộ, cố gắng tiêu hóa câu chuyện khủng khiếp của anh.

Ngôi nhà Tôn Gia Ngộ sinh sống có lối kiến trúc truyền thống kiểu Nga, vốn là nhà của một quan chức chính phủ về hưu từ thời Liên Xô cũ. Trong nhà chỗ nào cũng in đậm dấu vết của năm tháng, đến tấm thảm trải sàn và rèm cửa tuy đã cũ nhưng vẫn rất đẹp đẽ, phảng phất không khí cổ xưa.

Phòng bếp mang phong cách Địa Trung Hải điển hình. Hình như nó vừa được sửa chữa lại, đôi chỗ vẫn còn vết lửa cháy đen. Trên kệ bếp có đầy đủ dụng cụ nấu ăn. Trên bếp ga đặt một cái chảo xào nấu của Trung Quốc.

Đây quả là một căn bếp lý tưởng với tôi, tôi reo lên một tiếng và chạy vội vào bên trong: “Tôi làm món bắp cải chua cay nhé?”

“Em cũng biết nấu cơm cơ à? Tôi cứ tưởng nghệ sĩ là thần tiên không động đến khói bếp nhân gian?” Tôn Gia Ngộ đứng ở cửa bếp cười cười.

“Anh mới là nghệ sĩ, cả họ nhà anh mới làm nghệ thuật.” Tôi đáp trả.

Người không làm nghệ thuật lúc nào cũng tưởng nghệ thuật là lãng mạn xa vời lắm. Kỳ thực nghệ thuật cũng như các ngành nghề khác, cũng chỉ là vấn đề sinh kế. Nếu ăn không no bụng thì nghệ thuật cũng chẳng là gì cả, vì vậy “dân dĩ thực vi thiên[22]” mới là chân lý vĩnh hằng.

[22] Dân lấy ăn làm trời.

Khi bắp cải và ớt khô được bỏ vào chảo dầu sôi sùng sục, khói lập tức bốc lên cuồn cuộn, cái máy hút mùi kiểu Âu chẳng phát huy được chút tác dụng. Tôi bị sặc đến mức ho khù khụ, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi bèn đẩy cửa sổ để không khí lưu thông.

Vừa xúc thức ăn ra đĩa, tôi chợt nghe thấy tiếng gõ cửa dồn dập. Lúc đầu tôi không bận tâm nhưng tiếng đập cửa bên ngoài cứ vang lên không ngớt, trong phòng không hiểu sao không có tiếng trả lời, tôi đành đi ra mở cửa, tay vẫn cầm cây xẻng xào nấu.

Dây xích chống trộm ở cửa ra vào vừa được tháo xuống, ai đó đã đạp mạnh cửa, hai người đeo mặt nạ chống hơi độc xông vào nhà, đẩy tôi tới tận nhà bếp.

Tôi vừa lùi lại phía sau vài bước vừa hét lớn: “Tôn Gia Ngộ!”

Tôn Gia Ngộ từ nhà tắm đi ra. Tôi hoảng hốt chỉ tay vào nhà bếp, miệng ấp a ấp úng.

Không nói năng gì, Tôn Gia Ngộ lập tức nhấc cái ghế xông vào trong đó.

Tôi vội kêu lớn: “Này... này... không phải...” Tôi còn chưa kịp dứt lời, Tôn Gia Ngộ đã mặt mũi nhăn nhó bước ra. Anh cẩn thận tiễn hai người đàn ông ra tận ngoài cửa.

Tôi hiếu kỳ thò đầu ra ngoài, thấy trước cửa đậu hai chiếc xe cứu hỏa.

Tôn Gia Ngộ quay lại, ngồi xuống sofa, đặt hai tay ra sau gáy, thở dài: “Không biết ai nhiều chuyện thế, một tháng gọi cứu hỏa tới hai lần, chủ nhà sẽ tống cổ tôi đi mất.”

Lần trước vì chuyện của Bành Duy Duy, mấy người hàng xóm đáng thương sợ xanh mặt. Tôi biết mình đã gây họa nên tránh sang một bên, nhìn anh cười cười.

Nụ cười của tôi dường như chọc giận Tôn Gia Ngộ, anh trừng mắt: “Em còn cười nữa, tôi sẽ cởi áo choàng tắm ra đấy.”

Đến lúc này tôi mới phát hiện anh chỉ mặc độc cái áo choàng tắm, toàn thân vẫn đầy nước. Dây đai áo choàng buộc qua loa, có thể nhìn ra bên trong anh không mặc gì cả.

Mặt tôi đột nhiên đỏ bừng, vội ngậm miệng quay đi chỗ khác. Tôi tin người đàn ông trước mặt là người đã nói được là sẽ làm được.

Nhà bếp loạn hết cả, chỗ nào cũng phủ một lớp bọt trắng dày. Đĩa bắp cải chua cay của tôi tất nhiên không thể ăn được nữa, nồi thịt bò ở bên cạnh cũng bị liên lụy, tôi đành đổ hết vào thùng rác.

Đúng là mất công chảy nước miếng, trong lòng tôi vô cùng thất vọng nên không ngừng oán trách: “Những người này có mắt như mù, rõ ràng không có lửa, bọn họ cứu hỏa gì chứ?”

Bắt gặp vẻ mặt chán nản của tôi, Tôn Gia Ngộ mỉm cười: “Được rồi, bây giờ em lại có việc để làm rồi đấy, quét dọn nhà bếp thôi.”

Anh thay quần áo, cùng tôi quỳ xuống đất giải quyết hậu quả. Mất hai tiếng đồng hồ lau chùi, căn bếp mới sạch sẽ trở lại.

Do cả ngày chưa nhét thứ gì vào bụng nên tôi đói đến hoa cả mắt, bụng không ngừng sôi ùng ục. Tiếng dạ dày réo quá lớn, đến Tôn Gia Ngộ cũng nghe thấy. Anh quay đi cười khùng khục, sau đó giật tấm giẻ lau trong tay tôi: “Để đó đi, khi nào về rồi tính tiếp, chúng ta ra ngoài ăn cơm đã.”

Nhìn đồng hồ đã bảy giờ tối, tôi do dự đáp: “Ngày mai tôi còn phải lên lớp, anh hãy đưa tôi về nhà.”

Tôn Gia Ngộ kéo tay tôi ra ngoài: “Tôi vừa nghĩ đến một nơi, chắc chắn em sẽ thích. Mau đi thôi, tôi cũng đói phát điên lên rồi.”

Tôn Gia Ngộ lái xe trên lớp băng đông cứng về phía ngoại ô Odessa. Bên ngoài tối om, chỉ nhìn thấy tuyết bay trắng xóa ở đầu mũi ô tô, nơi có đèn pha chiếu sáng.

Không hiểu sao tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi, linh tính báo cho tôi biết sắp xảy ra chuyện gì đó. Tôi không kiềm chế được, hỏi Tôn Gia Ngộ: “Chúng ta đi đâu đây?”

“Mang em đi bán!” Gương mặt anh không chút biểu cảm, ngón tay lạnh buốt giơ lên vuốt ve cổ tôi. Biết rõ là anh nói đùa nhưng tôi vẫn nổi da gà.

Ô tô dừng trước một ngôi biệt thự nhỏ ở vùng quê. Tôn Gia Ngộ xuống xe, bấm chuông. Một bà lão người bản xứ mở cửa đón chúng tôi.

Tôn Gia Ngộ quay đầu gọi tôi: “Triệu Mai, lại đây!”

Tôi chầm chậm bước tới, anh nắm tay tôi giới thiệu với bà lão: “Nina, đây là bạn cháu.”

Bà lão mỉm cười gật đầu và đưa chúng tôi vào nhà. Tôi nhận thấy cơ thể bà gần như nghiêng về một bên, một chân dường như không thể điều khiển, khiến bà đi lại rất khó khăn. Nhưng bà vẫn cố giữ thẳng lưng.

Tôi khẽ bóp tay Tôn Gia Ngộ. “Thảm họa nguyên tử Chernobyl.” Anh nói nhỏ bằng tiếng Trung.

Tôi từng có ấn tượng sâu sắc khi xem ảnh về vụ tai nạn trầm trọng nhất trong lịch sử năng lượng hạt nhân này. Không ngờ mấy chục năm sau, tôi có thể gặp người bị hại của vụ thảm họa đó.

Bên trong ngôi biệt thự gần như trống không, chỉ bày vài thứ đồ gia dụng đơn giản. Trần nhà hình như có gió lạnh lùa qua, nhiệt độ trong phòng và bên ngoài gần như bằng nhau.

Bà lão nói vài câu với Tôn Gia Ngộ, tôi chỉ nghe hiểu vài từ “bữa tối”, “nhà bếp” gì đó.

“Chúng ta xuống bếp, ở đó ấm áp hơn phòng khách.” Anh dịch cho tôi nghe.

Bữa tối rất đơn giản, chỉ có một nồi canh đặc, ít khoai tây nghiền và túi thịt Song Hối[23] của Trung Quốc mà Tôn Gia Ngộ đem đến.

[23] Nhãn hiệu đồ ăn nhanh làm bằng thịt như xúc xích nổi tiếng Trung Quốc.

Tôi đói mềm cả người nên ngồi ngây ra trước bàn ăn, trong lòng thắc mắc không biết Tôn Gia Ngộ đưa tôi tới đây nhằm mục đích gì.

Anh gắp một miếng trăng trắng vào đĩa của tôi. Tôi hỏi bằng giọng nghi hoặc: “Cái gì vậy? Đậu phụ à?”

“Em nếm thử đi, món ăn nổi tiếng của Ukraine đấy.” Tôn Gia Ngộ mỉm cười, tôi cảm thấy nụ cười ấy không có ý tốt.

Tôi cắn một miếng, mùi vị cũng được, chỉ là cảm giác hơi là lạ. Tôi do dự một giây rồi lại cắn tiếp miếng nữa.

“Ngon không?” Anh cười ngoác miệng.

Tôi gật đầu: “Rốt cuộc là món gì vậy?”

“Mỡ lợn.”

“Gì cơ?”

“Mỡ lợn ủ muối.” Tôn Gia Ngộ nở nụ cười đắc ý.

Tôi ôm miệng chạy thẳng vào nhà vệ sinh nôn sạch sẽ. Từ nhỏ đến lớn tôi không kén ăn nhưng có tật không động đến thịt mỡ ngoài nhân sủi cảo đã được xay nhỏ.

“Anh đúng là đồ quỷ sứ.” Tôi tức giận đến mức chỉ hận là không thể đào hố chôn anh.

“Lại mắng người rồi.” Tôn Gia Ngộ vỗ lưng tôi, miệng vẫn còn lải nhải: “Chẳng phải em yêu cầu sao, thịt lợn và rau bắp cải, chúng ta chẳng thiếu một thứ gì.”

“Biến đi.” Tôi vẫn chưa hết tức giận.

“Cô bé không sao đấy chứ?” Trong gương xuất hiện hình ảnh bà lão với nụ cười hiền hậu: “Nếu không sao thì mời tới thư phòng uống tách cà phê.”

Bà lão nói tiếng Nga chậm rãi và rõ ràng, khiến tôi cuối cùng cũng nghe hiểu câu này.

Vừa vào thư phòng, tôi lập tức ngây người như lạc vào mộng cảnh. Hóa ra nơi này là một thế giới hoàn toàn khác.

Bốn bức tường quanh căn phòng đều là giá sách, sách trên giá được phân loại và sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Tôi đảo mắt quan sát một vòng, trên giá là tuyển tập piano, đĩa hát nhựa cổ xưa và nhạc phổ ca kịch. Cả căn phòng giống như một thư viện âm nhạc cổ điển, một góc tường đặt chiếc piano cũ kỹ, nắp đàn đang mở, các phím đàn màu trắng đã chuyển sang màu ngà ngà. Bức tường phía trên cây đàn treo nhiều khung ảnh. Nhân vật chính trong những tấm ảnh chỉ có một người, một thiếu nữ người Nga xinh đẹp. Bối cảnh đằng sau là sân khấu, kịch viện, piano, hoa tươi...

Trên tấm ảnh lớn nhất là một người đàn ông trung niên khoác vai thiếu nữ, cả hai có gương mặt từa tựa nhau. Tôi lén đưa mắt nhìn bà lão. Gương mặt bà đầy nếp nhăn, thật sự nhìn không ra bà và cô thiếu nữ trên các bức ảnh có đặc điểm chung nào.

Bà lão ra hiệu cho tôi ngồi xuống và cất giọng hòa nhã: “Mai, cháu tên là Mai đúng không? Tại sao cháu lại tới Odessa?”

Tại sao ư? Bởi vì nơi này giá cả không đắt đỏ, visa cũng dễ xin.

Tất nhiên là tôi không thể nói thẳng ra như vậy. Câu trả lời của tôi khách khí, đúng tiêu chuẩn ngoại giao: “Cháu rất thích Odessa, bởi vì nơi này là quê hương của hai nghệ sĩ piano vĩ đại Emil Gilels và Rikhter.”

Tôi bổ sung thêm một câu: “Còn Vitas nữa, Vitas điển trai cũng sinh ra ở thành phố này.”

Tôn Gia Ngộ ngồi bên cạnh lật cuốn sách, nghe tôi nói vậy, anh ngẩng đầu nhìn tôi và nở nụ cười mờ ám.

Tôi hiểu anh đang nghĩ gì, chắc anh cười tôi ngốc nghếch. Tôi được đà nói tiếp: “Rất giống ca sĩ trong Lascia Ch’io Pianga[24], thần bí đẹp đẽ, khiến người ta mê đắm.”

[24] Khúc aria được sáng tác bởi soạn giả George Frideric Handel.

Bà lão bật cười thành tiếng, đến nỗi nếp nhăn trên khóe mắt hiện rõ như bông hoa cúc nở rộ. Bà quay sang nói với Tôn Gia Ngộ: “Đúng là tuổi trẻ, tôi cũng có thời như vậy, thích một người đến mức sùng bái...”

Khoan đã, trong đầu tôi lóe lên một tia sáng, người đàn ông trung niên trên tấm ảnh treo tường kia chẳng phải là Emil Gilels, nghệ sĩ nhân dân Liên Xô từng tốt nghiệp ở Học viện Âm nhạc Odessa hay sao?

Nếu vậy, bà lão ở trước mặt tôi là...

Tôi đứng bật dậy, xúc động đến mức không nói ra lời: “Bà... bà là...”

Bà lão lắc đầu ngăn tôi lại, nụ cười phảng phất nỗi chua xót khó diễn tả: “Tất cả đều đã qua rồi.”

Tôn Gia Ngộ đứng đằng sau bà lão, cau mày ra hiệu cho tôi, tôi lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng. Nhưng tâm trạng của bà lão rõ ràng đã bị ảnh hưởng, bà lập tức viện cớ rời khỏi thư phòng.

Nhìn theo bóng lưng bà, tôi cảm thấy rất áy náy: “Tôi đã nói sai điều gì rồi à?”

“Không, chỉ là em hơi ngốc nghếch.”

“Xì!”

“Xì gì mà xì?” Anh gõ vào gáy tôi.

“Sao anh quen bà ấy?”

“Bé ngốc, em không nhìn ra sao? Bà ấy chính là chủ căn hộ tôi đang thuê.”

“Hả?” Tôi mở to mắt: “Vậy tại sao bà ấy không sống trong thành phố mà lại ở nơi hoang vắng này?”

“Chồng bà ấy trước kia là cán bộ cấp cao của Liên Xô nhưng qua đời lâu rồi. Lúc đó tiền lương hưu của bà ấy vài ngàn rúp, sống rất thoải mái. Sau khi Liên Xô tan rã, lương hưu của bà ấy nếu đổi ở chợ đen chưa tới một trăm đô la Mỹ. Nếu không cho thuê nhà thì bà ấy sống bằng gì?”

Tôi không tiếp lời anh, im lặng một lúc mới cất giọng đầy sùng bái: “Nếu nhắc đến tên bà ấy, chắc chắn mọi người trong giới piano sẽ ngả mũ kính phục.”

“Không sai, vài người cùng thời với bà ấy hiện đang giảng dạy tại một số Học viện Âm nhạc ở các nước Tây Âu. Chỉ vì lý do sức khỏe mà bà ấy phải ở lại.”

Tôi vỗ tay: “Ôi trời, nếu bà ấy có thể phụ đạo tôi chơi piano, dù có bắt tôi làm người hầu của bà ấy mấy năm tôi cũng đồng ý.”

Tôn Gia Ngộ nhìn tôi, ánh mắt lóe lên một tia gian tà: “Đúng vậy, một lá thư tiến cử của bà ấy còn hơn ba năm nỗ lực của em đấy. Em thử nghĩ xem có nên đối xử tốt với tôi hơn không?”

Tôi không bận tâm đến anh, cầm mấy quyển nhạc lật đi lật lại, nhưng tim không ngừng đập thình thịch.

Tôn Gia Ngộ cười cười, cầm mấy cái đĩa hát nhựa đi về góc phòng. Ở góc phòng có một máy nghe nhạc cũ kỹ, giống đạo cụ trong phim điện ảnh đen trắng hồi thập niên bốn mươi. Nhưng khi đĩa hát được bật lên, không khí đột nhiên êm dịu hẳn. Cả căn phòng lập tức chìm vào giai điệu ai oán của vở ca kịch nổi tiếng Madama Butterfly[25].

[25] Vở ca kịch được sáng tác bởi kịch tác gia người Ý Giacomo Puccini, trình diễn lần đầu tiên vào năm 1904.

Tôn Gia Ngộ thuận tay đóng cửa. Anh rót một ly rượu vang rồi ngồi xuống ghế nhắm mắt giả bộ nghỉ ngơi.

Tôi đấu tranh tư tưởng một lúc, cuối cùng cũng không thắng nổi cám dỗ. Tôi đi đến trước mặt anh, ngồi xổm xuống, cất giọng ngọt ngào: “Tôi muốn thương lượng với anh một chuyện có được không?”

Tôn Gia Ngộ mở mắt, chỉ tay lên đùi mình: “Ngồi lên đây, ngồi lên đây thì tôi mới thương lượng.”

Tôi trừng mắt với anh, không chịu nhúc nhích. Tôn Gia Ngộ không thèm bận tâm đến tôi, lại nhắm nghiền mắt.

Tôi nghiến răng, tần ngần mất hai mươi giây mới chậm rãi ngồi lên đùi anh.

Khóe miệng anh hơi động đậy rồi nhếch lên, anh dài giọng hỏi: “Em muốn thương lượng chuyện gì?”

“Anh thử hỏi bà ấy giúp tôi xem bà ấy có chịu nhận tôi làm học trò không? Tôi sẽ trả phí phụ đạo.”

“Ồ, khẩu khí ghê quá.” Tôn Gia Ngộ khép hờ mi mắt nhìn tôi: “Bà ấy không dễ dàng nhận học trò đâu. Trước tiên phải xem có tư chất không, không là thiên tài bà ấy sẽ không nhận. Hơn nữa, tiền luyện đàn một giờ mười lăm đô la em còn chê đắt thì làm sao trả nổi phí phụ đạo cho bà ấy?”

Tôi biết mình đã nói sai, nhưng đáng ghét hơn là anh có trí nhớ quá tốt, đến câu nói buột mệng của tôi anh cũng nhớ rõ.

Tôn Gia Ngộ đứng dậy, kéo tôi lại gần, môi anh lướt nhẹ trên má tôi. Anh cất giọng dịu dàng: “Tối nay đừng về nữa, được không em?”

Tôi không đáp lời, trong lòng hỗn loạn vô cùng. Vì không còn là thiếu nữ mười sáu tuổi ngây thơ nên tôi thừa biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì.

Tôn Gia Ngộ tìm đến bờ môi tôi rồi ngậm chặt. Đây là nụ hôn vừa dịu dàng vừa mãnh liệt, không giống như lần đầu tiên. Từ đầu đến chân tôi như bị điện giật, trong lòng chảy đầy mật ngọt.

Thanh củi vẫn cháy trong lò sưởi, phát ra tiếng kêu tí tách vui tai. Ngoài trời tuyết bay trắng xóa, trong phòng ấm áp như mùa xuân về.

Tuyết trắng, lò sưởi, âm nhạc, rượu vang, bầu không khí vô cùng mê hoặc, ngay từ đầu tôi đã biết anh luôn tìm cách quyến rũ tôi nhưng tôi không thể cưỡng nổi.

Tôn Gia Ngộ cúi đầu, dùng miệng cởi từng cúc áo sơ mi của tôi. Anh nâng ly rượu vang đổ xuống người tôi, bầu ngực tôi bỗng dưng lạnh toát. Môi và đầu lưỡi anh lập tức áp sát, tham lam liếm láp, khiến cả người tôi cứng đờ.

“Em hãy thả lỏng toàn thân, bảo bối, đây là một chuyện rất dễ chịu và tuyệt vời...” Anh cất giọng trầm khàn bên tai tôi.

Khi Tôn Gia Ngộ tiến sâu vào người tôi, khóe mắt tôi tuôn chảy hai hàng lệ. Bởi vì đau, cũng bởi vì tôi đã kết thúc thời thiếu nữ sau hai mươi hai năm.

Con người luôn sợ hãi những chuyện không biết trước.

Tôi biết bản thân đang đùa với lửa.

Mặc dù vậy, tôi vẫn cam tâm tình nguyện.