Tên tôi là Đỏ - Chương 28 - Phần 2


Với ý đồ khiến ông ta giật mình, tôi hỏi một cách thách thức, "Người ta có thể nào làm nghệ thuật mang tính báng bổ mà không ý thức về điều đó không?" 

Thay vì trả lời, ông phác một cử chỉ nhẹ nhàng và tinh tế - như thể cảnh báo tôi rằng có một đứa trẻ đang ngủ trong phòng và tôi câm bặt. "Trời tối lắm rồi," ông nói, hầu như thì thào, "để ta đốt nến lên." 

Sau khi dùng than trong lò sưởi đốt nến lên, tôi nhận thấy trên khuôn mặt ông nét tự hào, một vẻ tự hào tôi chưa từng thấy, và điều này làm tôi vô cùng bực tức. Hay đó là vẻ thương hại? Hay ông ta đã hình dung ra mọi chuyện? Ông ta nghĩ tôi là loại sát nhân đê tiện hay ông ta sợ tôi? Tôi nhớ lại những ý nghĩ của mình đã bất ngờ vượt khỏi tầm kiểm soát như thế nào và tôi đã lắng nghe một cách ngốc nghếch những gì mình đang nghĩ cứ như một ai khác đang nghĩ ra sao. Chẳng hạm tấm thảm dưới chân tôi: Có một họa tiết giống hình chó sói ở một góc, nhưng tại sao trước đó tôi không nhận thấy nó? 

"Tình yêu mà tất cả các đại hãn, vương hầu và vua chúa dành cho những bức tranh, minh họa và những cuốn sách đẹp có thể được chia làm ba mùa," Enishte Kính mến nói. "Ban đầu họ táo bạo, hăm hở và tò mò. Những người thống trị thích những bức tranh vì ngưỡng mộ, để ảnh hưởng đến cách người ta nhìn ngắm chúng.. Trong thời kỳ này, họ giáo dục chính họ. Trong thời kỳ thứ hai, họ đặt làm những cuốn sách để thỏa mãn óc thẩm mỹ của mình. Bởi vì họ đã thành thực học được cách thưởng thức tranh, họ tích lũy thanh thế đồng thời tích lũy sách vở, mà sách vở thì sau khi họ chết đi, sẽ bảo đảm sự tồn tại cho tên tuổi của họ trong thế giới này. Tuy nhiên vào mùa thu trong cuộc đời một vị vua, ông ta không còn quan tâm đến việc duy trì trạng thái bất tử trần thế của mình nữa. Khi nói "trạng thái bất tử trần thế" là ta muốn nói đến khao khát được những thế hệ tương lai, cháu chắt của chúng ta, nhớ đến. Những người thống trị ngưỡng mộ các nhà tiểu họa và sách vở đã đạt được sự bất tử thông qua những bản thảo mà họ đặt chúng ta làm - trong những trang bản thảo đó họ nhét tên của họ và nhiều lúc cả chuyện đời của họ vào. Sau đó, từng người trong số họ đi đến kết luận rằng hội họa là một rào cản ngăn không cho họ có được một chỗ ở thế giới bên kia, điều mà dĩ nhiên tất cả họ đều khao khát. Đấy là điều khiến ta lo lắng và sợ hãi nhất. Ngài Tahmasp vốn là nhà tiểu họa bậc thầy và dành cả tuổi trẻ trong họa xưởng, đã đóng cửa khu xưởng lộng lẫy của ông khi cái chết đến gần, đã đuổi những họa sĩ đầy thần hứng của ông khỏi Tabriz, tiêu hủy những pho sách ông đã làm ra và chịu đựng những cơn hối tiếc bất tận. Tại sao tất cả bọn họ lại tin rằng hội họa sẽ ngăn không cho họ vào cánh cổng Thiên đàng?" 

"Ông biết rõ tại sao mà! Bởi vì họ nhớ lại lời cảnh báo của đấng Tiên tri rằng vào Ngày phán xét, Allah sẽ trừng phạt giới họa sĩ nghiêm khắc nhất." 

"Không phải các họa sĩ," Enishte Kính mến chỉnh lại. "Mà những ai làm ra ngẫu tượng. Và điều này không phải từ kinh Koran mà từ Bukhari ." 1 Vào Ngày phán xét, những kẻ làm ra ngẫu tượng sẽ bị yêu cầu đem lại sự sống cho những hình tượng mà họ đã tạo ra," tôi dè dặt nói. "Vì họ không thể nào làm được điều đó nên tất cả sẽ phải chịu những hành hạ của Hỏa ngục. Đừng quên rằng trong kinh Koran Vinh quang, "tạo hóa" là một trong những thuộc tính của Allah. Chính Allah người sáng thế, người biến cái không có thành có, người ban cuộc sống cho vật vô tri. Không ai được phép sánh với Người. Tội lớn nhất trong các tội lỗi là do những họa sĩ phạm phải, những kẻ dám làm những gì Người làm, những kẻ tự cho rằng mình cũng sáng tạo như Người." 

Tôi tuyên bố một cách chắc nịch, như thể chính tôi cũng đang kết tội ông ta. Ông nhìn đăm đăm vào mắt tôi. 

"Anh nghĩ đây là điều chúng ta đang làm hả?" 

"Không bao giờ," tôi cười và nói. "Tuy nhiên đây là những gì Zarif Kính mến, cầu cho anh ta được bình yên, bắt đầu thừa nhận khi anh ta thấy bức tranh cuối cùng. Anh ta nói rằng việc ông sử dụng khoa học về luật phối cảnh và những phương pháp của các bậc thầy Venice chẳng là gì ngoài sự cám dỗ của Satan. Trong bức tranh cuối cùng, ông được cho là đã vẽ khuôn mặt của một người trần bằng những kỹ thuật Tây vực, vì vậy người xem tranh có ấn tượng không phải về một bức tranh mà về thực tại; tới mức độ hình ảnh này có khả năng khiến con người cúi đầu trước nó, như cúi đầu trước những tượng thánh trong nhà thờ Tây vực. Theo anh tại đây là tác phẩm của Quỷ sứ, không chỉ vì nghệ thuật phối cảnh đưa bức tranh rời xa cách nhìn thế gian của Thượng đế và đưa nó xuống tầm nhìn của một con chó hoang, mà còn vì việc ông dựa vào những phương pháp của bọn Venice cũng như trộn lẫn những truyền thống lâu đời của chúng ta với truyền thống của bọn ngoại giáo sẽ tước mất sự thuần khiết của chúng ta và đẩy chúng ta xuống hàng nô lệ của họ." 

"Chẳng có gì là thuần khiết cả".Enishte Kính mến nói. "Trong lãnh vực nghệ thuật làm sách, bất cứ khi nào một kiệt tác được làm ra, bất cứ khi nào một bức tranh tráng lệ làm ta chảy nước mắt vì vui sướng và khiến ta ớn lạnh cả sống lưng, ta có thể chắc chắn điều sau đây: Hai phong cách từ trước đến nay chưa bao giờ được kết hợp với nhau đã đi cùng nhau để tạo ra một cái gì mới mẻ và diệu kỳ. Nhờ có cuộc hội ngộ giữa sự nhạy cảm trong minh họa kiểu Ẳ Rập và nền hội họa Trung Hoa - Mông Cổ, chúng ta mới có Bihzad và sự huy hoàng của nền hội họa Ba Tư. Những bức tranh đẹp nhất của Ngài Tahmasp kết hợp phong cách Ba Tư với những vẻ tinh tế của người Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, nếu người ta không thể ca ngợi đúng mức những xưởng làm sách nghệ thuật của Akbar Khan ở Hindustan, đó là bởi ông ta đã cố thuyết phục những nhà tiểu họa của ông ta chấp nhận phong cách của những bậc thầy Tây vực. Cả phương Đông lẫn phương Tây đều thuộc về Thượng đế. Có lẽ Người bảo vệ chúng ta tránh khỏi ý muốn về sự tinh túy và không pha trộn. 

Dù nét mặt ông có vẻ bừng sáng và dịu dàng dưới ánh nến, nhưng bóng của ông hắt trên tường vẫn tối đen và đầy đe dọa. Dù nhận thấy những gì ông nói hết sức hợp lý và có cơ sở, nhưng tôi không tin ông. Tôi cho rằng ông ta nghi ngờ tôi, và vì thế tôi càng lúc càng ngờ vực ông; tôi có cảm giác rằng nhiều lúc ông lắng nghe cổng sân bên dưới, rằng ông đang hy vọng ai đó sẽ giải thoát ông khỏi sự có mặt của tôi. 

"Chính anh đã nói với tôi chuyện Sheikh Muhammad bậc thầy của Isfahan đã đốt cháy thư viện lớn chứa những bức tranh mà ông chối bỏ và đã tự thiêu trong cơn thống hối," ông ta nói." Bây giờ hãy để ta kể cho anh một câu chuyện liên quan đến truyền thuyết đó mà anh chưa biết. Quả thực là ông ta đã dành ba mươi năm cuối đời để săn tìm tác phẩm của chính mình. Tuy nhiên, trong những cuốn sách ông đọc, ông ngày càng phát hiện ra những sự bắt chước lấy cảm hứng từ ông thay vì tác phẩm sáng tạo của ông. Trong những năm cuối đời, ông dần nhận ra rằng có hai thế hệ nghệ sĩ đã chọn dạng tranh minh họa mà ông từ bỏ làm mẫu mực, rằng họ đã khắc sâu những bức tranh của ông vào tâm trí họ - hay nói chính xác hơn, đã làm cho chúng trở thành một phần trong tâm hồn họ. Khi Sheikh Muhammad nỗ lực tìm kiếm những bức tranh của mình và tiêu hủy chúng, ông phát hiện ra rằng những nhà tiểu họa trẻ, với lòng sùng kính, đã sao chép lại chúng trong vô số pho sách, đã dựa vào chúng khi minh họa những câu chuyện khác, đã làm cho chúng được mọi người nhớ đến và đã truyền bá chúng khắp thế giới. Qua bao năm dài, khi chúng ta nhìn hết cuốn sách này đến cuốn sách khác, hết bức minh họa này đến bức minh họa khác, chúng ta dần biết được điều sau đây: Một họa sĩ vĩ đại không bao giờ bằng lòng với việc gây ấn tượng cho chúng ta bằng những kiệt tác của mình; rốt cuộc thì, anh ta thành công trong việc thay đổi khung cảnh trong tâm trí chúng ta. Một khi nghệ thuật của nhà tiểu họa đi vào tâm hồn chúng ta theo cách này, nó trở thành tiêu chuẩn cho cái đẹp của thế giới chúng ta. Vào cuối đời, khi bậc thầy của Isfahan đốt công trình nghệ thuật của mình, ông không chỉ chứng kiến cái thực tế rằng công trình của ông, cho dù đã biến mất, đã thực sự sinh sôi nảy nở và gia tăng; ông hiểu rằng mọi người hiện nay nhìn thế giới theo cách ông đã nhìn nó. Những thứ không giống như những bức tranh ông làm thời trẻ giờ được coi là xấu xí." 

Không thể kiềm chế nỗi kinh sợ đang dậy lên trong tôi và không kiểm soát được nỗi khao khát muốn làm hài lòng Enishte Kính mến, tôi sụp xuống trước gối ông. Khi hôn tay ông, mắt tôi đầy lệ và tôi cảm thấy mình đã dọn cho ông một chỗ trong tâm hồn, nơi vốn luôn được dành cho Sư phụ Osman. 

"Một nhà tiểu họa", Enishte Kính mến nói với giọng của một người tự mãn, "tạo ra nghệ thuật của mình bằng việc quan tâm đến lương tâm mình và bằng cách vâng theo những nguyên lý mà anh ta tin tưởng, không sợ bất cứ điều gì. Anh ta không quan tâm đến chuyện kẻ thù anh ta, những kẻ cuồng tín và ghen tỵ với anh ta nói gì." Nhưng tôi chợt nhận ra rằng Enishte Kính mến thậm chí không phải là nhà tiểu họa khi tôi hôn bàn tay trổ đồi mồi và nhăn nheo của ông ta qua nước mắt. Tôi bối rối trước ý nghĩ của mình. Như thể một người khác đã nhét ý niệm trơ trẽn, quỷ quái này vào đầu tôi. Tuy thế các vị cũng biết tuyên bố này chân thực đến cỡ nào. 

"Ta không sợ họ", Enishte nói. "vì ta không sợ chết." 

"Họ" là ai? Tôi gật đầu như thể tôi hiểu. Nhưng cảm giác khó chịu bắt đầu lớn dần trong tôi. Tôi nhận thấy rằng pho cổ thư hiện nằm bên cạnh Enishte là cuốn Kitab al-Ruh của El-Jevziyye. 

Tất cả những người già cả lú lẫn đang đi tìm cái chết đều yêu quý cuốn sách kể về những cuộc phiêu lưu dành cho linh hồn này. Vì tôi đã có mặt ở nơi này lúc gần đây, nên tôi thấy món mới mẻ duy nhất giữa những đồ vật đựng trong các khay, nằm trên rương, giữa những hộp viết, dao chuốc bút, bàn cắt ngòi bút, những lọ mực và cọ: đó là một lọ mực bằng đồng. 

"Chúng ta hãy xác định, lần cuối cùng, rằng chúng ta không sợ họ," tôi nói đầy tự tin. "Hãy lấy bức minh họa cuối cùng đó ra. Hãy cho họ xem nó." 

"Nhưng điều này sẽ không chứng minh rằng chúng ta quan tâm đến lời vu khống của họ, ít nhất là đến mức coi trọng nó, phải không? Chúng ta chẳng làm điều gì để phải sợ cả. Cái gì có thể biện minh cho nỗi sợ hãi đến thế của anh?" Ông ta vò đầu tôi như một người cha. Tôi sợ rằng mình sẽ òa lên khóc lần nữa; tôi ôm ông ta. 

"Tôi biết tại sao tay thợ mạ vàng Zarif Kính mến bất hạnh đó bị giết," tôi nói đầy kích động. "Qua việc vu khống ông, cuốn sách của ông và chúng ta, Zarif Kính mến đã lên kế hoạch cho môn đồ của Nusret Hoja xứ Erzurum nhắm vào chúng ta. Anh ta tin chắc rằng chúng ta đã rơi vào vòng khống chế cửa Quỷ sứ. Anh ta bắt đầu tung những tin đồn như thể cố xúi giục những nhà tiểu họa khác đang làm cho cuốn sách này nổi lên chống lại ông. Tôi không biết tại sao đột nhiên anh ta làm vậy. Có lẽ vì ghen tỵ, có lẽ anh ta bị Satan xui khiến. Và những nhà tiểu họa khác cũng nghe chuyện Zarif Kính mến nhất quyết tiêu diệt tất cả chúng ta như thế nào. Ông có thể hình dung từng người trong bọn họ càng lúc càng sợ hãi và ngả theo những nghi ngờ như thế nào, chính tôi đây cũng vậy. Bởi vì một người trong số họ, vào lúc nửa đêm, đã bị Zarif Kính mến dồn vào chân tường - xúi giục anh ta chống lại ông, chúng ta, cuốn sách của ông, cũng như chống lại việc minh họa, vẽ tranh và tất cả những thứ khác mà chúng ta tin tưởng - người nghệ sĩ đó đã hoảng sợ, giết tên vô lại đó và ném xác hắn xuống giếng." 

"Tên vô lại?" 

" Zarif Kính mến là một kẻ phản bội hèn hạ, xấu xa. Tên đểu cáng", tôi la to như thể anh ta đang đứng trước mặt tôi trong phòng này vậy. 

Im lặng. Ông ta sợ tôi chăng? Tôi sợ chính mình. Nó như thể tôi đã khuất phục trước ý chí và ý nghĩ của ai khác vậy; những điều này không hẳn là kém thú vị. 

"Nhà tiểu họa hoảng sợ giống anh và họa sư xứ Isfahan này là ai vậy? Ai đã giết anh ta?" 

"Tôi không biết," tôi đáp. 

Nhưng tôi muốn ông ta suy luận được qua vẻ mặt của tôi rằng tôi nói dối. Tôi nhận ra rằng mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi đến đây, nhưng tôi không đi đến chỗ đầu hàng cảm giác phạm tội và hối tiếc. Tôi có thể thấy rằng Enishte Kính mến càng lúc càng nghi ngờ tôi, điều này khiến tôi vui và vững vàng hơn. Nếu ông ta tin chắc rằng tôi là kẻ giết người và nhận thức này khiến ông kinh hoàng, vậy thì ông ta sẽ không dám từ chối cho tôi xem bức tranh cuối cùng. Tôi quá tò mò về bức tranh đó không phải vì tôi đã phạm tội vì nó, mà thật lòng tôi muốn xem nó ra thế nào. 

"Việc ai giết tên đê tiện đó quan trọng lắm sao?" tôi nói. "Chẳng phải bất cứ ai giải thoát chúng ta khỏi tay hắn thì cũng đã làm một việc tốt sao?" 

Tôi can đảm lên khi thấy ông ta không còn nhìn thẳng vào mắt tôi nữa. Nhưng con người hào hiệp, những người nghĩ họ tốt hơn và đạo đức hơn người khác, không thể nhìn thẳng vào mắt ta khi họ bị ta làm cho lúng túng, có lẽ bởi vì họ đang suy tính việc tố giác ta và bỏ mặc ta bị tra tấn, hành hình. 

Bên ngoài, ngay trước cổng sân, lũ chó bắt đầu tru lên dữ dội. 

"Tuyết lại rơi." tôi nói. "Mọi người đi đâu hết vào giờ khuya khoắt này nhỉ? Sao họ để ông một mình ở đây? Thậm chí họ không đốt một ngọn nến cho ông nữa." 

"Thật hết sức kỳ cục," ông nói. "Ta cũng chẳng hiểu nữa." Ông quá chân thật đến độ tôi tin ông hoàn toàn, và dù nhạo báng ông ta như những nhà tiểu họa khác đã làm, tôi một lần nữa biết rằng mình thật sự rất yêu quý ông. Nhưng làm thế nào ông ta cảm nhận được rất nhanh lòng tôn trọng và yêu quý bất ngờ và dữ dội của tôi, để ông phản ứng bằng cách xoa đầu tôi với tình cảm của một người cha như vậy? Tôi bắt đầu thấy rằng phong cách hội họa của Thầy Osman, và di sản của những sư phụ lão thành ở Herat, không hề có tương lai gì cả. Và ý tưởng tồi tệ này một lần nữa khiến tôi hoảng sợ. Sau một bi kịch nào đó, tất cả chúng ta đều cảm thấy như vậy: Trong niềm hy vọng mong manh cuối cùng, và không cần biết chúng ta có vẻ khôi hài và ngu ngốc đến mức nào, chúng ta luôn cầu xin cho mọi chuyện cứ tiếp tục như xưa nay. 

"Chúng ta hãy tiếp tục minh họa pho sách của mình," tôi nói. "Hãy để mọi thứ tiếp diễn như vẫn thế từ trước đến nay." 

"Có một tên giết người trong đám tiểu họa. Ta vẫn tiếp tục công việc của ta với Siyah Kính mến." 

Có phải ông ta đang kích động tôi giết anh ta? 

"Siyah bây giờ ở đâu?" tôi hỏi. "Con gái ông với bọn trẻ đâu cả rồi?" 

Tôi có cảm giác một sức mạnh nào đó đã đặt những lời này vào miệng tôi, nhưng tôi không kiềm chế được mình. Không còn đường nào cho tôi hạnh phúc và hy vọng. Tôi chỉ có thể thông minh và châm chọc. Đằng sau hai vị thần luôn có tính giải khuây này - thông minh và châm chọc - tôi cảm thấy có sự hiện diện của Quỷ sứ, kẻ điều khiển họ và khuất phục tôi. Đồng thời, lũ chó đáng ghét bên ngoài cổng bắt đầu tru điên cuồng cứ như chúng đánh hơi thấy mùi máu. 

Phải chăng tôi đã sống đúng giây phút này từ rất lâu rồi? Trong một thành phố xa xôi, tại một thời điểm mà bây giờ với tôi có vẻ đã lâu lắm rồi, khi một cơn mưa tuyết đang rơi mà tôi không thấy được bên ánh nến, tôi đang cố giải thích qua nước mắt rằng tôi hoàn toàn vô tội với một lão già lẩm cẩm cáu kỉnh, kẻ đã buộc tội tôi ăn cắp thuốc màu. Hồi đó, giống như bây giờ, chó cũng bắt đầu tru như thể chúng ngửi được mùi máu. Và tôi hiểu qua chiếc cằm to của Enishte Kính mến, phù hợp với một lão già độc ác, và qua đôi mắt ông ta, vốn sau cùng đã soi mói không thương xót vào mắt tôi, rằng ông ta có ý định khuất phục tôi. Tôi nhớ lại ký ức tả tơi này từ khi tôi là chú thợ học việc tiểu họa lên mười tuổi giống như một bức tranh mà những đường nét thì còn rõ nhưng màu sắc đã nhạt nhòa. Như thể tôi đang sống thời hiện tại cứ như đó là một ký ức có thực nhưng đã mờ nhạt. 

Vì vậy khi tôi nhổm dậy đi vòng phía sau Enishte Kính mến, cầm lên chiếc bình mực bằng đồng nặng, to, mới mẻ đó giữa đống bình mực bằng pha lê, sứ và thủy tinh trên bàn làm việc của ông ta, nhà tiểu họa chăm chỉ trong tôi - mà Thầy Osman đã làm cho thấm nhuần trong tất cả chúng tôi - đang minh họa những gì tôi đã làm và những gì tôi đã thấy bằng màu sắc rõ ràng nhưng đã mờ nhạt, không như cái gì đó tôi đang trải nghiệm lúc này mà cứ như nó là một ký ức xa xưa. Các vị biết trong giấc mơ, chúng ta rùng mình thế nào khi thấy chính mình như nhìn từ bên ngoài, thì cũng với cảm giác như vậy, cầm bình mực bằng đồng lớn nhưng có miệng nhỏ, tôi nói: 

"Hồi tôi còn là đứa học việc lên mười, tôi cũng thấy một cái bình mực như vầy." 

"Đó là bình mực Mông Cổ ba trăm năm tuổi," Enishte Kính mến nói. "Siyah mang nó từ mãi tận Tabriz về đây. Nó dùng để đựng mực đỏ." 

Vào đúng lúc đó, dĩ nhiên chính Quỷ sứ thúc giục tôi dùng hết sức bình sinh giáng bình mực này vào cái đầu sai lầm của lão già tự phụ này. Nhưng tôi không đầu hàng Quỷ sứ, và với niềm hy vọng hão huyền, tôi nói, "Chính tôi, tôi là kẻ đã giết Zarif Kính mến." 

Các vị hiểu tại sao tôi nói điều này một cách đầy hy vọng, đúng không? Tôi tin rằng Enishte sẽ hiểu, và do đó tha thứ cho tôi - rằng ông ta sẽ sợ và giúp tôi.


--------------------------------
1 Bukhari: Bukhari. Còn gọi là Al-Bukhari hoặc Imam Bukhari (810-870), một học giả Hồi giáo phái Sunni người Ẳ Rập, được coi là tác giả bộ sách giai thoại có tên là Sahih Bukhari (Sahih tiếng Ẳ Rập nghĩa là chân thực), được phái Sunni coi là chân thực nhất sau kinh Koran.