Tên tôi là Đỏ - Chương 52 - Phần 3

Bao nhiêu đàn ông và phụ nữ đã đưa ngón tay vào miệng họ! Điều này được xem như một cử chỉ biểu lộ sự ngạc nhiên trong mọi xưởng vẽ từ Samarkand đến Baghdad suốt hai trăm năm nay. Khi người anh hùng Keyhusrev, bị kẻ thù dồn vào đường cùng, đã an toàn băng qua sông Oxus hung dữ với sự trợ giúp của Allah và con ngựa ô của ông, tay lái bè xấu xa cùng bọn trạo phu của hắn, kẻ đã từ chối không cho ông qua sông bằng bè của hắn, mỗi đứa trong bọn đó đều cho ngón tay vào miệng. Một ngón tay của Husrev đầy kinh ngạc vẫn còn nằm trong miệng anh ta khi anh ta lần đầu thấy vẻ đẹp của Shirin, với làn da trông giống ánh trăng khi nàng tắm trong hồ nước lung linh với lá bạc đã xỉn màu. Tôi thậm chí dành nhiều thời gian hơn để nghiên cứu cẩn thận những phi tần tuyệt đẹp trong hậu cung, những người, với ngón tay đút miệng, đứng đằng sau những cánh cửa lâu đài hé mở, sau cánh cửa sổ không thể nào với tới trên những ngọn tháp và nhìn ra từ phía sau những bức màn. Khi Tejav, bị quân đội Ba Tư đánh bại và mất ngai vàng, đang trốn khỏi chiến trường, Espinuy, một trong những mỹ nhân và là một ái phi trong hậu cung của ông, đã đau buồn và choáng váng từ một cửa sổ lâu đài nhìn theo ông, ngón tay đút trong miệng, đôi mắt như van xin ông đừng bỏ nàng lại cho kẻ thù. Khi Yusuf, bị bắt do lời cáo gian của Zuleyha rằng ông đã cưỡng hiếp nàng, bị đưa đến xà lim, nàng ta nhìn qua cửa sổ, một ngón tay đút vào cái miệng xinh đẹp của nàng thể hiện sự độc ác và dục vọng hơn là bối rối. Khi những tình nhân đầy hạnh phúc nhưng u buồn, xuất hiện cứ như từ một bài thơ tình, bị cuốn đi dưới sức mạnh của nỗi đam mê và mỹ tửu trong một khu vườn gợi đến cảnh Thiên đàng, một cô tớ gái ác tâm theo dõi họ cũng với một ngón tay thèm khát trong cái miệng đỏ au. 

Dẫu nó là hình ảnh tiêu chuẩn được ghi vào sổ tay và ký ức của các nhà tiểu họa, ngón tay thon dài đưa vào miệng một phụ nữ xinh đẹp của mỗi thời đều có một vẻ tao nhã khác nhau. 

Những bức minh họa đã an ủi tôi được bao nhiêu? Khi trời sụp tối, tôi đến chỗ Sư phụ Osman mà nói: 

"Thầy yêu quý, khi nào cổng mở lại, nếu thầy cho phép, con sẽ rời khỏi Quốc khố này." 

"Con muốn thế à!" ông nói. "Chúng ta vẫn còn một đêm và một buổi sáng. Con đã xem thỏa thuê những bức minh họa vĩ đại nhất mà thế giới này từng biết đến nhanh như thế sao!" 

Khi nói điều này, ông không quay khỏi trang giấy trước mặt ông, nhưng hai đồng tử mờ đục của ông khẳng định ông thực sự đang dần dần mù đi. 

"Chúng ta đã biết bí mật về cánh mũi của con ngựa," tôi tự tin nói. 

"Ha!" ông nói. "Phải! Phần còn lại tùy quyết định của Đức vua và Trưởng Ngân khố. Có lẽ họ sẽ tha cho tất cả chúng ta." 

Ông đã chỉ đích danh Leylek là kẻ giết người sao? Tôi thậm chí không dám hỏi vì sợ, vì tôi lo ông sẽ không cho phép tôi ra về. Thậm chí tệ hại hơn, tôi cứ nghĩ rằng ông có thể buộc tội cả tôi. 

"Cái kim cài lông chim mà Bihzad dùng để tự đâm mù mình đã đâu mất rồi," ông nói. 

"Rất có thể ông lùn đã trả nó về chỗ cũ, tôi nói. "Trang trước mặt thầy lộng lẫy quá." 

Mặt ông sáng ngời như mặt đứa bé, và ông mỉm cười. "Husrev, cháy bỏng yêu đương, khi chàng ngồi trên ngựa chờ Shirin trước lâu đài của nàng lúc nửa đêm," ông nói. "Được vẽ theo phong cách của những bậc thầy Herat xưa." 

Giờ ông đang nhìn bức tranh như thể ông thấy được nó, nhưng thậm chí ông không cầm kính lúp lên. 

"Con có thấy vẻ tráng lệ của những chiếc lá trên cây trong đêm tối, hiện ra từng chiếc một cứ như tỏa sáng từ bên trong giống các vì sao hoặc những đóa hoa xuân, đường nét trang hoàng trên tường gợi lên sự kiên nhẫn nhún nhường, vẻ tao nhã trong cách sử dụng miếng vàng lá và sự cân bằng tinh tế trong toàn bộ bố cục của bức tranh không? Con ngựa của Husrev tuấn tú cũng duyên dáng và tao nhã như một phụ nữ. Shirin yêu dấu của chàng đang chờ ở cửa sổ phía trên. Cổ nàng cúi xuống, nhưng mặt nàng đầy tự hào. Như thể đôi tình nhân đó vẫn còn ở đây mãi mãi trong ánh sáng phát ra từ kết cấu của bức tranh, làn da và những màu sắc tinh tế vốn được nhà tiểu họa tô lên một cách khéo léo. Con có thể thấy khuôn mặt của họ hơi hướng vào nhau trong khi thân mình của họ hơi ngả về phía chúng ta - vì họ biết họ đang ở trong một bức tranh và vì thế chúng ta thấy được họ. Đây là lý do tại sao họ không giống những nhân vật mà chúng ta thấy quanh ta. Hoàn toàn ngược lại, họ hàm ý rằng họ hiện lên từ ký ức của đấng Allah. Điều này lý giải vì sao thời gian đã ngừng trôi đối với họ trong bức tranh đó. Cho dù nhịp điệu câu chuyện họ kể trong bức tranh nhanh đến thế nào đi nữa, bản thân họ sẽ vẫn mãi mãi ở đó, giống như những thiếu nữ e thẹn, lễ phép và có giáo dục, không làm bất cứ cử chỉ đường đột nào với bàn tay, cánh tay, thân thể hoặc thậm chí đôi mắt họ. Đối với họ, mọi thứ trong màn đêm màu xanh nước biển này đã đông cứng: Con chim bay trong bóng tối giữa những vì sao, với một cái vẫy cánh giống như trái tim đang đập của chính đôi tình nhân này, và đồng thời vẫn được cố định vĩnh viễn như thể bị đóng chặt vào bầu trời trong phút giây vô song này. Các bậc thầy Herat xưa, những người biết rằng màn đen như nhung của Thượng đế đang trùm xuống mắt họ như một bức màn, cũng biết rằng nếu họ bị mù trong khi nhìn chằm chằm bất động vào một bức minh họa như thế trong nhiều ngày nhiều tuần liên tục, thì linh hồn họ cuối cùng sẽ hòa vào sự vĩnh cửu của bức tranh." 

Vào giờ cầu kinh tối, khi cổng Quốc khố được mở ra với cùng trình tự đó và dưới cái nhìn cũng của đám người đó, Sư phụ Osman vẫn nhìn chăm chú vào trang giấy trước mặt ông, vào con chim đang bay bất động trên bầu trời. Nhưng nếu bạn nhận ra vẻ mờ đục trên đồng tử của ông, bạn cũng sẽ thấy rằng ông nhìn vào trang giấy một cách kỳ lạ, như người mù đôi khi định hướng không chính xác thức ăn trước mặt họ. 

Các quan trông coi Quốc khố biết rằng Sư phụ Osman sẽ ở lại trong đây và biết Jezmi Agha vẫn ở ngay nơi cửa, nên đã quên lục soát tôi kỹ lưỡng và không tìm thấy cây kim tôi giấu trong lớp áo lót. Khi từ sân lâu đài bước ra đường phố Istanbul tôi rẽ vào một hẻm nhỏ và lấy vật khủng khiếp đó ra, vật mà Bihzad huyền thoại đã dùng để tự đâm mù mắt mình, nhét nó vào khăn quàng. 

Tôi gần như chạy qua các phố. 

Cái lạnh trong các phòng Quốc khố đã ngấm quá nhiều vào xương tủy tôi đến độ tôi tưởng như thời tiết dễ chịu của mùa xuân sớm đã về trên khắp đường phố. Khi tôi đi ngang qua tiệm tạp hóa, tiệm cắt tóc, tiệm dược thảo, cửa hàng rau và trái cây và hàng bán củi của khu chợ Quán trọ cũ, từng gian hàng đang lần lượt đóng cửa nghỉ, tôi bước chậm lại và cẩn thận xem xét những thùng rượu, vải trải giường, những củ cà rốt, những chiếc bình trong cửa hàng ấm áp thắp đèn dầu. 

Con phố của Enishte của tôi (tôi vẫn chưa quen gọi nó là "con phố của Shekure" chứ đừng nói là "con phố của tôi") có vẻ thậm chí lạ lẫm và xa xôi hơn sau hai ngày tôi vắng mặt. Nhưng niềm vui của việc được gặp lại và nói chuyện với Shekure của tôi, và ý nghĩ rằng tôi có thể chui vào giường của người yêu tôi tối nay - vì tên giết người gần như đã bị bắt - khiến tôi cảm thấy gần gũi với cả thế giới này đến độ, khi thấy cây lựu và những tấm rèm đã được sửa lại và đóng kín, tôi phải kìm mình để đừng la to lên giống một nông dân hò hét với ai đó bên kia dòng suối. Khi gặp Shekure, tôi muốn lời đầu tiên thốt ra từ miệng tôi là, "Bọn anh đã biết tên giết người đê tiện đó là ai rồi!" Tôi mở cổng sân. Tôi không chắc có phải qua tiếng cọt kẹt của cánh cổng, vẻ vô tư lự của con chim sẻ đang giải khát ở cái xô đựng nước giếng, hay vẻ tối đen của ngôi nhà, mà với linh cảm như chó sói của một người từng sống cô độc suốt mười hai năm, tôi lập tức hiểu rằng không có ai trong nhà. Ngay cả khi cay đắng nhận ra rằng mình đã bị bỏ mặc, người đó vẫn sẽ mở và đóng tất cả các cửa, các tủ, thậm chí còn giở nắp các xoong nồi, và tôi đã làm như thế. Thậm chí tôi còn nhìn vào trong những cái rương. 

Trong cảnh im lặng này, âm thanh duy nhất tôi nghe là tiếng đập thình thịch của trái tim tôi. Giống như một lão già đã làm mọi việc cần làm, tôi cảm thấy được an ủi khi bất ngờ đeo vào người thanh gươm mà tôi luôn giấu dưới đáy cái rương kín đáo nhất. Đây là thanh gươm có chuôi bằng ngà, nó luôn tạo cho tôi cảm giác bình yên và cân bằng trong suốt những năm tôi làm việc với giấy bút. Sách vở, mà chúng ta lầm tưởng là nguồn an ủi, chỉ làm tăng thêm nỗi u sầu của chúng ta thôi. 

Tôi xuống sân. Con chim sẻ đã bay mất. Như thể rời bỏ một con tàu đang chìm, tôi rời căn nhà trong cái lặng im của đêm đen sắp đến. 

Con tim tôi, giờ tự tin hơn, bảo tôi hãy chạy đi tìm họ. Tôi chạy, nhưng tôi chậm lại ở những nơi đông đúc và các sân thánh đường nơi lũ chó đánh hơi được dấu vết tôi và sung sướng chạy theo, cứ như chúng tiên đoán được một trò vui nào đó.