Căn Phòng Nhung Nhớ - Chương 18 - phần 2

Hai bên bờ sông là những đoàn thuyền chở hàng không khí nồng nặc mùi dầu nhức mũi. Theo quy định, những người có thể đi đường thủy phải là những người dân có chứng minh thư ở Đông Hưng Trung Quốc hoặc Móng Cái Việt Nam. Những người khác phải đi đường bộ.

Tề Dực đi qua cửa khẩu, lập tức có xe ôm đi lên trước mới chào, không khác gì lúc đến Đồng Cảng. Phần lớn người trong vùng có thể nói hai thứ tiếng là tiếng Trung và tiếng Việt. Những bảng hiệu trên đường cũng viết bằng hai thứ tiếng, nhìn thoáng qua thì thấy khá giọng những thị trấn nhỏ trong nước. Những căn nhà mới mọc lên trên đường vì được thi công khẩn nên vẫn còn thô sơ.

Tề Dực đi qua một sòng bạc do người Hồng Kông mở, cùng đoàn du lịch ồn ào bước vào một cửa hàng trang sức bên đường. Nhân viên ở đó đang nhiệt tình mời chào. Nghe thấy giọng Tứ Xuyên của du khách, lập tức chạy lên tầng gọi ông chủ. Ông chủ nói giọng Tứ Xuyên tỏ ra xúc động như gặp người quen ở quê cũ, vỗ ngực và nói sẽ giảm giá ưu đãi cho các cố hương.

Tề Dực đứng cạnh nhìn. Trò này anh đã thấy quá nhiều rồi, chẳng qua chỉ là trò lừa bịp du khách mà thôi. Đợi đến khi đoàn du lịch vui vẻ rời đi, anh lại gần nhân viên cửa hàng: “Phiền cậu, tôi muốn tìm chú Hưng”.

Chàng trai nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ.

“Xin hãy nói lại với chú Hưng, tôi là bạn thân của A Hải”.

Chàng trai chạy vào trong, thấp thoáng nghe thấy anh ta gọi hai câu tiếng Việt. Chẳng bao lâu thì một người đàn ông khoảng năm, sáu mươi tuổi, thân hình to béo xuất hiện. “A Hải? Cậu muốn nói…”. Chú Hưng tỏ ra cảnh giác.

“Giang Hải đến từ Đồng Cảng. Mấy năm trước có làm ăn ở bên này”. Tề Dực giới thiệu: “Cháu là Tề Dực, là bạn học cấp ba của A Hải”.

“Quả nhiên. A Hải…”. Chú Hưng thả lỏng một chút: “Nghe thấy cái tên này, người đầu tiên mà tôi nghĩ tới chính là cậu ấy, chỉ có điều hai năm nay không nhắc đến”.

“Trước đây cậu ấy cũng từng nói, hồi ở bên này đã được chú quan tâm chăm sóc rất nhiều”.

Chú Hưng bật cười: “Chăm sóc? Lầu đầu gặp nhau là vì tranh chỗ đỗ tàu, suýt chút nữa thì đẩy tôi từ trên tàu xuống sông! Hồi ấy cậu ta đúng là tuổi còn nhỏ mà ghê gớm, có điều quả thực có thể chịu được khổ, có nghĩa khí, lại thông minh”.

“Đó đã là chuyện của hơn chục năm trước rồi đúng không ạ”. Tề Dực nhớ lại: “Hình như là sau khi tốt nghiệp cấp hai cậu ấy đến đây một năm”.

“Đúng vậy, hồi ấy tôi nghĩ cậu bé này nên quay về đi học, nếu không sẽ lãng phí”. Chú Hưng than thở: “Mặc dù cậu ta rất tôn trọng tôi nhưng thực ra không thích ngành kinh doanh trang sức này”.

“Chú Hưng còn có một cửa hàng thương mại, đúng không ạ?”. Tề Dực hỏi.

“Cái này cũng là A Hải nói đúng không?”.

Tề Dực gật đầu: “Trước đây A Hải đã từng nhờ chú chăm sóc một người bạn. về sau nghe cậu ấy nói, chú sắp xếp cho cô ấy làm việc ở Hà Nội?”.

“Cậu muốn nói… A Mai?”.

“Vâng ạ. Lần này cháu đến đây là để tìm cô ấy. Ba năm trước A Hải nói với cháu, muốn biết tin tức của A Mai thì đến chỗ chú”.

“Hồi ấy tôi có thể tìm con bé, nhưng bây giờ…”. Chú Hưng trầm tư: “Nó đã không còn ở chỗ tôi nữa. Hồi ấy một xưởng gỗ đồ gia dụng ở Hà Nội muốn xuất khẩu đồ gia dụng bằng gỗ gụ sang Trung Quốc, hy vọng A Mai qua đó giúp, trả lương rất cao. Lúc đầu tôi và con bé vẫn liên lạc với nhau nhưng về sau hình như nó đổi mấy chỗ làm việc nên mất tin tức. Có người nói nó đã vào Sài Gòn lấy chồng rồi”.

Chú Hưng mời Tề Dực đến góc đường uống trà: “Đã lâu lắm rồi không có ai nói với tôi chuyện của A Hải. Mùa hè ba năm trước, cậu ta đại diện cho một xưởng gia công đến Hà Nội bàn một vụ buôn bán đồ điện gia dụng rất lớn. Đúng lúc tôi cũng ở đó, cùng ăn bữa cơm. Cậu ta nói phải về Đồng Cảng làm một số chuyện, vài ngày nữa sẽ đến Móng Cái. Nhưng về sau lại gọi điện thoại nói là nhiều việc quá, không đi được”.

Tề Dực mỉm cười: “Quả thực hồi ấy cậu ấy gặp một số chuyện không biết phải xử lý thế nào”.

“Ha ha”. Chú Hưng cười: “Chưa bao giờ nghe nói có chuyện gì khiến A Hải khó xử”.

Tề Dực nhớ lại tháng tám ba năm trước, lúc ấy anh ở Đồng Cảng. Hiếm khi Giang Hải không chạy đông chạy tây, ở lại Đồng Cảng hai tháng trong thời điểm bình thường bận rộn nhất. Tề Dực hỏi vì sao thì anh nói là muốn điều chỉnh lại, bởi vì đã gặp người khó rời.

Tề Dực biết dự định đi Móng Cái của anh nên hỏi khi nào thì đi.

Giang Hải không nói gì, uống một cốc bia, bỗng nhiên cười một tiếng và nói: “Bỗng nhiên có chút nhớ Bắc Kinh”.

“Gì cơ? Vì sao? Đã ba năm cậu không đến đó rồi đúng không”.

“ Không biết, có chút nhớ thời tiết mùa đông. Ăn lẩu, uống Nhị Oa Đầu. Có người nói sẽ mời”. Giang Hải lắc lắc chai bia: “Thôi, chỉ nói thế thôi mà”.

Hôm ấy lần đầu tiên anh nhìn thấy hình ảnh của Thái Mãn Tâm. Cô và anh Thành đứng hai bên Giang Hải, mặc chiếc áo có mũ màu trắng. Chiếc mũ bị đội tạm lên đầu, màu tóc đen nhánh làm toát lên vẻ thanh tú của khuôn mặt, nụ cười rạng rỡ nhưng ánh mắt lại hướng về phía Giang Hải. Ngây thơ, không hề che giấu cảm xúc trong lòng. Trẻ trung, cố chấp.

Thái Mãn Tâm xuất phát từ Hà Nội đến Hội An. Chiếc xe của đoàn du lịch đến nơi từ sáng sớm, những du khách với những chiếc ba lô to và màu da khác nhau, người thì mệt mỏi, người thì phấn khích, sau khi xuống xe nhanh chóng biến mất ở cuối con đường. Hội An đã từng là vùng đất hưng thịnh một thời, trong thành phố có những kiến trúc với đủ phong cách. Dưới ánh bình minh buổi sớm như được nhuốm một màu huyền bí. Khung cảnh của thành phố giống như những khu thành cổ, rất nhiều hộ dân và cửa hàng đều treo một dãy đèn lồng.

Thái Mãn Tâm đi qua vài hội quán và tông đường kiểu Trung Quốc, dừng lại trước một cửa hàng đèn lồng. Cô chần chừ rất lâu, trên đường đi cũng đã nghĩ hàng ngàn hàng vạn lời mở đầu nhưng lúc này vẫn khó tránh khỏi căng thẳng. Người cô phải đối diện chẳng qua chỉ là người nhà của A Mai mà thôi nhưng lúc này lại có cảm giác như đang đối mặt với sự phán xét của số phận.

Trong cửa hàng không có ai. Cô đi đến vườn sau là xưởng làm đèn lồng, dưới đất là những nẹp tre và lụa màu trắng. Có trẻ con chạy qua sân, đâm vào người cô rồi lại cười tránh sang một bên, tò mò ngắm nhìn vị khách lạ. Cậu bé khoảng bốn, năm tuổi, đôi mắt to, mái tóc ngắn trông giống bộ lông mềm mượt dưới ánh nắng vàng ươm.

Thái Mãn Tâm thấy nhói trong lòng. Mặc dù biết không thể gặp A Mai ở đây nhưng suy cho cùng đây là nhà cô ấy. Nếu đúng như mọi người đồn, hơn năm năm trước cô ấy vì mang thai mà bỏ học, vậy thì tính ra đứa trẻ cũng lớn bằng ngần này rồi.

Cô bất giác tìm kiếm dấu vết của Giang Hải trên khuôn mặt của cậu bé.

Chỉ vì đây là quê hương của A Mai, chỉ vì đây là mối liên quan cuối cùng với Giang Hải mà cô có thể tìm kiếm.

Chủ nhà bước ra từ phòng trong, đứa trẻ nhanh chóng trốn sau lưng chị ta: “Hi, xin chào”. Chị ấy chào Thái Mãn Tâm bằng tiếng Anh: “Muốn mua đèn lồng à? Hãy ra phòng ngoài, có mẫu mới nhất”.

“Được”. Thái Mãn Tâm theo chị ta ra phòng ngoài, xem từng mẫu đèn lồng trong cửa hàng, chỉ tay vào tấm biển gỗ bằng tiếng Trung ngoài cửa: “Chị biết nói tiếng Trung không?”.

“Cô muốn nói tiếng phổ thông sao?”. Chị ta lắc đầu, mỉm cười ngượng ngùng: “Biết tiếng Triều Châu, nhưng có thể cô không hiểu”. Sau đó chị ta hỏi: “Cô là người Trung Quốc?”.

“Đúng vậy, tôi đến từ Bắc Kinh”.

“Ồ”.

“Chị đã nghe nói đến Bắc Kinh rồi chứ?”.

“Dĩ nhiên rồi”. Chị ta cười: “Sao lại không biết cơ chứ”.

“Thế chị đã đến đó chưa?”.

“Chưa, tôi chưa từng rời khỏi Việt Nam”.

“Thế trong số những người chị quen có người nào đến đó chưa?”.

“A…” . Chị ta do dự một lúc rồi khẽ lắc đầu.

Thái Mãn Tâm biết rằng đối với gia đình này, sự tồn tại của A Mai là một điều cấm kỵ, hoặc là sự sỉ nhục. Sự ra đời của cô ấy đã là sự sỉ nhục với gia tộc này. Những chuyện của cô ấy sau này càng khiến cô ấy trở thành cái tên mà họ hàng thân thích không muốn nhắc tới. Ở lại cũng không hỏi được gì, cô nói chuyện với người phụ nữ trẻ vài câu rồi rời khỏi cửa hàng đèn lồng.

Cô tìm một nhà nghỉ để ở. Hai ba ngày sau đó, cô gần như đến thăm tất cả những người mà cô biết có liên quan đến A Mai, muốn vòng vo nghe ngóng về tin tức của cô ấy. Nhưng không ai biết, thậm chí không ai chủ động nhắc tới. Cô đặt may một chiếc áo dài ở một cửa hàng, lúc chọn vải đã bắt chuyện với ông chủ.

“Sao cô lại muốn đến đây?”. Anh ta hỏi.

Thái Mãn Tâm dùng cái cớ quen thuộc: “Hồi còn đi học, tôi có quen với một cô gái Việt Nam. Nhà cô ấy ở Hội An”.

“Thật à? Trùng hợp vậy sao. Cô ấy tên là gì?”.

“Nguyễn Thanh Mai”.

“Là A Mai”. Ông chủ còn định nói thêm gì đó nhưng vợ sa sầm mặt nhìn sang. Anh ta mỉm cười ngượng ngùng, không chịu nói tiếp nữa.

Thái Mãn Tâm đi qua thành phố cổ trong buổi chiều tà, đúng lúc học sinh tan học. Năm ba em học sinh hoặc là đi bộ, hoặc là đi xe,cùng nhau về nhà. Đồng phục của con gái phần lớn là áo dài trắng, đội một chiếc nón, tà áo dài qua gối, dáng người thướt tha. Tà áo bay bay càng tôn lên những đường nét của cơ thể. Giọng nói của họ rất ngọt ngào, ấm áp.

Trời tối dần, sông Thu Bồn lặng lẽ soi ánh sáng màu vàng cam để đèn lồng hai bên đường. Dưới mái hiên là những hàng dây leo màu xanh rủ xuống, những chậu hoa nở trước nhà đều mất đi ánh sáng rực rỡ cùng với hoàng hôn, tô thêm chút tĩnh mịch cho màn đêm.

Ở thành phố nhỏ bé thanh bình này nhưng Thái Mãn Tâm lại cảm thấy buồn bực vô cớ. Cô nhìn người phụ nữ trẻ đi ngang qua, bất chợt nhớ đến Giang Hải chở người phụ nữ tóc xù mì kia phóng vút qua trước mặt mình. Ngoài bực tức nói một câu “mì ăn liền”, cô không thể thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực. Nhưng nếu là A Mai thì sao, A Mai dịu dàng kiều diễm thì sao?

Cô biết quá khứ của Giang Hải phức tạp, nhưng người khiến cô cảm thấy đố kỵ chỉ có Nguyễn Thanh Mai. Sự đố kỵ này cấu xé cô, khiến cô không thể gạt đi cảnh tượng hai người ôm nhau thân mật cứ hiển hiện trong đầu mình. Họ ôm nhau, họ hôn nhau, họ quấn lấy nhau.

Thái Mãn Tâm biết mình đã sai. Cô không nên đến quê hương của người phụ nữ có thể sinh con cho anh trong lúc không thể từ bỏ Giang Hải rồi lại tưởng tượng đến dáng vẻ của cô ấy khi đi trên đường.

Nhưng cô không biết còn cách nào có thể gần Giang Hải hơn một chút, hơn một chút.

Khi mặt trăng bị mây đen che lấp, hơi nước ẩm ướt gần như bão hòa trong không trung, bỗng nhiên những giọt nước mưa giống như tràn ra từ trong không khí bao trùm lấy cô. Cái nóng oi bức của ban ngày tan biến, mưa mát lạnh càng lúc càng lớn. Thái Mãn Tâm vừa đi qua cầu Nhật Bản[3] nhưng lại không muốn trú mưa ở chòi trú mưa giữa cầu. Trong màn mưa, con đường mà hai ngày hôm nay cô đã đi qua bao nhiêu lần trở nên xa lạ. Cô như mất phương hướng giữa con đường ở đất nói xa lạ. Cơn mưa như trút táp vào mặt, chảy vào mũi, vào miệng.

[3] Cầu Nhật Bản là cây cầu trong khu đô thị cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam, được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII.

Cô cảm thấy mình gần như ngạt thở.

Lúc ấy, có người chạy tới, dùng lại trước mặt cô, trong cơn mưa chỉ nhìn thấy bóng dáng mờ nhạt.

“Cuối cùng tìm thấy cô rồi”. Giọng nói của anh đầy lo lắng.

“Tề Dực? Sao anh lại ở đây?”.

Anh không trả lời, khoác vai Mãn Tâm, đưa cô vào hành lang của một toàn nhà kiểu Pháp bên đường. Anh cởi áo mưa đưa cho Thái Mãn Tâm rồi lại cởi áo sơ mi, khoác lên người cô.

Chiếc áo sạch sẽ còn vương hơi ấm của Tề Dực khiến Thái Mãn Tâm bỗng nhiên cảm thấy cơ thể mình lạnh đến thế. Cô rùng mình, bất giác quấn chặt chiếc áo rồi lại hỏi: “Sao anh lại ở đây?”.

“Tôi đến tìm cô”. Tề Dực nghiêm túc và kiên định đáp: “Nếu cô mệt rồi, tôi đưa cô về Đồng Cảng. Nếu cô muốn tiếp tục tìm, tôi cùng cô đến Sài Gòn. Nhưng cô thật sự biết mình đang tìm cái gì, hay nói cách khác là tin rằng mình có thể tìm thấy sao?”.

Lúc đầu Thái Mãn Tâm tỏ ra kinh ngạc, lúc này cô cười nhạt: “Anh biết mục đích tôi tới đây? Anh hỏi A Tuấn?”.

“Khi nghe cô và A Tuấn nhắc đến tên A Mai, tôi đã biết là cô sẽ tìm cô ấy. Nhưng sự thật không giống như những gì cô tưởng tượng, cô không tìm được người cô muốn đâu”. Ánh mắt dịu dàng của anh ẩn chứa nỗi xót xa: “Mãn Tâm, cô nên hiểu rõ rằng cho dù cô làm gì cũng không thay đổi được chuyện đã xảy ra. Nếu muốn khóc thì cô hãy khóc đi. Nhưng A Hải sẽ không quay về bên cạnh cô, cậu ấy vĩnh viễn sẽ không quay về. Đây là hiện thực. Đây là hiện thực tôi và cô đều không thể thay đổi được!”.

“Tôi biết, tôi biết từ lầu rồi”. Thái Mãn Tâm tỏ ra bình tĩnh nhưng cơ thể và giọng nói của cô đều khẽ run lên không thể kìm nén được: “Tôi chỉ muốn tìm thấy con của anh ấy, muốn xem xem nó sống tốt không. Tôi không hy vọng cốt nhục của A Hải sẽ phải gian nan phiêu bạt cùng với A Mai. Tôi chỉ muốn làm hết sức mình để giúp đỡ họ”. Giọng cô khàn khàn, ẩn chứa vẻ mệt mỏi người run rẩy, nước mắt trào ra. Nhưng cô nhanh chóng đưa tay lau mắt, hít một hơi thật sâu, mỉm cười nhìn Tề Dực: “Thực ra anh cũng hy vọng như thế đúng không? Có phải anh cũng quen A Hải không? Tôi đã nghe anh nói tiếng địa phương Đam Hóa”.

“Chúng tôi học cùng cấp ba. Cậu ấy cũng là bạn thân nhất của tôi. Sau khi cô đi, tôi đã từng gặp A Hải ở Đồng Cảng”. Tề Dực nói thẳng: “Tôi không biết phải làm thế nào để cô được khuây khỏa nhưng có một số chuyện cô có quyền được biết”.