Tên tôi là Đỏ - Chương 57 - Phần 2

 

"Các anh đã lục đi soát lại mà không tìm được kho báu cất giấu của tôi," tôi nói. 

Theo thói quen, tôi dùng mu bàn tay như một cây chổi quét lớp tro tại chỗ từng là lò sưởi và, khi một miệng lò cũ hiện ra, tôi giở nắp sắt của nó lên gây ra tiếng cọt kẹt. Tôi giơ đèn đến bên miệng lò. Tôi sẽ không bao giờ quên cái kiểu Leylek nhảy xổ tới háo hức chộp lấy mấy cái túi da bên trong trước khi Siyah kịp ra tay. Anh ta sắp mở mấy cái túi đó ngay bên miệng lò, nhưng vì tôi đã quay trở ra phòng khách lớn, theo sau là Siyah vì anh ta sợ phải ở lại đó, nên Leylek phóng cặp chân dài theo sau chúng tôi. 

Khi họ thấy một chiếc túi đựng đôi vớ len sạch, chiếc quần dải rút, áo lót màu đỏ của tôi, những chiếc áo lót đẹp nhất, áo sơ mi lụa, dao cạo, lược và những vật dụng hàng ngày khác của tôi, họ thoáng bối rối. Còn cái túi kia mà Siyah mở ra thì có năm mươi ba đồng tiền vàng Venice, những miếng vàng lá tôi đánh cắp ở xưởng trong mấy năm gần đây, cuốn sổ ghi chép những mẫu vẽ mà tôi giấu không cho ai biết, thêm mấy miếng vàng lá đánh cắp nữa giấu trong sổ, những bức tranh bậy bạ - một số tự tay tôi vẽ và một số tôi sưu tầm, một chiếc vòng mã não kỷ niệm của mẹ tôi cùng một lọn tóc bạc của bà, và những cây bút cùng cọ tốt nhất của tôi. 

"Nếu thực sự tôi là tên sát nhân nhu các anh nghi ngờ," tôi nói với vẻ tự hào ngu ngốc, thì bức tranh cuối cùng hẳn phải nằm trong kho tàng bí mật đó của tôi, chứ không phải những thứ này." 

"Tại sao những thứ này ở đây?" Leylek hỏi. 

"Khi Ngự lâm quân lục soát nhà tôi, như họ đã lục soát nhà các anh, họ đã trắng trợn tịch thu hai trong số những đồng vàng mà tôi đã dành cả đời để sưu tầm. Tôi nghĩ chúng ta có thể bị lục soát lần nữa vì tên giết người đê tiện này - và tôi đã đúng. Nếu tôi có giữ bức tranh cuối cùng đó thì nó phải ở đây." 

Đúng là sai lầm khi thốt ra câu cuối cùng này; tuy nhiên, tôi có cảm giác rằng họ cảm thấy nhẹ nhõm và không còn sợ rằng tôi sẽ bóp cổ họ trong góc tối căn nhà nữa. Tôi cũng giành được sự tin cậy của các vị chứ? 

Tuy nhiên, vào lúc này lòng tôi tràn ngập một cảm giác bất ổn nghiêm trọng; không, đó không phải là chuyện những đồng nghiệp minh họa của tôi, những người tôi biết rõ từ hồi nhỏ, đã biết việc tôi tham lam dành dụm tiền bạc trong nhiều năm, tôi mua và để dành vàng, hay thậm chí chuyện họ biết về những sổ ghi chép và những bức tranh tục tĩu của tôi. Thực ra thì, tôi hối tiếc vì đã cho họ xem tất cả những thứ này trong phút giây hoảng sợ. Chỉ những điều bí ẩn của một người sống hoàn toàn vô mục đích mới có thể bị phơi bày một cách dễ dàng như thế. 

"Tuy nhiên," một hồi lâu sau Siyah nói, "chúng ta phải thống nhất xem mình sẽ nói những gì khi bị tra tấn nếu Sư phụ Osman bất ngờ giao nộp chúng ta mà không cảnh báo trước." 

Một nỗi se thắt và buồn phiền ập xuống chúng tôi. Trong ánh đèn mờ nhạt, Leylek và Kelebek đang nhìn chăm chú những bức tranh thô tục trong sổ ghi chép của tôi. Họ biểu lộ vẻ hoàn toàn thờ ơ, thực tế, thậm chí họ hạnh phúc theo một kiểu đáng sợ nào đó. Tôi cảm thấy một thôi thúc mạnh mẽ phải nhìn lại bức tranh - tôi có thể đoán ra đó là bức nào; tôi đứng dậy đi vòng ra sau lưng họ, nhìn vào bức tranh tục tĩu mình đã vẽ, rùng mình cứ như tôi đang nhớ lại được một ký ức hạnh phúc những giờ đã xa xôi. Siyah đến bên chúng tôi. Vì lý do nào đó, việc cả bốn chúng tôi cùng nhìn bức minh họa đó làm nhẹ lòng tôi. 

"Có thể nào người mù và người sáng là như nhau không?" Cuối cùng Leylek nói. Có phải anh ta ngụ ý rằng cho dù hình ảnh chúng tôi thấy là tục tĩu, nhưng lạc thú của sự nhìn thấy mà Allah ban cho chúng tôi vẫn là vinh quang không? Không, Leylek mà biết gì về những vấn đề như thế? Anh ta chưa từng đọc kinh Koran. Tôi biết rằng những bậc thầy Herat xưa thường xuyên đọc to câu thơ này. Những bậc thầy vĩ đại đã dùng câu thơ này làm câu trả lời cho những kẻ thù của hội họa, những kẻ đã cảnh báo rằng đạo giáo của chúng ta cấm chỉ việc vẽ tranh và các họa sĩ sẽ bị đày xuống Hỏa ngục vào Ngày phán xét. Tuy nhiên, cho đến phút giây ma quái ấy, tôi chưa từng một lần được nghe từ Kelebek những lời này mà hiện có vẻ tự ý chúng thoát ra khỏi miệng anh ta. 

"Tôi muốn miêu tả người mù và người sáng không giống nhau như thế nào!" 

"Ai là người mù và ai là người sáng?" Siyah hỏi ngây thơ. 

"Người mù và người sáng không như nhau, đó là nghĩa của câu â��ve ma yestevil'ama ve'l basiru'nun' ". Kelebek nói và tiếp tục: 

"...mà cũng không là bóng tối và ánh sáng. 

Cái bóng và sức nóng không như nhau, 

Cả người chết và người sống cũng không như nhau." 

Tôi rùng mình trong chốc lát, nghĩ về số phận của Zarif Kính mến, Enishte và người kể chuyện anh em vừa bị giết tối nay. Liệu mấy đứa kia có sợ như tôi không? Chẳng ai động đậy một hồi lâu. 

Leylek vẫn để mở cuốn sách của tôi, nhưng có vẻ không thấy hình ảnh thô bỉ tôi vẽ dù rằng tất cả chúng tôi đều nhìn vào nó! 

"Tôi muốn vẽ Ngày phán xét", Leylek nói. "Cuộc phục sinh của người chết, và sự chia tách kẻ có tội ra khỏi kẻ vô tội. Tại sao chúng ta không thể vẽ Lời thiêng của đạo giáo chúng ta?" 

Hồi chúng tôi còn trẻ, làm việc với nhau trong cùng một căn phòng của xưởng vẽ, chúng tôi thỉnh thoảng cũng ngước mặt khỏi bàn làm việc, như những bậc thầy già thường làm để cho mắt nghỉ ngơi, và bắt đầu nói về bất cứ đề tài nào nảy ra trong đầu. Hồi đó, giống như bây giờ chúng tôi đang làm khi nhìn vào cuốn sách mở ra trước mặt, chúng tôi không nhìn nhau khi tán gẫu. Vì mắt của chúng tôi thường hướng đến một điểm xa xôi nào đó bên ngoài cửa sổ mở. Tôi không chắc có phải là do sự kích động khi nhớ lại một điều gì đó đẹp đẽ khó quên từ thời học việc thanh bình của tôi, do sự hối tiếc thật lòng mà tôi cảm thấy vào giây phút đó bởi vì đã bao lâu nay tôi không đọc kinh Koran, hay do nỗi sợ hãi trước tội ác mà tôi chứng kiến tại quán cà phê tối đó, nhưng khi đến lượt tôi nói, tôi bất chợt bối rối, tim tôi đập liên hồi như thể tôi đang gặp mối đe dọa hiểm nguy nào đó, và vì không nghĩ ra điều gì khác, tôi chỉ nói như sau: 

"Các anh có nhớ những bài thơ ở cuối chương Al-Baqara 1 không? Tôi muốn vẽ chúng nhất: Ôi Thượng đế, xin đừng phán xét chúng con qua những gì chúng con quên và qua lỗi lầm của chúng con. Ôi Thượng đế, xin đừng đặt lên vai chúng con gánh nặng mà chúng con không mang nổi như đã làm với những người đi trước chúng con. Hãy tha thứ và xóa tội cho chúng con về những vi phạm và tội lỗi của chúng con! Hãy cư xử với chúng con với lòng nhân từ, ôi Thượng đế kính yêu." Giọng tôi vỡ vụn và tôi bối rối vì những giọt nước mắt bất ngờ của mình - có lẽ bởi vì tôi thận trọng với lời mỉa mai mà chúng tôi luôn dành sẵn hồi còn học việc để tự bảo vệ và tránh phơi bày cảm xúc." 

Tôi nghĩ những giọt nước mắt của tôi sẽ nhanh chóng cạn đi, nhưng không kìm mình được, tôi bắt đầu khóc như mưa gió. Trong khi khóc, tôi có cảm giác rằng từng người trong số họ đều chìm trong những cảm xúc về tình anh em, sự hủy diệt và nỗi buồn. Từ giờ trở đi, phong cách châu Âu sẽ chiếm ưu thế trong xưởng của Đức vua; những pho sách và phong cách mà chúng tôi đã dành cho cả cuộc đời sẽ dần dần bị quên lãng - phải, quả thực, toàn bộ dự án liều lĩnh này sẽ đến hồi kết thúc. Và nếu người Erzurum không bóp cổ và kết liễu chúng tôi thì những kẻ tra tấn của Đức vua sẽ làm chúng tôi tàn tật... Nhưng trong khi tôi khóc, nức nở và thở vắn than dài - cho dù tôi vẫn lắng nghe tiếng mưa rơi lộp độp buồn não nuột - một phần tâm trí tôi ý thức rõ rằng những thứ này không phải là thứ tôi đang khóc than. Mấy đứa kia ý thức điều này tới mức độ nào? Tôi cảm thấy hơi có lỗi về những giọt nước mắt của mình, chúng vừa thực lòng, vừa giả dối. 

Kelebek đến bên tôi, đặt cánh tay lên vai tôi, vuốt tóc tôi, hôn má tôi và nói những lời ngọt ngào an ủi tôi. Sự thể hiện tình bạn này càng khiến tôi khóc với vẻ thật tình và hối lỗi hơn. Tôi không thấy được khuôn mặt anh ta, nhưng, vì lý do nào đó, tôi đã nghĩ một cách sai lầm rằng anh ta cũng đang khóc. Chúng tôi ngồi xuống. Chúng tôi nhắc lại chuyện cả bọn bắt đầu thời kỳ học việc cùng một năm, nỗi buồn kỳ lạ của việc bị tách khỏi mẹ và bất ngờ bắt đầu một cuộc sống mới, cơn đau của những trận đòn chúng tôi hứng chịu trong những ngày đầu, niềm vui từ những món quà đầu tiên của Trưởng Ngân khố, và những ngày chúng tôi được về nhà, chạy suốt con đường. Thoạt đầu chỉ có anh ta nói trong khi tôi lắng nghe một cách rầu rĩ, nhưng về sau, khi Leylek, và đôi khi sau đó nữa, Siyah - người đến xưởng một thời gian rồi bỏ đi, trong những năm đầu học việc của bọn tôi - tham gia cuộc chuyện trò ảm đạm của chúng tôi, tôi quên rằng mình vừa mới khóc, và bắt đầu nói cười thoải mái với họ. 

Chúng tôi hồi tưởng lại những sáng mùa đông chúng tôi dậy sớm, nhóm bếp lò trong căn phòng lớn nhất của xưởng và lau sàn nhà bằng nước nóng. Chúng tôi nhớ lại một "thợ cả" già, cầu cho ông được yên nghỉ, một người tẻ ngắt và cẩn thận đến độ ông ta có thể suốt một ngày chỉ vẽ độc một chiếc lá của một cái cây và khi thấy chúng tôi nhìn những chiếc lá xanh tươi mơn mởn của cây cối mùa xuân qua khung cửa sổ mở thay vì nhìn vào chiếc lá ông ta vẽ, ông không đánh đòn chúng tôi, mà thường quát tháo chúng tôi đến cả trăm lần. "Không phải ngoài đó, trong này này!" Chúng tôi nhắc lại tiếng kêu khóc mà cả xưởng đều nghe thấy của cậu thợ học việc gầy nhẳng đang đi ra cửa, túi xách trong tay, bị đuổi về nhà bởi vì cường độ công việc khiến một con mắt cậu ta bị lác. Kế đến, chúng tôi tưởng tượng cách chúng tôi nhìn (với niềm vui sướng bởi đó không phải là lỗi lầm của chúng tôi) mực đỏ tươi từ một lọ mực bằng đồng bị nứt rỉ ra dần dần lên trang giấy mà ba nhà minh họa đã phải làm suốt ba tháng ròng (nó vẽ quân Ottoman hai bên bờ sông Kinik trên đường tiến về Shirvan, thoát được mối nguy chết đói bằng việc chiếm Eresh và lấp đầy bao tử họ). Trong một thái độ tôn trọng và tao nhã, chúng tôi nói về chuyện cả ba chúng tôi cùng yêu và cùng nhau làm tình với một quý cô Circasia, người đẹp nhất trong các bà vợ của một quan chức bảy mươi tuổi, ông ta muốn trần nhà mình được trang trí phỏng theo nhũng mẫu vẽ trong hành cung săn bắn của Đức vua sao cho xứng với những cuộc chinh phục, sức mạnh và tài sản của ông ta. Sau đó, chúng tôi háo hức nhắc lại những sáng mùa đông chúng tôi ăn món xúp đậu lăng ngay ngưỡng cửa mở toang để hơi nóng của nó không làm mềm giấy. Chúng tôi cũng than thở việc bị tách khỏi bạn bè và thầy dạy trong xưởng khi các thầy buộc chúng tôi đi đến những nơi xa xôi để làm thuê sau khi đã biết nghề. Có lúc, vẻ hòa nhã của Kelebek thân mến khi anh mới mười sáu tuổi bỗng hiện ra trước mắt tôi: Anh ấy đánh bóng giấy đến độ láng mướt bằng cách dùng miếng vỏ sò láng chà thật nhanh trong khi ánh nắng một ngày hè xuyên qua khung cửa sổ mở chiếu vào cánh tay trần màu mật ong của anh. Trong một chốc anh ngừng công việc đang làm một cách chăm chú và cẩn thận để cúi xuống trang giấy xem xét một chỗ bị hỏng. Sau khi dùng vỏ sò chà vài nhát trên chỗ bị hư bằng những động tác khác, anh ta trở lại động tác cũ, đưa tay tới lui trong khi nhìn ra xa xa bên ngoài cửa sổ, chìm trong mơ mộng. Tôi không bao giờ quên rằng trước khi nhìn ra ngoài lần nữa, anh nhìn thoáng vào mắt tôi - như sau này tôi làm với những người khác. Cái nhìn bi thương này chỉ có một ý nghĩa, mà mọi thợ học việc đều biết rõ: Thời gian không trôi nếu các vị không mơ mộng.


--------------------------------
1Al-Baqara: Con Bò.