Tên tôi là Đỏ - Chương 28 - Phần 1

 

TÔI SẼ BỊ GỌI LÀ TÊN GIẾT NGƯỜI 

Chắc chắn rằng các vị cũng đã trải qua những gì tôi sắp mô tả: Nhiều lần, đi qua những con đường quanh co vô tận của Istanbul, trong khi đang múc một muỗng rau cải hầm đưa lên miệng tại một bếp ăn công cộng, hay nhìn chằm chằm vào họa tiết cong của một mảng trang trí lề sách theo phong cách bút sậy, tôi cảm thấy mình đang sống trong hiện tại cứ như nó là quá khứ. Nghĩa là mỗi khi đang đi dọc theo một con đường ngập đầy tuyết trắng, tôi sẽ cảm thấy thôi thúc muốn nói rằng tôi đang đi dọc theo nó vào một lúc nào đó đã qua. 

Những sự kiện khác thường tôi sắp kể lại đã xảy ra cùng lúc trong hiện tại và trong quá khứ. Đó là buổi tối, trời đã tối đen và tuyết rơi lác đác khi tôi đi bộ xuống phố nơi Enishte Kính mến cư ngụ. 

Không như những tối khác, tôi đến đây và biết chính xác mình muốn gì. Vào những tối khác, chân tôi sẽ đưa tôi đến đây trong khi tôi nghĩ lơ mơ về những điều khác: rằng tôi sẽ nói với mẹ tôi chỉ làm một cuốn sách mà kiếm được tới bảy trăm đồng bạc, về bìa của những tác phẩm Herat với những họa tiết hoa hồng trang trí không dát vàng có niên đại từ thời Tamerlane, về cảm giác choáng váng không ngừng khi biết rằng những người khác vẫn vẽ ký tên tôi hoặc về cách ứng xử ngớ ngẩn và quá lố của tôi. Tuy nhiên, lần này tôi đến đây có suy tính trước và có ý định hẳn hoi. 

Cánh cổng to dẫn vào sân - mà tôi cứ e không ai mở cho tôi - tự mở khi tôi gõ, tái khẳng định với tôi rằng Allah đứng về phía tôi. Phần sân lát đá sáng bóng mà tôi thường đi qua trong những đêm tôi đến để bổ sung tranh minh họa mới cho cuốn sách lộng lẫy của Enishte Kính mến hiện giờ vắng lặng. Phía bên phải cạnh giếng có một chiếc xô, đậu trên đó là một con chim sẻ rõ ràng không biết đến cái lạnh; xa hơn một chút là cái lò bằng đá ngoài trời mà vì lý do nào đó đã không được đốt lên dù lúc này đã muộn; phía bên trái, chuồng dành cho ngựa của khách chiếm một phần tầng trệt của ngôi nhà. Mọi thứ y như tôi mong đợi. Tôi bước vào qua cánh cửa không khóa bên cạnh chuồng ngựa, và như một vị khách không mời vẫn làm để tránh bắt gặp một cảnh không thích hợp, tôi giậm mạnh bước chân và ho lên khi leo cầu thang gỗ dẫn đến phòng khách. 

Không ai đáp lại tiếng ho của tôi, cả tiếng giẫm mạnh của đôi giày lấm bùn của tôi cũng vậy. Tôi cởi giày để cạnh những đôi giày xếp hàng tại lối vào hành lang rộng dùng làm phòng đợi. 

Như đã thành thói quen mỗi khi đến đây, tôi tìm kiếm cái mà tôi cho là đôi giày xanh thanh tú của Shekure giữa những đôi khác, nhưng không có, tôi nghĩ chắc là không có ai ở nhà. 

Tôi bước sang bên phải vào phòng - không có bóng ai trong mọi ngóc ngách của tầng lầu - nơi tôi hình dung Shekure đang ôm các con mà ngủ. Tôi mò tìm giường và nệm, rồi mở một cái rương trong góc và một chiếc tủ quần áo cao có cánh cửa rất nhẹ. Trong khi tôi nghĩ hương thơm hạnh đào thoang thoảng trong phòng hẳn là hương thơm của da thịt Shekure, thì một cái gối, vốn được nhét vào tủ, rơi trúng cái đầu đần độn của tôi rồi rơi xuống chiếc bình bằng đồng và mấy cái tách. Cũng như các vị nghe tiếng động và bất chợt nhận ra căn phòng tối om om, tôi nhận ra trời thật lạnh. 

"Hayriye hả?" Enishte Kính mến lên tiếng trong một phòng khác, "Shekure hả? Đứa nào đấy? 

Tôi lẹ làng ra khỏi phòng, đi xéo ngang qua hành lang rộng, bước vào căn phòng có cửa màu xanh da trời nơi tôi làm việc cùng Enishte Kính mến cho cuốn sách của ông trong mùa đông qua. 

"Tôi, thưa Enishte Kính mến," tôi đáp. "Tôi đây." 

"Anh là ai?" 

Ngay lúc đó, tôi hiểu rằng những nghệ danh mà Enishte Kính mến đã chọn nhằm giữ bí mật thì ít mà chủ yếu là liên quan đến trò giễu cợt tinh tế của ông ta đối với chúng tôi. Như một người sao chép kiêu ngạo có thể ghi lại ký hiệu của mình trên tờ cuối cùng của một bản thảo đã minh họa lộng lẫy, tôi chầm chậm phát âm những âm tiết tên đầy đủ của tôi, bao gồm tên cha tôi, nơi sinh của tôi và cụm từ "người đầy tớ tội lỗi đáng thương của các vị." 

"Hả?" Mới đầu ông thốt lên, rồi tiếp "À". 

Giống như một ông già gặp Thần chết trong truyện ngụ ngôn Assyria tôi nghe hồi còn nhỏ, Enishte Kính mến chìm vào một khoảng im lặng rất ngắn vốn kéo dài mãi mãi. Do tôi vừa đề cập tới "Thần chết" nên nếu có ai trong các vị lại tin rằng tôi đến đây để dính líu vào một chuyện như thế, thì các vị đã hoàn toàn hiểu sai cuốn sách mà các vị đang cầm trên tay rồi. Liệu có ai đó với những ý đồ như thế lại gõ cổng trước khi vào? Cởi giày ra? Đến mà không mang theo một con dao ư? 

"Vậy là anh đã đến," ông ta nói, lại giống ông già trong truyện ngụ ngôn. Nhưng sau đó ông ta bắt đầu nói bằng một giọng hoàn toàn khác. "Xin chào con trai. Vậy nói cho ta biết đi, anh muốn gì?" 

Bây giờ trời đã tối đen. Nhưng có đủ ánh sáng lọt vào qua ô cửa sổ che bằng vải tẩm sáp ong - vốn được gỡ ra vào mùa xuân, để lộ một cây lựu và cây tiêu huyền - giúp nhận ra đường nét của những vật thể trong phòng, đủ ánh sáng để làm hài lòng một nhà minh họa Trung Hoa tầm thường. Tôi không nhìn rõ được khuôn mặt của Enishte Kính mến khi ông ta ngồi trước chiếc bàn đọc sách thấp như thường lệ, để ánh sáng rọi vào bên trái ông. Tôi cố hết sức để khôi phục lại mối thân tình giữa hai chúng tôi khi chúng tôi vẽ những bức tiểu họa cùng nhau, nhẹ nhàng và lặng lẽ thảo luận về chúng suốt đêm dưới ánh nến giữa những viên đá đánh bóng, những cây bút sậy, lọ mực và cọ vẽ này. Tôi không chắc có phải vì cảm giác xa lánh này hay vì sự bối rối, nhưng tôi thấy xấu hổ và không dám thú nhận công khai những nghi ngại của mình; lúc đó, tôi quyết định biện bạch cho mình qua một câu chuyện. 

Có lẽ các vị cũng có nghe về họa sĩ Sheikh Muhammad ở Isfahan? Không một họa sĩ nào có thể qua mặt ông ta trong việc chọn màu, trong ý thức về sự cân đối, trong việc vẽ hình người, thú vật và những khuôn mặt, trong cách vẽ với xúc cảm đậm chất thơ, trong việc áp dụng một luận lý bí ẩn dành riêng cho hình học. Sau khi đạt tới vị thế một họa sĩ bậc thầy khi tuổi còn trẻ, danh họa này với phong cách thần thánh đã dành trọn ba mươi năm để theo đuổi sự cách tân can đảm nhất trong chủ đề, bố cục và phong cách. Làm việc theo phong cách thủy mặc Trung Hoa - do người Mông Cổ mang đến cho chúng tôi - với kỹ năng và một ý thức tinh tế về sự cân đối, ông là người đã du nhập bọn ma quỷ khủng khiếp, những âm hồn có sừng, những con ngựa có hòn dái to, những quái vật nửa người và những tên khổng lồ vào phong cách vẽ Herat nhạy cảm và tinh tế; ông là người đầu tiên quan tâm và chịu ảnh hưởng của nghệ thuật chân dung do những con tàu phương Tây từ Bồ Đào Nha và Flander mang đến; ông tái khám phá những kỹ thuật bị quên lãng có từ thời Thành Cát Tư Hãn và được giấu kín trong những pho sách cũ mục nát; trước bất cứ ai khác, ông đã dám vẽ những cảnh gợi dục ở đàn ông như cảnh Alexander nhìn trộm những mỹ nữ trần truồng tắm trên đảo đàn bà và Shirin tắm dưới ánh trăng, ông ta vẽ đấng Tiên tri vinh quang của chúng ta thăng thiên trên lưng con ngựa Burak có cánh của Người, những vị vua cào gãi mình mẩy, lũ chó đang giao phối và các lãnh tụ Hồi giáo uống rượu vang, và khiến cả cộng đồng những người yêu sách chấp nhận chúng. Ông đã làm chuyện đó, có lúc bí mật, có lúc công khai, uống rất nhiều rượu vang và hút thuốc phiện, với một nỗi nhiệt tình kéo dài ba mươi năm. Sau này, khi tuổi đã già, ông trở thành môn đồ của một lãnh tụ Hồi giáo sùng đạo, và trong một thời gian ngắn đã thay đổi hoàn toàn. Đi đến kết luận rằng mọi bức tranh ông làm trong thời kỳ ba mươi năm trước là xúc phạm và báng bổ, ông đã chối bỏ tất cả chúng. Hơn nữa, ông cống hiến ba mươi năm còn lại của đời ông cho việc đi từ lâu đài này đến lâu đài khác, từ thành phố này đến thành phố khác, lục lọi trong các thư viện và kho báu của các vua chúa để tìm và hủy bỏ những bản thảo ông đã minh họa. 

Trong bất cứ thư viện của bất cứ vị quý tộc vua chúa nào mà ông tìm thấy một bức tranh ông làm từ những năm trước, ông sẽ không từ một thủ đoạn nào để tiêu hủy nó, tìm cách tiếp cận chúng bằng cách nịnh hót hay mưu kế, và ngay khi không ai chú ý ông sẽ xé trang sách mà ông đã minh họa, hoặc tìm cơ hội đổ nước lên trang đó, làm nó hỏng. Tôi kể lại câu chuyện này như một ví dụ về cảnh một nhà tiểu họa có thể chịu đựng đau khổ cực độ ra sao vì vô tình từ bỏ đức tin của mình trước sự quyến rũ của nghệ thuật. Điều này lý giải tại sao tôi đề cập chuyện Sheikh Muhammad đốt cháy thư viện khổng lồ của ông hoàng Ismail Mirza chứa hàng trăm cuốn sách mà chính tay vị thầy này minh họa; quá nhiều sách đến độ ông ta không thể lựa riêng những cuốn do ông làm ra khỏi những cuốn sách khác. Với sự cường điệu lớn lao, như thể chính tôi trải qua chuyện đó, tôi kể tiếp chuyện vị họa sư này, trong nỗi buồn khổ và hối tiếc sâu sắc, đã chết thiêu trong đám cháy khủng khiếp đó thế nào. 


"Con có sợ, con trai," Enishte Kính mến hỏi một cách thương hại, "những bức tranh chúng ta đã làm không?" 

Căn phòng bây giờ tối đen, tôi không thể tận mắt thấy nhưng tôi có cảm giác rằng ông hỏi câu này với một nụ cười. 

"Cuốn sách của chúng ta không còn là một bí mật," tôi đáp. "Có lẽ điều đó không quan trọng. Nhưng tin đồn đang lan truyền. Họ nói chúng ta đã lén phạm tội báng bổ. Họ nói rằng ở đây, chúng ta đã làm một cuốn sách - không như Đức vua đã đặt làm và mong mỏi - mà là một cuốn sách để thỏa mãn những ý thích khác thường của chính chúng ta; một cuốn sách nhạo báng cả đấng Tiên tri và bắt chước những bậc thầy ngoại giáo. Có người thậm chí còn tin chúng ta vẽ quỷ Sa tan như một kẻ đáng yêu. Họ nói chúng ta đã phạm phải một tội lỗi không thể tha thứ bởi dám vẽ một con mòng và một thánh đường như thể chúng có cùng kích cỡ, theo tầm nhìn của một con chó hoang ghẻ lở với lý do là thánh đường nằm ở hậu cảnh - vì thế mà nhạo báng những kẻ ngoan đạo đang tham dự buổi cầu kinh. Tôi không ngủ được vì nghĩ về những điều như thế." 

"Chúng ta đã cùng nhau làm tranh minh họa," Enishte Kính mến nói. "Chúng ta có từng cân nhắc đến những ý tưởng như thế chưa, chứ đừng nói tới chuyện làm một điều xúc phạm như thế được?" 

"Dĩ nhiên là không rồi," tôi nói một cách cởi mở. "Nhưng người ta vẫn cứ nghe nói có chuyện như thế. Họ nói có một bức cuối cùng mà theo lời đồn đại là dám công khai thách thức đạo giáo của chúng ta và những gì chúng ta cho là thiêng liêng." 

"Bản thân anh có thấy bức tranh cuối cùng ấy bao giờ chưa?" 

"Không. Tôi làm tranh theo bất cứ gì ông yêu cầu ở những vị trí khác nhau trên một tờ giấy to, chắc là một bức minh họa tờ đôi." Tôi nói với sự cẩn trọng và chính xác mà tôi hy vọng sẽ làm vừa lòng Enishte Kính mến. "Nhưng tôi chưa từng thấy bức minh họa hoàn chỉnh. Nếu tôi thấy được cả bức tranh thì lương tâm tôi đã thanh thản trong việc phủ nhận toàn bộ trò vu khống bẩn thỉu này rồi." 

"Tại sao anh có cảm giác tội lỗi?" ông hỏi. "Cái gì đang cắn rứt linh hồn anh? Ai đã khiến anh nghi ngờ bản thân?" 

"... lo lắng rằng mình đã công kích những gì chính mình coi là thiêng liêng, sau khi dành nhiều tháng hoan hỉ minh họa cho một cuốn sách...chịu đựng những giày vò của Hỏa ngục ngay khi đang sống... giá như tôi thấy được trọn vẹn bức tranh cuối cùng đó." 

"Đây là điều khiến anh lo lắng phải không?" ông ta hỏi. "Đây là lý do khiến anh đến đây hả?" 

Chợt tôi thấy kinh hoàng. Có thể nào ông ta đang nghĩ đến một điều gì kinh khủng, kiểu như chính tôi là kẻ giết Zarif Kính mến xấu số không? 

"Những kẻ muốn Đức vua bị truất phế và hoàng tử lên ngôi đang ra sức truyền bá chuyện đồn đại ngấm ngầm rằng Ngài bí mật tài trợ cuốn sách này," tôi nói. 

"Bao nhiêu người thực sự tin điều đó?" Ông ta hỏi một cách mệt mỏi. "Mọi giáo sĩ có tham vọng từng được đặc ân nào đó và do đó trở nên kiêu căng sẽ thuyết giảng rằng đạo giáo của chúng ta đang bị gạt bỏ và coi thường. Đây là cách chắc chắn nhất để bảo đảm miếng ăn cho họ." 

Phải chăng ông ta cho rằng tôi đến chỉ để thông báo về một tin đồn? 

"Zarif Kính mến tội nghiệp, cầu Chúa phù hộ anh ta", tôi nói, giọng run run. "Người ta cho rằng chúng ta giết anh ấy vì anh ấy đã thấy trọn vẹn bức tranh cuối cùng và tin chắc rằng nó nhục mạ tín ngưỡng của chúng ta. Một người trưởng nhóm mà tôi biết tại xưởng vẽ hoàng cung đã nói với tôi như thế. Ông biết những thợ học việc từ lớn tới nhỏ là như thế nào rồi mà, ai cũng thích ngồi lê đôi mách." 

 
Vẫn theo hướng lập luận này và càng lúc càng say sưa, tôi nói tiếp một hồi lâu. Tôi không biết có bao nhiêu phần trong những điều tôi nói là do tôi nghe được, bao nhiêu phần là do tôi bịa đặt vì sợ hãi sau khi đã thanh toán tên vu khống xấu xa đó, hoặc bao nhiêu phần là do tôi ứng tác tại chỗ. Sau khi dành phần lớn cuộc nói chuyện để nịnh hót, tôi đoán rằng Enishte Kính mến sẽ cho tôi xem bức minh họa tờ đôi đó và giải thoát tôi khỏi mối ưu tư. Tại sao ông không nhận ra đây là cách duy nhất tôi có thể vượt qua những sợ hãi về việc bị vướng vào tội lỗi?