Tên tôi là Đỏ - Chương 52 - Phần 2


Nhưng bây giờ mắt ông đã lộ ra sự thiếu phương hướng thường thấy ở người mù. Ông cầm chiếc kính lúp có cán nạm xà cừ vì thói quen hơn là để nhìn. Chúng tôi cùng im lặng. Sư phụ Osman yêu cầu ông lùn, người đã nghe toàn bộ câu chuyện của ông như thể nghe câu chuyện cay đắng nào đó một lần nữa xác định vị trí và mang lại cho ông một pho sách mà ông đã mô tả kỹ cái bìa. Khi ông lùn đã đi, tôi ngây thơ hỏi thầy mình: 

"Vậy ai là tác giả bức minh họa con ngựa trong cuốn sách của Enishte của con?" 

"Cả hai con ngựa ta đang bàn tới đều có cánh mũi bị rạch," ông nói, "cho dù nó được làm ở Samarkand hay, như ta nói, ở Transoxiana, con ngựa con tìm thấy trong tập tranh này được vẽ theo phong cách Trung Hoa. Còn về con ngựa đẹp trong cuốn sách của Enishte, vốn được vẽ theo phong cách Ba Tư giống những con ngựa diệu kỳ do những bậc thầy Herat vẽ. Quả thực nó là một bức minh họa rất tao nhã, khó mà tìm được một bức tương đương ở bất cứ nơi nào! Nó là con ngựa của nghệ thuật, chứ không phải một con ngựa Mông Cổ." 

Nhưng cánh mũi của nó cũng bị rạch giống như một con ngựa Mông Cổ đích thực," tôi thì thào. 

"Rõ ràng là cách nay hai trăm năm khi người Mông Cổ rút lui và bắt đầu triều đại Tamerlane và những hậu duệ của ngài, một trong những bậc thầy xưa của Herat đã vẽ một con ngựa cực đẹp mà cánh mũi bị rạch như thế - do bị ảnh hưởng của một con ngựa Mông Cổ mà ông ta đã thấy hoặc của một nhà tiểu họa khác, người đã vẽ một con ngựa Mông Cổ với cánh mũi bị rạch. Không ai biết đích xác nó được làm cho trang nào trong cuốn sách nào và dành cho vị vua nào. Nhưng ta chắc rằng cuốn sách và bức tranh đó rất được ca ngợi và ngưỡng mộ - ai mà biết được, có lẽ bởi một ái phi trong hậu cung của nhà vua - và có một thời chúng đã là huyền thoại! Ta cũng tin chắc chính vì lý do này mà tất cả những nhà tiểu họa tầm thường đã vừa tự lẩm bẩm với mình một cách đầy ghen tỵ, vừa bắt chước con ngựa này và nhân rộng hình ảnh của nó. Theo cách này, con ngựa kỳ diệu với cánh mũi của nó dần dần trở thành một khuôn mẫu ăn sâu vào đầu óc các họa sĩ trong xưởng đó. Nhiều năm sau, sau khi chủ nhân của họ bị bại trận, những họa sĩ này, giống như những phụ nữ u sầu bị chuyển đến những hậu cung khác, cũng tìm được những chủ nhân mới để làm việc ở những đất nước mới, mang theo họ hình ảnh xếp gọn trong ký ức về con ngựa mà cánh mũi bị rạch một cách khéo léo. Có lẽ do ảnh hưởng của những phong cách khác nhau và những bậc thầy khác nhau tại các xưởng làm việc khác nhau, nhiều họa sĩ đã không còn sử dụng và cuối cùng quên đi hình ảnh khác thường này, tuy nó vẫn còn được lưu giữ trong một góc ký ức họ. Tuy nhiên những họa sĩ khác, trong các xưởng vẽ mới mà họ gia nhập, không chỉ vẽ những con ngựa có cánh mũi bị rạch một cách tao nhã, mà còn dạy các thợ học việc giỏi của mình vẽ theo như thế với lời khích lệ đại loại như các bậc thầy xưa thường vẽ như vậy. Thế là theo cách này, rất lâu sau khi người Mông Cổ và những con ngựa khỏe mạnh của họ rút khỏi Ba Tư và Ẳ Rập, rồi nhiều thế kỷ sau khi cuộc sống mới đã phục hồi trong các thành phố bị tàn phá và hỏa hoạn, một số họa sĩ vẫn tiếp tục vẽ ngựa theo kiểu này, lòng đinh ninh đó là mẫu mực chuẩn. Ta cũng tin chắc rằng nhiều kẻ khác, vốn hoàn toàn không biết gì về kỵ binh Mông Cổ xâm lược và cái mũi bị rạch của những con ngựa họ cưỡi, vẫn vẽ ngựa theo cách chúng ta vẽ ở xưởng chúng ta, và nhất quyết rằng đây cũng là â��một mẫu mực chuẩn'." 

"Thưa Sư phụ yêu quý," tôi nói, đầy kính sợ, "như chúng ta đã hy vọng, â��phương pháp gái điếm' của thầy thật sự đã đưa ra một câu trả lời. Có vẻ như mỗi họa sĩ đều có chữ ký giấu kín của riêng anh ta." 

"Không phải mỗi họa sĩ, mà là mỗi xưởng vẽ," ông nói đầy tự hào. "Và thậm chí không phải mỗi xưởng vẽ nữa kia. Trong những xưởng nghèo khổ, như trong những gia đình khốn khó, mỗi người nói theo một giọng khác nhau trong suốt nhiều năm mà không hiểu được rằng hạnh phúc luôn sinh ra từ sự hòa hợp và, như một điều tất nhiên, sự hòa hợp trở thành niềm hạnh phúc. 

Một số họa sĩ cố minh họa giống như người Trung Hoa, một số khác giống người Thổ Nhĩ Kỳ, một số nữa thì giống trường phái Shiraz, họ ganh đua nhau suốt bao năm, không bao giờ đạt được một sự hợp nhất hạnh phúc - giống như một cặp vợ chồng không được thỏa mãn." 

Tôi thấy nét mặt ông lộ rõ lòng tự hào; vẻ mặt của một người vốn muốn trở nên đầy quyền thế giờ đây đã thế chỗ cho nét mặt một ông già rầu rĩ tội nghiệp mà tôi đã thấy ở ông bấy lâu nay. 

"Thưa Sư phụ yêu quý," tôi nói, "suốt hai mươi năm ở Istanbul này, thầy đã kết hợp nhiều họa sĩ khác nhau từ khắp nơi trên thế giới, những con người đủ mọi bản chất và tính khí, thành một thể hòa hợp để thầy có thể tạo ra và định dạng được phong cách Ottoman." 

Tại sao lòng kính sợ mà tôi vừa mới cảm thấy đây lại nhường chỗ cho thói đạo đức giả khi tôi nói lên những tình cảm của mình? Phải chăng, nếu muốn lời tán dương một con người - mà tài năng và sự lão luyện của người đó thực sự làm chúng ta kinh ngạc - là một lời tán dương chân thật, thì trước hết ông ta cần phải mất hầu hết quyền lực cùng ảnh hưởng của mình và trở nên đôi chút đáng thương? 

"Vậy bây giờ tên lùn đó đang nấp ở đâu?" ông hỏi. 

Ông nói điều này theo cách những kẻ có quyền lực hài lòng trước những lời tán tụng nhưng mơ hồ nhớ ra rằng họ không nên như thế - cứ như ông muốn đổi đề tài. 

"Dù là một bậc thầy vĩ đại của những truyền thuyết và phong cách Ba Tư, thầy đã tạo ra một thế giới minh họa riêng biệt xứng đáng với sức mạnh và danh tiếng của Ottoman," tôi thì thầm. "Thầy là người đã mang đến cho nghệ thuật sức mạnh của thanh gươm Ottoman, những màu sắc lạc quan của chiến thắng Ottoman, sự quan tâm và chú ý vào vật thể và công cụ, và quyền tự do hưởng một lối sống thoải mái. Thưa Sư phụ yêu quý, vinh dự lớn nhất của đời con là được nhìn những kiệt tác của những bậc thầy huyền thoại xưa này cùng với thầy..." 

Tôi thì thầm như vậy hồi lâu. Trong bóng tối giá lạnh và cảnh bừa bộn của Quốc khố giống như một bãi chiến trường hoang vắng, thân thể chúng tôi sát vào nhau đến độ tiếng thì thầm của tôi trở thành một biểu hiện của sự gần gũi. 

Lát sau, như với người mù vốn không thể kiểm soát những biểu hiện trên nét mặt, đôi mắt Sư phụ Osman mang vẻ của một ông già chìm đắm trong niềm vui. Tôi ca ngợi người thầy già này hết lời, có lúc với xúc cảm tận đáy lòng, có lúc run rẩy với nỗi khiếp sợ sâu xa mà tôi cảm thấy đối với người mù. 

Ông cầm tay tôi với những ngón tay lạnh giá, vuốt ve cánh tay tôi và sờ mặt tôi. Sức mạnh và tuổi tác của ông có vẻ truyền vào tôi qua những ngón tay ông. Tôi, một lần nữa, lại nghĩ đến Shekure đang chờ tôi ở nhà. 

Chúng tôi đứng im như vậy hồi lâu, các trang sách mở trước mặt chúng tôi như thể lời ca ngợi hào phóng của tôi và lòng tự ngưỡng mộ cùng tự thương thân của ông làm chúng tôi quá mệt mỏi đến độ đang phải nghỉ ngơi. Chúng tôi thấy ngượng với nhau. 

"Tay lùn đó đi đâu rồi?" ông lại hỏi. 

Tôi chắc rằng ông lùn xảo quyệt đó đang nấp trong hốc nào đó theo dõi chúng tôi. Cứ như đang tìm ông ta, tôi quay sang phải rồi sang trái, nhưng mắt vẫn chú ý nhìn Sư phụ Osman. Ông ta thực sụ mù hay đang cố tìm cách thuyết phục thế giới này, kể cả chính ông ta rằng ông ta đã bị mù? Tôi từng nghe nói, một số thợ cả bất tài ngày xưa ở Shiraz lúc về già đã giả bộ mù để được tôn trọng và ngăn không cho người khác đề cập đến những thất bại của họ. 

"Ta thích chết ở đây," ông nói. 

"Thưa Sư phụ yêu quý," tôi cố xoa dịu ông, "trong thời đại này khi giá trị không được đặt vào hội họa mà đặt vào tiền bạc kiếm được từ việc vẽ tranh, không đặt vào những lão sư phụ mà đặt vào những kẻ bắt chước bọn Tây vực, con hiểu rất rõ điều thầy nói đến độ con những muốn khóc. Nhưng nhiệm vụ của thầy là bảo vệ những thợ cả minh họa của thầy khỏi tay kẻ thù của họ. Làm ơn cho con biết thầy đã rút ra kết luận gì từ â��phương pháp gái điếm'? Nhà tiểu họa đã vẽ con ngựa đó là ai?" 

"Zeytin." Ông nói điều đó với một vẻ thoải mái đến độ tôi không kịp ngạc nhiên. 

Ông im lặng. 

"Nhưng ta cũng chắc chắn rằng Zeytin không phải là người giết Enishte của con hay Zarif Kính mến bất hạnh," ông nói một cách bình thản. "Ta tin rằng Zeytin đã vẽ con ngựa đó bởi vì anh ta là người gắn bó nhất với các bậc thầy xưa, người biết cặn kẽ nhất những truyền thuyết và phong cách của Herat, và quan hệ thầy trò của anh ta có gốc gác từ tận Samarkand. Bây giờ ta biết con sẽ không hỏi ta, â��Tại sao chúng ta không gặp những cánh mũi đó trong những con ngựa khác mà Zeytin đã vẽ bao năm qua?' Vì ta đã nói rằng nhiều khi có một chi tiết - đôi cánh một con chim, cách đính một chiếc lá vào thân cây - có thể được lưu giữ trong ký ức qua nhiều thế hệ, truyền từ thầy đến thợ học việc, nhưng có thể nó không hiện ra trên trang giấy do tác động của một ông thầy có tính khí thất thường hoặc cứng rắn, hoặc do những thị hiếu hay ý thích nào đó của một xưởng vẽ hoặc vị vua nào đó. Vì vậy đây là con ngựa mà Zeytin yêu quý hồi thơ ấu đã học trực tiếp từ những bậc thầy Ba Tư mà không quên được. Việc con ngựa bất ngờ xuất hiện vì cuốn sách của Enishte là một trò đùa cợt quái ác trong những trò của đấng Allah. Chẳng phải tất cả chúng ta xem những bậc thầy Herat xưa là mẫu mực của mình sao? Giống như đối với những nhà minh họa Thổ Nhĩ Kỳ, một phụ nữ đẹp có nghĩa là một phụ nữ mang những nét Trung Hoa, chẳng lẽ chúng ta không từng nghĩ về những kiệt tác Herat mỗi khi nói về những bức tranh tuyệt hảo sao? Tất cả chúng ta đều ngưỡng mộ họ hết lòng. Herat của Bihzad là nơi nuôi dưỡng cả ngành nghệ thuật này và làm chỗ dựa cho Herat này là những kỵ sĩ Mông Cổ và người Trung Hoa. Tại sao Zeytin, vốn gắn bó trọn vẹn với những truyền thuyết của Herat, lại phải giết Zarif tội nghiệp, người thậm chí gắn bó hơn - thậm chí tận tụy một cách mù quáng - với chính những phương pháp xưa đó?" 

"Vậy là ai," tôi hỏi. "Kelebek à?" 

"Leylek!" Ông nói. "Tự thâm tâm ta biết vậy, bởi ta quá quen với thói tham lam và cơn cuồng nộ của anh ta. Nghe này, rất có thể là Zarif, trong khi mạ vàng cho Enishte của con, người bắt chước một cách ngu ngốc và vụng về những phương pháp Tây vực đã dần dần tin rằng công trình này có thể ít nhiều nguy hiểm. Vì anh ta đủ ngốc để sốt sắng lắng nghe lời ngớ ngẩn của tay thuyết giáo đần độn xứ Erzurum - thật không may, những thợ cả mạ vàng, dù gần gũi Thượng đế hơn các họa sĩ, cũng đáng chán và ngu ngốc - và hơn nữa, bởi vì anh ta biết cuốn sách của Enishte khờ khạo của con là một dự án quan trọng của Đức vua, nỗi sợ hãi và nghi ngờ của anh ta xung đột nhau: Anh ta nên tin vào Đức vua hay tin tay thuyết giáo xứ Erzurum? Vào bất cứ lúc nào khác, đứa đồ đệ bất hạnh này, mà ta biết rõ như lòng bàn tay mình vậy, sẽ đến gặp ta để nói về tình trạng khó xử đang giày vò anh ta. Nhưng thậm chí anh ta, với đầu óc chim sẻ, cũng biết rất rõ rằng việc mạ vàng cho Enishte của con, vốn bắt chước bọn Tây vực rốt cuộc là sự phản bội lại ta và cả phường hội của chúng ta; thế nên anh ta tìm kiếm một người bạn tâm tình khác. Anh ta tâm sự với Leylek đầy tham vọng và xảo quyệt, và phạm sai lầm là kính sợ trí tuệ và đạo đức của một người mà tài năng gây ấn tượng cho anh ta. Ta đã nhiều lần chứng kiến Leylek thao túng Zarif bằng cách lợi dụng sự ngưỡng mộ của chàng thợ mạ vàng tội nghiệp này. Dù giữa hai đứa đã xảy ra cuộc tranh luận nào đi nữa, nó cũng đều dẫn đến việc Leylek giết Zarif Kính mến. Và vì người chết từ lâu đã thổ lộ những lo âu của anh ta với dân Erzurum cho nên họ, trong cơn sốt báo thù và để chứng minh sức mạnh của mình, đã giết Enishte của con, kẻ sùng bái phương Tây, người mà họ cho là chịu trách nhiệm về cái chết của bạn họ. Ta không thể nói là ta hết sức đau buồn trước sự vụ này. Nhiều năm trước, Enishte của con đã dụ Đức vua thuê một họa sĩ Venice - tên hắn ta là Sebastiano - vẽ một bức chân dung cho Ngài theo phong cách Tây vực như thể Ngài là vua của bọn ngoại giáo. Không hài lòng với điều đó, như muốn xúc phạm phẩm giá của ta, ông ta đã giao cho ta sao lại tác phẩm đáng hổ thẹn này; và vì quá sợ Đức vua nên ta đã sao lại bức tranh đó, vốn được vẽ theo những phương pháp của bọn ngoại giáo. Giá ta không bị buộc phải làm điều đó thì chắc ta đã có thể thương tiếc cho Enishte của con và hôm nay giúp tìm ra tên đốn mạt đã giết ông ta. Nhưng mối quan tâm của ta không phải dành cho Enishte của con, mà dành cho xưởng làm việc của ta. Enishte của con chịu trách nhiệm về chuyện những nhà tiểu họa bậc thầy - nhưng người ta yêu thương cứ như con ruột của ta, những kẻ ta đã ân cần dạy bảo suốt hai mươi lăm năm - đã phản bội ta và toàn bộ truyền thống nghệ thuật của chúng ta như thế. Ông ta chịu trách nhiệm về việc họ bắt chước nhiệt tình những bậc thầy châu Âu với cách biện minh rằng â��đó là ý của Đức vua'. Mỗi vị thầy xấu xa đó chẳng đáng được hưởng cái gì ngoài sự tra tấn! Nếu chúng ta, giới tiểu họa, biết phục vụ trước hết tài năng và nghệ thuật của chính chúng ta thay vì phục vụ Đức vua, người đem lại cho chúng ta công việc, thì chúng ta sẽ tìm được lối vào Cổng Thiên đàng. Còn bây giờ, ta muốn nghiên cứu cuốn sách này một mình." 

Sư phụ Osman nói câu cuối cùng này giống như ước muốn cuối cùng của một vương hầu mệt mỏi muộn phiền, người chịu trách nhiệm về thất bại quân sự và bị kết án chém đầu. Ông mở cuốn sách mà Jezmi Agha đã đặt trước mặt ông và bằng giọng gắt gỏng ra lệnh cho tên lùn lật ra các trang ông muốn. Với giọng kết tội này, ông lập tức trở lại thành Trưởng ban Trang trí, người mà cả xưởng vẽ đã quá ư quen thuộc. 

Tôi rút vào một góc giữa những tấm nệm thêu đính ngọc, những khẩu súng trường nòng hoen gỉ với báng súng nạm ngọc cùng những chiếc tủ, rồi bắt đầu quan sát Sư phụ Osman. Mối nghi ngờ đang gặm nhấm tôi đã lan khắp người tôi: Nếu Sư phụ Osman muốn dừng việc thực hiện cuốn sách của Đức vua lại, điều đó khiến tôi cảm nhận rõ rệt rằng có thể chính ông đã sắp đặt việc giết Zarif tội nghiệp và sau đó đến lượt Enishte của tôi - tôi tự trách mình đến bây giờ vẫn cảm thấy kính sợ như thế đối với ông ta. Mặt khác, tôi không thể ngăn được lòng kính trọng sâu sắc đối với bậc thầy vĩ đại này, người hiện đang đắm mình vào bức tranh trước mặt ông và, dẫu mù hoặc gần như mù, đang nhìn kỹ nó như thể đang nhìn bằng vô số nếp nhăn trên khuôn mặt mình. Tôi hiểu ra rằng để bảo tồn phong cách cũ và chế độ sinh hoạt cho xưởng vẽ của các nhà tiểu họa, để gỡ bản thân ông khỏi cuốn sách của Enishte và lại trở thành sủng thần duy nhất của Đức vua, ông sẽ vui lòng giao nộp bất cứ ai trong đám tiểu họa của ông, và cả tôi nữa, cho những kẻ tra tấn của Chỉ huy Ngự lâm quân. Tôi bắt đầu giận dữ nghĩ đến việc phải vượt thoát khỏi tình yêu vốn đã buộc tôi vào ông trong hai ngày qua. 

Hồi lâu sau tôi vẫn còn hết sức bối rối. Tôi tình cờ nhìn vào nhưng trang đã tô điểm của những cuốn sách mà tôi rút ra từ mấy cái tủ chỉ để xoa dịu lũ ma quỷ đang nổi dậy trong tôi và để làm xao lãng những âm hồn do dự của tôi.