Tên tôi là Đỏ - Chương 51 - Phần 3


"Hãy nhìn cách thể hiện bàn tay độc đáo này," tôi nói. "Đó là Bihzad." Bàn tay tôi tự động nắm lấy tay Siyah, cứ như đang nắm tay một trong những cậu học việc xinh xắn, da mịn như nhung, mà hồi trẻ tôi yêu thương từng đứa. Tay cậu ta mềm mịn và quả quyết, ấm hơn tay tôi, thanh tú và rộng, tôi rùng mình vì cổ tay nổi gân của cậu ta. Khi còn trẻ tôi thường giữ bàn tay cậu bé học việc trong tay mình và, trước khi bảo cho cậu ta biết cách cầm cọ tôi thường nhìn âu yếm vào đôi mắt sợ sệt, dễ thương của cậu ta. 

Đó là cách tôi nhìn Siyah. Tôi thấy ánh lửa của cây nến cậu ta đang giơ cao phản chiếu trong đồng tử cậu ta. "Bọn tiểu họa chúng ta là anh em." tôi nói, "Nhưng bây giờ mọi thứ sắp kết thúc." 

"Ý thầy là sao?" 

Tôi nói "Mọi thứ đang đến hồi kết thúc" giống như một bậc thầy vĩ đại khao khát được mù, sau nhiều năm cống hiến cho một ông hoàng nào đó, sau khi tạo ra những kiệt tác trong xưởng của mình theo phong cách của người xưa, thậm chí sau khi bảo đảm rằng xưởng này có phong cách riêng của nó, một người thầy vĩ đại biết rõ, bất cứ khi nào ông hoàng bảo trợ của mình thua trận chiến cuối cùng, thì những ông hoàng mới sẽ theo gót bọn quân thù mà cướp bóc, giải thể xưởng vẽ, xé toạc những cuốn sách đã được đóng tử tế, quăng bừa các trang sách, xem thường và tiêu hủy những gì còn lại, kể cả nhũng chi tiết tinh tế mà từ lâu ông ta hằng tin, vốn là khám phá của riêng ông ta và ông ta đã yêu như con của chính mình. Nhưng tôi cần giải thích điều này với Siyah một cách khác hẳn. 

"Bức minh họa này vẽ thi hào Abdullah Hatifi," tôi nói. "Hatifi là một nhà thơ vĩ đại đến độ ông chỉ ở tại nhà trong khi mọi người đua nhau bợ đỡ vua Ismail sau khi ông vua này chiếm được Herat. Đáp lại, vua Ismail đã đích thân đến nhà ông ở ngoại o để gặp ông. Chúng ta biết đây là Hatifi, không phải qua cách Bihzad vẽ khuôn mặt Hatifi mà qua dòng chữ viết bên dưới bức minh họa, đúng không?" 

Siyah nhìn tôi, hàm ý "phải" bằng đôi mắt đẹp của cậu ta."Khi nhìn khuôn mặt của nhà thơ trong bức tranh," tôi nói, "chúng ta thấy nó có thể là một khuôn mặt giống mọi khuôn mặt khác. Nếu Abdullah Hatifi ở đây, cầu cho linh hồn ông được yên nghỉ, chúng ta không bao giờ hy vọng nhận ra ông qua khuôn mặt trong bức tranh này. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra dựa vào toàn bộ bức minh họa: Có một điều gì đó trong bố cục, trong tư thế của Hatifi, trong các màu sắc, phần mạ vàng và bàn tay tuyệt vời do thầy Bihzad vẽ lập tức cho thấy bức tranh này là vẽ thi hào đó. Trong thế giới nghệ thuật của chúng ta, ý nghĩa luôn đi trước hình thức. Khi chúng ta bắt đầu vẽ bắt chước theo những bậc thầy Tây vực và Venice, như trong cuốn sách mà Đức vua đã đặt Enishte của con làm, lĩnh vực ý nghĩa kết thúc và lĩnh vực hình thức bắt đầu. Tuy nhiên với phương pháp Venice..." 

"Enishte của con, cầu cho ông được yên nghỉ, đã bị giết," Siyah đột ngột nói. 

Tôi săm soi bàn tay Siyah đang nằm trong tay tôi như đang vuốt ve một cách nâng niu bàn tay bé xíu của một thợ học việc trẻ, người có thể minh họa được những kiệt tác một ngày nào đó. Lặng lẽ và cung kính, chúng tôi nhìn kiệt tác của Bihzad một hồi. 

Sau đó, Siyah rút tay cậu ta khỏi tay tôi. 

"Chúng ta đã lướt quá nhanh qua những con ngựa nâu ở mấy trang trước mà không xem xét kỹ cái mũi của chúng," cậu ta nói. 

"Chẳng có gì cả," tôi nói và lật lại trang trước để cậu ta có thể nhìn thấy: Chẳng có gì lạ thường ở cánh mũi của các con ngựa. 

"Chừng nào chúng ta mới tìm được con ngựa có cái mũi đặc biệt?" Siyah hỏi như một đứa trẻ. 

Nhưng, lúc nửa đêm về sáng, khi chúng tôi tìm ra cuốn sách huyền thoại Shahnameh của vua Tahmasp trong một cái rương sắt dưới những đống lụa vân xanh và lôi nó ra, Siyah đã cuộn người ngủ ngay trên tấm thảm Ushak đỏ, đầu kê trên chiếc gối đính ngọc. Trong lúc đó, ngay khi tôi nhìn thấy pho sách huyền thoại lần nữa sau nhiều năm, tôi nhanh chóng hiểu rằng ngày chỉ vừa mới bắt đầu đối với tôi. 

Pho sách huyền thoại mà tôi chỉ được thấy cách nay hai mươi lăm năm thì quá lớn và nặng đến độ Jezmi Agha và tôi phải khó khăn lắm mới giở nó lên và khiêng đi được. Khi chạm đến bìa sách, tôi biết có gỗ bên trong lớp da. Cách nay hai mươi lăm năm, sau cái chết của vua Kanuni Suleyman, vua Tahmasp quá sung sướng vì cuối cùng đã tống khứ được vị vua từng chiếm Tabriz tới ba lần này đến độ cùng với những con lạc đà chất đầy quà mà ông gửi cho vua Selim, người kế vị Suleyman, ông còn kèm theo một cuốn kinh Koran đặc biệt, và pho sách này, cuốn đẹp nhất trong các sách trong kho báu của ông. Thoạt tiên, một phái bộ sứ thần Ba Tư ba trăm người mạnh khỏe mang bộ sách này đến Edirne nơi vị tân vương đang có chuyến săn bắn mùa đông; sau khi nó về đến Istanbul này cùng những món quà khác do lạc đà và lừa chở, Trưởng ban Trang trí Siyah Memi và ba thợ cả trẻ chúng tôi đã đến xem cuốn sách trước khi nó được đưa vào Quốc khố. Giống như người dân Istanbul chen lấn để xem một con voi từ Hindustan đến hoặc một con hươu cao cổ từ Phi chính chúng tôi vội đến lâu đài ở đó tôi được thầy Siyah Memi cho biết rằng Sư phụ Bihzad vĩ đại, người đã chuyển từ Herat đến Tabriz lúc tuổi già, không góp phần vào cuốn sách này bởi vì thầy đã mù. 

Về phần những nhà tiểu họa Ottoman như chúng tôi, những kẻ vẫn kinh ngạc trước những pho sách bình thường với bảy tám tranh minh họa, nhìn qua cuốn sách này, vốn chứa đến hai trăm năm mươi tranh minh họa lớn, thì cũng giống như đang lang thang qua một lâu đài lộng lẫy khi những người trong đó đã ngủ. Chúng tôi nhìn những trang cực kỳ phong phú với lòng kính trọng sâu sắc, như thể đang xem những khu vườn Địa đàng vốn chỉ xuất hiện một cách thần kỳ trong một phút thoáng qua. Và suốt hai mươi lăm năm sau đó, chúng tôi đã bàn tán về pho sách vốn luôn được khóa kỹ trong Quốc khố này. 

Tôi lặng lẽ giở tấm bìa dày của cuốn Shahnameh như thể mở một cánh cửa lâu đài khổng lồ. Trong khi tôi lật các trang, mỗi trang tạo âm thanh sột soạt vui tai, tôi chìm trong nỗi buồn phiền hơn là kính sợ. 

1. Nhớ lại những câu chuyện hàm ý rằng mọi nhà tiểu họa bậc thầy ở Istanbul đều đã ăn cắp hình ảnh từ các trang trong cuốn sách này, tôi không thể toàn tâm chú ý đến các bức tranh. 

2. Nghĩ rằng mình có thể tình cờ gặp một bàn tay được Bihzad vẽ trong một góc nào đó, tôi không thể để hết tâm trí vào những kiệt tác mà cứ cách năm hay sáu bức lại xuất hiện một bức (dứt khoát và duyên dáng làm sao cách Tahmuras hạ quyền đường xuống đầu bọn ma quỷ và người khổng lồ, nhũng kẻ mà sau này, lúc hòa bình, sẽ dạy ông bảng chữ cái tiếng Hy Lạp và các thứ tiếng khác)! 

3. Những cái mũi của bọn ngựa và sự hiện diện của Siyah cùng tên lùn đã giữ tôi không đắm mình vào những gì tôi thấy. 

Dĩ nhiên, tôi thất vọng khi nhận ra mình đang quan sát bằng trí óc hơn là bằng trái tim, cho dù tôi rất may mắn được Allah, với lòng hào phóng của Người, ban cho cơ hội xem thỏa thuê pho sách huyền thoại này trước khi màn nhung của bóng tối trùm lên mắt tôi - ân huệ thần thánh dành cho mọi nhà tiểu họa vĩ đại. Cho đến lúc ánh bình minh lan đến Quốc khố, nơi đang dần bắt đầu giống một ngôi mộ lạnh giá, tôi đã xem từng bức trong hai trăm năm mươi chín bức tranh của pho sách siêu phàm này. Vì tôi nhìn bằng trí óc, nên hãy cho phép tôi một lần nữa phân loại, như thể tôi là một học giả Ẳ Rập chỉ quan tâm đến lập luận: 

1. Tôi không tìm ra ở đâu một con ngựa với cánh mũi giống những gì tên giết người đê tiện đã vẽ: Trong số những con ngựa được tô màu khác nhau mà Rustem đã gặp trong khi đuổi theo những tên trộm ngựa ở Turan; những con ngựa tuyệt mỹ của vua Feridun bơi qua sông Tigris sau khi vua Ẳ Rập từ chối không cho phép ông ta làm thế, những con ngựa xám đang buồn rầu chứng kiến sự phản bội của Tur khi chém đầu đứa em trai Iraj, người mà ông ta đố kỵ vì cha họ, trong khi chia lãnh thổ, đã trao phần tốt nhất là Ba Tư và cả Trung Hoa xa xôi cho Iraj còn Tur thì chỉ được chia những vùng đất phía Tây; trong những con ngựa thuộc những đội quân anh hùng của Alexander vốn gồm người Khazar, người Ai Cập, người Berber và người Ẳ Rập, tất cả được trang bị áo giáp, khiên sắt, những thanh gươm thượng hạng và mũ trụ lấp lánh; trong con ngựa huyền thoại vốn đã giết vua Yazdgird - mũi ông ta chảy máu không ngừng do bị thần thánh trừng phạt vì dám nổi loạn chống lại sự an bài của Thượng đế - bằng cách giẫm đạp lên ông ta bên bờ hồ nước trong xanh mà thứ nước hồi sinh của nó đã làm giảm nhẹ nỗi muộn phiền của ông ta; và giữa hàng trăm con ngựa hoàn hảo và bí ẩn do sáu hay bảy nhà tiểu họa vẽ, tất cả đều không thấy. Nhưng, trước mắt vẫn còn hơn một ngày nữa để tôi nghiên cứu những cuốn sách khác trong Quốc khố. 

2. Có một lời khẳng định vốn đã trở thành đề tài bàn tán dai dẳng trong đám họa sĩ bậc thầy suốt hai mươi lăm năm qua: được Đức vua cho phép, một nhà minh họa đã vào Quốc khố ở thâm cung này, tìm thấy cuốn sách kỳ vĩ đó, giở ra và, dưới ánh nến, sao vào sổ ghi chép của anh ta những mẫu mực về ngựa, cây, mây, hoạt chim, vườn, những cảnh chiến trận và tình yêu tuyệt đẹp để sau này sử dụng cho tác phẩm của mình... Mỗi khi có họa sĩ nào tạo ra một tác phẩm khác thường và gây kinh ngạc, thì lòng ghen tỵ liền đẻ ra loại chuyện tầm phào như thế ở những họa sĩ khác, những kẻ luôn tìm cách rẻ rúng bức tranh, coi nó chẳng gì hơn một tác phẩm Ba Tư ở Tabriz. Hồi đó Tabriz chưa thuộc lãnh thổ Ottoman. Khi lời vu khống như thế nhắm vào tôi, tôi cảm thấy giận dữ một cách chính đáng, nhưng lại thầm tự hào nhưng khi tôi nghe lời buộc tội như thế về người khác, thì tôi tin nó ngay. Bây giờ tôi buồn rầu nhận ra rằng, một cách kỳ lạ nào đó, bốn nhà tiểu họa chúng tôi, những kẻ từng được xem pho sách này từ hai mươi lăm năm trước, đã khắc sâu những hình ảnh trong đó vào ký ức, và từ đó trở đi chúng tôi chỉ nhớ lại, biến cải và vẽ chúng vào những cuốn sách làm cho Đức vua. Tinh thần tôi đã sa sút, không phải bởi sự tàn nhẫn của những vị vua quá đa nghi vốn sẽ không bao giờ lấy những cuốn sách như thế ra khỏi kho báu của họ cho chúng tôi xem. mà bởi sự nhỏ hẹp của thế giới hội họa của chính chúng tôi. Liệu có phải là những bậc thầy vĩ đại của Herat hay những bậc thầy mới của Tabriz, những họa sĩ Ba Tư đã làm ra nhiều bức minh họa xuất chúng hơn, nhiều kiệt tác hơn người Ottoman chúng tôi chăng? 

Giống như một ánh chớp, tôi chợt nghĩ thật thích hợp biết bao nếu hai ngày nữa tất cả các nhà tiểu họa của tôi và tôi đều bị đưa ra tra tấn; dùng mũi con dao nhím tôi cạo không thương tiếc những con mắt bên dưới bàn tay tôi trong bức tranh mở ra trước mặt. Nó nằm trong câu chuyện kể về một học giả Ba Tư, kẻ học đánh cờ chỉ bằng cách nhìn một bàn cờ do sứ thần Hindustan đưa đến, trước khi đánh bại bậc thầy Hindu ngay trong môn chơi sở trường của ông ta! Một trò láo khoét của bọn Ba Tư! Từng con mắt, tôi cạo mắt của những kẻ chơi cờ, mắt của vị vua cùng các quần thần đang ngồi xem. Lật trở lại các trang trước, tôi cũng cạo không thương tiếc con mắt của những vị vua đang quyết chiến, của binh lính mặc giáp trụ lộng lẫy thuộc những đội quân oai nghiêm và của những cái đầu bị cắt lìa nằm dưới đất. Sau khi làm như thế trong ba trang, tôi nhét con dao trở lại vào khăn quàng. 

Hai tay tôi run rẩy, nhưng tôi không cảm thấy buồn. Bây giờ có phải tôi đang cảm thấy những gì mà rất nhiều người điên đã cảm thấy sau khi thực hiện hành động kỳ lạ này mà kết quả của nó tôi vẫn gặp trong suốt năm mươi năm làm họa sĩ không? Tôi chỉ muốn thấy máu chảy ra trang sách từ những con mắt đã bị tôi cạo cho mù. 

3. Điều này mang tôi đến sự giày vò và an ủi đang chờ tôi ở cuối cuộc đời. Không có phần nào của pho sách tuyệt hảo này, cuốn sách mà vua Tahmasp đã hoàn tất bằng cách thúc ép những nghệ sĩ tài hoa nhất Ba Tư làm trong mười năm, đã nhận được nét bút của Bihzad vĩ đại, và người ta cũng không tìm thấy cách vẽ đôi tay tuyệt hảo của ông ở bất cứ chỗ nào. Sự kiện này khẳng định rằng Bihzad đã mù trong những năm cuối đời, khi ông trốn khỏi Herat - lúc đó là một thành phố thất sủng - để đến Tabriz. Vì vậy một lần nữa tôi đi đến kết luận một cách hoan hỉ rằng, sau khi ông ta đạt tới sự hoàn hảo của những bậc thầy xưa bằng cách làm việc cả đời vị thầy vĩ đại này đã tự đâm mù mắt để tránh làm ô uế hội họa của mình vì những ham muốn của bất cứ xưởng vẽ hay vị vua nào khác. 

Ngay lúc đó, Siyah và tay lùn mở một pho sách dày họ mang tới đặt trước mặt tôi. 

"Không, đây không phải là nó," tôi nói mà không bị mâu thuẫn. "Đây là cuốn Shahnameh của người Mông Cổ. Những con ngựa sắt trong đội kỵ binh sắt của Alexander được đổ đầy dầu hỏa và đốt cháy như những ngọn đèn trước khi bắn lửa từ mũi chúng sang phía kẻ thù. Chúng tôi nhìn đội quân bằng sắt bốc cháy được sao chép từ những bức tranh Trung Hoa. 

"Jezmi Agha ạ," tôi nói, "sau này chúng tôi có vẽ trong cuốn â��Biên niên sử triều vua Selim' những món quà mà các sứ thần Ba Tư của vua Tahmasp, những kẻ cũng đã tặng pho sách này, mang theo họ cách nay hai mươi lăm năm..." 

Hắn ta nhanh chóng tìm ra cuốn â��Biên niên sử triều vua Selim' và đặt trước mặt tôi. Được ghép với trang tô màu rục rỡ thể hiện cảnh các sứ thần đang dâng cuốn Shahnameh cùng những tặng phẩm khác cho vua Selim, mắt tôi tìm ra, giữa những món quà được liệt kê từng thứ một, dòng chữ tôi đã đọc được từ lâu nhưng rồi quên mất vì nó quá khó tin: 

Cây kim vàng có cán cẩn xà cừ và ngọc lam mà tài năng đáng sùng bái của Heart, bậc thầy của những nhà tiểu họa bậc thầy Bihzad, đã dùng để tự đâm mù mắt chính mình. 

Tôi hỏi tên lùn hắn tìm thấy cuốn â��Biên niên sử triều vua Selim' ở đâu. Tôi theo hắn đi qua bóng tối đầy bụi của Quốc khố, lang thang giữa những rương, những đống vải và đống thảm, những cái tủ và bên dưới các cầu thang. Tôi nhận thấy bóng của chúng tôi, lúc co lúc giãn in lên những chiếc khiên, ngà voi và da cọp. Tại một trong những căn phòng kế bên, cũng tràn ngập cái màu đỏ kỳ lạ của vải và nhung kia, bên cạnh cái rương sắt trong đó có cuốn Shahnameh, giữa những pho sách khác, những khăn trải giường thêu chỉ vàng và bạc, những viên đá Tích Lan thô chưa đánh bóng, những con dao chạm đá quý, tôi thấy một số quà tặng khác mà vua Tahmasp đã gửi: những tấm thảm lụa từ Isfahan, một bộ cờ bằng ngà voi và một vật mà lập tức khiến tôi chú ý: một hộp bút trang trí những con rồng Trung Hoa và những cành cây với một phù hiệu hoa hồng khảm xà cừ rõ ràng là từ thời Tamerlane. Tôi mở hộp và từ đó bốc ra một mùi hương tinh tế của giấy đốt và nước hoa hồng; bên trong là một cây kim vàng cán cẩn xà cừ và ngọc lam mà người ta dùng để gắn cọng lông chim vào khăn xếp đội đầu. Tôi cầm lấy cây kim và trở lại chỗ cũ giống như một bóng ma. 

Khi còn lại một mình, tôi đặt cây kim mà thầy Bihzad đã dùng để tự đâm mù mắt lên trang giấy đang mở của cuốn Shahnameh và nhìn nó chằm chằm. Không phải tôi rùng mình bởi cây kim ông dùng để đâm mù mắt, mà là bởi tôi nhìn thấy một vật ông đã cầm trong đôi tay kỳ diệu của ông. 

Tại sao vua Tahmasp gửi cây kim khủng khiếp này kèm theo quyển sách ông ta tặng cho vua Selim? Đó có phải là do vị vua này vốn khi còn bé từng là học trò của Bihzad và là nhà bảo trợ các họa sĩ khi còn trẻ, đã thay đổi khi về già, tách rời các thi sĩ và họa sĩ khỏi nhóm thân cận của ông mà hoàn toàn chìm đắm vào tín ngưỡng và thờ cúng? Đây có phải là lý do khiến ông ta sẵn lòng từ bỏ cuốn sách tuyệt mỹ này, cuốn sách mà bậc thầy vĩ đại nhất đã lao động suốt hơn mười năm? Có phải ông ta gửi cây kim này để tất cả mọi người biết rằng người họa sĩ vĩ đại đã tự làm mình mù hoặc, như có lúc người ta đồn đại, để tuyên bố rằng bất cứ ai nhìn những trang trong cuốn sách này sẽ không còn muốn thấy bất cứ gì khác trên đời này nữa? Dù trong trường hợp nào, cuốn sách này cũng không còn được nhà vua ấy coi như một kiệt tác nữa, ông ta đã hối tiếc sâu sắc, sợ rằng mình mắc phải tội phạm thượng qua tình yêu hội họa lúc còn trẻ như đã xảy ra với nhiều nhà cai trị trong thời đại xa xưa. 

Tôi nhớ lại những câu chuyện được kể qua các nhà minh họa hằn học, những kẻ đến già mới nhận ra rằng những giấc mơ của họ không thực hiện được: khi những đội quân của vua Jihan, người trị vì Garagoýunly chuẩn bị tiến vào Shiraz, Ibn Husam, Trưởng ban Minh họa huyền thoại của thành phố, đã tuyên bố "Tôi từ chối vẽ theo bất cứ cách nào khác," và cho người thợ học việc đâm mù mắt ông bằng thanh sắt nóng. Trong số những nhà tiểu họa mà đạo quân của vua Yavuz Selim mang về Istanbul sau khi đánh bại vua Ismai, chiếm giữ Tabriz và cướp bóc lâu đài Bảy tầng trời có một bậc thầy Ba Tư già, người mà theo lời đồn đã tự làm mù mình bằng thuốc độc bởi vì ông tin mình không bao giờ dám vẽ lại theo phong cách Ottoman, chứ không phải do hậu quả một cơn bệnh ông mắc phải trên đường đi như một số người khẳng định. Để làm gương cho họ, tôi thường kể cho những nhà minh họa của mình trong những lúc họ nản lòng rằng Bihzad đã tự đâm mù mắt ông như thế nào. 

Không có một giải pháp khác sao? Nếu một nhà tiểu họa bậc thầy áp dụng những phương pháp mới đâu đó ở những nơi hẻo lánh, vậy ông ta không thể, dù chỉ một chút, cứu toàn bộ xưởng vẽ và các phong cách của những bậc thầy xưa sao? 

Có một vết sẫm trên đầu cực nhọn của cây kim, nhưng đôi mắt đã mờ của tôi không thể xác định đó có phải là máu hay không. Hạ thấp kính lúp, như thể đang xem một bức vẽ tình yêu buồn bã với một cảm giác u sầu tương ứng, tôi nhìn cây kim hồi lâu. Tôi cố hình dung xem Bihzad đã làm việc đó như thế nào. Tôi có nghe nói người ta không thể bị mù ngay lập tức; bóng tối mượt mà hạ xuống từ từ, có khi phải mất nhiều ngày, có khi nhiều tháng, như với những người già mù đi một cách tự nhiên. 

Tôi nhìn thấy nó trong khi đi sang phòng kế bên; tôi đứng nhìn, phải, đó là một chiếc gương ngà voi với cán xoắn và khung bằng gỗ mun dày, dọc theo thân có trang trí chữ viết. Tôi lại ngồi xuống và nhìn vào đôi mắt mình, ánh nến nhảy nhót trong đồng tử tôi đẹp làm sao - cặp đồng tử đã chứng kiến bàn tay tôi vẽ trong sáu mươi năm. 

"Thầy Bihzad đã làm chuyện đó như thế nào?" tôi lại tự hỏi. 

Không rời mắt khỏi gương, với những động tác thành thạo của một phụ nữ đang bôi phấn lên mi mắt, tay tôi tự tìm thấy cây kim. Không do dự, như thể đang dùi lỗ vào đầu quả trứng đà điểu sắp được trang trí, tôi can đảm, bình tĩnh và kiên quyết ấn cây kim vào đồng tử mắt phải. Ruột tôi quặn lại, không phải bởi vì tôi cảm thấy việc mình đang làm, mà bởi vì tôi thấy chuyện tôi đang làm. Tôi ấn cây kim vào mắt tôi tới độ sâu bằng một phần tư ngón tay, rồi rút nó ra. 

Trong hai câu thơ được khắc trên khung gương, thi sĩ đã chúc cho người đọc luôn luôn xinh đẹp và thông thái - và chúc cuộc sống vĩnh hằng cho chiếc gương. 

Mỉm cười, tôi làm y như vậy với con mắt kia. 

Tôi ngồi im hồi lâu. Tôi nhìn thế giới - vào mọi vật. 

Như tôi ước đoán, các màu sắc của thế giới không tối đen đi, mà có vẻ như lan quyện hết sức nhẹ nhàng vào nhau, ít nhiều tôi vẫn còn nhìn thấy. 

Ánh nắng nhợt nhạt chiếu trên lớp vải đỏ sẫm của Quốc khố. Theo trình tự quen thuộc, Trưởng Ngân khố và người của ông ta bẻ lớp xi và mở khóa cửa. Jezmi Agha thay các bô, đèn và thùng sưởi, mang vào bánh mì nóng cùng dâu khô và thông báo với những người khác rằng chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm những con ngựa có cánh mũi được vẽ một cách kỳ cục trong các pho sách của Đức vua. Còn gì tuyệt vời hơn là nhìn vào những bức tranh đẹp nhất thế giới trong khi cố nhớ lại cái nhìn thế giới của Thượng đế?