Tên tôi là Đỏ - Chương 58 - Phần 4

 

"Trong những đêm tôi ở đây chăm chú nhìn bức tranh này dưới ánh đèn dầu, lần đầu tiên tôi cảm thấy Thượng đế đã từ bỏ tôi và chỉ có Satan làm bạn với tôi trong nỗi cô đơn này," tôi nói. "Tôi biết rằng cho dù tôi thực sự là trung tâm của thế giới - và mỗi lần tôi nhìn vào bức tranh thì đấy chính là điều tôi mong muốn - bất chấp vẻ rực rỡ của màu đỏ vốn thống trị bức tranh, bất chấp việc đứng giữa những thứ tôi yêu quý này, kể cả những người bạn khổ tu và người phụ nữ giống như Shekure xinh đẹp. tôi vẫn cô đơn. Tôi không sợ việc có tính cách và cá tính, mà cũng không sợ rằng những người khác cúi đầu và thờ phụng tôi; ngược lại, đấy là điều tôi ao ước." 

"Ý anh muốn nói rằng anh không hề cảm thấy hối hận?" Leylek nói giống như một người vừa rời khỏi buổi thuyết giáo ngày thứ Sáu. 

"Tôi cảm thấy giống Quỷ sứ không phải bởi vì tôi đã giết hai người, mà bởi vì chân dung của tôi đã được vẽ theo kiểu này. Tôi nghi ngờ rằng tôi giết họ để tôi có thể vẽ bức tranh này. Nhưng bây giờ sự cô đơn tôi cảm thấy khiến tôi kinh hoàng. Việc bắt chước các bậc thầy Tây vực mà không đạt tới sự sắc sảo của họ khiến một nhà tiểu họa trở thành tệ hơn một tên nô lệ. Hiện tôi hết sức muốn thoát ra khỏi cái bẫy này. Dĩ nhiên, tất cả các anh đều biết: Sau khi đã nói và làm mọi chuyện cần thiết, tôi đã giết cả hai để xưởng vẽ có thể tồn tại như xưa nay, và đấng Allah chắc chắn cũng biết điều này." 

"Nhưng điều này thậm chí sẽ mang rắc rối nhiều hơn cho chúng ta," Kelebek thân yêu nói. 

Tôi bất ngờ chộp lấy cổ tay của Siyah ngốc nghếch vốn vẫn đang nhìn bức tranh, và vận hết sức bình sinh bấu chặt vào da thịt anh ta, tôi siết chặt và xoắn cánh tay anh ta một cách giận dữ. Con dao anh ta cầm một cách hờ hững rớt xuống. Tôi chộp lấy. 

"Bây giờ các anh không thể giải quyết những rắc rối của các anh bằng cách giao tôi cho kẻ tra tấn," tôi nói. Làm như chọc vào mắt anh ta, tôi đưa mũi dao lên mặt Siyah. "Đưa cây kim cho tôi." 

Anh ta lấy nó ra và trao cho tôi bằng tay kia, và tôi ghim nó vào khăn quàng. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt như cừu non của anh ta. 

"Tôi thương hại cho Shekure xinh đẹp vì nàng không có chọn lựa nào khác trừ việc cưới anh" tôi nói. "Nếu tôi không buộc phải giết Zarif Kính mến để cứu tất cả các anh khỏi bị hủy hoại thì nàng hẳn đã cưới tôi và hạnh phúc. Thực sự thì tôi là người hiểu đầy đủ nhất những câu chuyện và tài năng của người Âu khi cha nàng kể về họ cho chúng ta nghe. Vì vậy, hãy lắng nghe cho kỹ lần cuối những gì tôi nói với anh: Không còn bất cứ chỗ nào nữa ở Istanbul này cho những nhà tiểu họa bậc thầy chúng ta, những người chỉ mong được sống bằng khả năng và danh dự. Phải, đây là những gì tôi nhận ra. Nếu chúng ta bị dồn đến mức phải bắt chước những bậc thầy Tây vực như Enishte quá cố và Đức vua mong ước, chúng ta sẽ bị kiềm chế, nếu không bởi người Erzurum và những kẻ như Zarif Kính mến thì cũng bởi sự hèn nhát chính đáng trong chúng ta, và chúng ta sẽ không thể tiếp tục tồn tại. Nếu chúng ta chịu sự chi phối của Quỷ sứ và tiếp tục phản bội tất cả những gì đã có trước đây trong một cố gắng vô ích hòng đạt được một phong cách và tính cách châu âu, chúng ta vẫn sẽ thất bại - giống như tôi đã thất bại trong việc tự vẽ chân dung mình bất chấp mọi kiến thúc và sự lão luyện của tôi. Bức tranh sơ đẳng mà tôi đã vẽ này, mà thậm chí hao hao giống tôi cũng không đạt được, đã cho tôi thấy những gì chúng ta đã biết từ lâu mà không dám thừa nhận: Phải mất vài thế kỷ mới mong đạt được sự lão luyện của người Tây vực. Nếu cuốn sách của Enishte Kính mến hoàn tất và gửi cho họ, những bậc thầy Venice sẽ cười chúng ta và cái cười chế giễu của họ sẽ tới tai viên pháp quan Venice - chỉ có thế. Họ sẽ châm biếm rằng người Ottoman đã thôi không làm người Ottoman nữa và sẽ không còn sợ chúng ta. Sẽ tuyệt diệu làm sao nếu chúng ta cứ quyết tâm theo con đường của những bậc thầy xưa! Nhưng không một ai muốn điều này, kể cả Đức vua, cả Siyah Kính mến - người đau khổ bởi vì anh ta không có chân dung của Shekure yêu quý. Trong trường hợp đó, các bạn hãy ngồi xuống và chẳng làm gì khác ngoại trừ bắt chước người Âu hết thế kỷ này sang thế kỷ nọ! Hãy tự hào ký tên bạn lên những bức tranh bắt chước của bạn. Những bậc thầy Herat xưa đã cố vẽ thế giới theo cách Thượng đế nhìn nó, và để che giấu tính cách của mình, họ không bao giờ ký tên. Tuy nhiên, các anh thì buộc phải ký tên mình để che giấu việc thiếu vắng tính cách. Nhưng có một giải pháp khác. Mỗi người các anh có lẽ đã được mời gọi, và nếu có chuyện đó, các anh đã giấu không cho tôi biết: Akbar, vua xứ Hindustan, đang vung vãi tiền bạc và những lời tâng bốc, cố tập hợp những họa sĩ tài năng nhất thế giới về triều đình ông ta. Rõ ràng là cuốn sách được hoàn tất cho năm thứ một ngàn lịch Hồi giáo sẽ không được thực hiện ở Istanbul này, mà trong xưởng làm việc ở Agra." 

"Một họa sĩ trước tiên phải trở thành một tên sát nhân để được lên cao và mạnh mẽ như anh sao?" Leylek hỏi. 

"Không, là kẻ giỏi giang nhất và tài hoa nhất là đủ," tôi nói một cách khinh thường. 

Một con gà kiêu hãnh gáy hai tiếng ở xa xa. Tôi gom túi đồ và những đồng tiền vàng của tôi, cuốn sổ ghi chép những mẫu vẽ, và đút những tranh minh họa của tôi vào cặp. Tôi nghĩ xem mình có thể giết từng đứa trong bọn chúng như thế nào bằng con dao găm, mà mũi của nó tôi đang dí vào cổ họng Siyah, nhưng tôi chẳng cảm thấy gì ngoài lòng yêu mến đối với những người bạn từ hồi nhỏ - kể cả Leylek, người đã đâm cây kim nhọn vào mắt tôi. Tôi hét vào mặt Kelebek lúc này đã đứng dậy, vì thế khiến anh ta phải ngồi xuống lại. Bây giờ, tin rằng tôi có thể thoát khỏi ngôi nhà này một cách an toàn, tôi bước vội về phía cửa, và tại ngưỡng cửa, tôi vội vã thốt ra những lời quan trọng mà tôi đã nghĩ ra trước đó: 

"Việc tôi bỏ chạy khỏi Istanbul sẽ giống cuộc bỏ trốn của Ibn Shakir khỏi Baghdad dưới sự chiếm đóng của người Mông Cổ." 

"Trong trường hợp đó anh phải đi về phía Tây thay vì phía Đông," Leylek đố kỵ nói. 

"Cả Đông lẫn Tây đều thuộc về Thượng đế!" tôi nói bằng tiếng Ẳ Rập giống như Enishte quá cố.

"Nhưng Đông là đông và Tây là tây," Siyah nói 1

"Một nghệ sĩ không bao giờ đầu hàng bất cứ kẻ ngạo mạn nào," Kelebek nói, "anh ta phải vẽ theo cách anh ta thấy phù hợp hơn là lo lắng về Đông hay Tây." 

"Quá đúng." tôi nói với Kelebek. "Xin hãy nhận cái hôn của tôi." Tôi đi chưa được hai bước về phía anh ta thì Siyah chộp tôi lại. Một tay tôi cầm chiếc túi đựng quần áo và những đồng tiền vàng của tôi, kẹp dưới nách tay kia là cái cặp đựng các bức tranh. Mải lo bảo vệ tài sản nên tôi không bảo vệ được mình. Tôi không thể ngăn không cho anh ta chộp cánh tay đang cầm dao. Nhưng may mắn không đứng về phía anh ta, anh ta vấp phải chiếc bàn làm việc thấp và mất thăng bằng. Thay vì chộp được cánh tay tôi, anh ta chỉ níu vào nó. Dùng hết sức lực đá anh ta và cắn ngón tay anh ta, tôi thoát được. Anh ta rú lên, sợ mình mất mạng. Rồi tôi giẫm lên bàn tay nó, khiến anh ta đau đớn tột độ. Vung con dao trước mặt hai người kia, tôi la to: 

"Đứng im!" 

Họ ngồi im tại chỗ. Tôi thọc mũi dao găm vào mũi Siyah, theo cách mà Keykavus đã làm trong truyền thuyết. Khi nó bắt đầu chảy máu, những giọt nước mắt cay đắng bắt đầu chảy từ đôi mắt van nài của anh ta. 

"Bây giờ, hãy nói cho tôi biết," tôi nói, "tôi có bị mù không?" 

"Theo truyền thuyết, máu đóng thành cục trong mắt một số người, song ở một số người khác thì không. Nếu đấng Allah hài lòng với nghệ thuật của anh, Người sẽ ban màn đêm lộng lẫy của Người cho anh và chăm sóc anh. Trong trường hợp đó anh sẽ không nhìn thấy thế giới khốn khổ này, song sẽ thấy những khung cảnh tuyệt đẹp mà Người thấy. Nếu Người không hài lòng, anh sẽ tiếp tục thấy thế giới theo cách anh hiện thấy." 

"Tôi sẽ thực hành nghệ thuật đích thực ở Hindustan" tôi nói. "Tôi chưa vẽ được bức tranh để Allah dựa vào đó mà phán xét tôi." 

"Đừng nuôi ảo tưởng rằng anh có thể thoát khỏi những phương pháp của người Tây vực," Siyah nói. "Anh có biết rằng Akbar Đại hãn đã khuyến khích tất cả họa sĩ của ông ta ký tên vào tác phẩm của họ không? Những thầy tu Dòng Tên ở Bồ Đào Nha từ lâu đã giới thiệu hội họa và những phương pháp của châu Âu ở đó. Hiện giờ chúng có mặt khắp nơi." 

"Luôn luôn có công việc cho người nghệ sĩ nào muốn giữ lại sự thanh khiết, luôn có nơi để trú chân," tôi nói. 

"Phải," Leylek nói, "bị mù và trốn tới những quốc gia không tồn tại." 

"Tại sao anh muốn giữ nguyên sự thanh khiết?" Siyah hỏi. "Hãy ở lại đây với chúng tôi." 

"Với phần đời còn lại các anh sẽ chẳng làm gì ngoài việc thi đua với người Tây vực để tìm kiếm phong cách cá nhân," tôi nói. "Nhưng chính vì các anh ganh đua với người Tây vực, các anh sẽ không đạt được phong cách cá nhân." 

"Chúng ta còn biết làm việc gì khác đâu", Siyah nói một cách nhục nhã. 

Dĩ nhiên, không phải nghệ thuật mà chính Shekure xinh đẹp là nguồn hạnh phúc duy nhất của anh ta. Tôi chuyển con dao găm vấy máu khỏi chiếc mũi đang chảy máu của Siyah và đưa nó lên đầu anh ta như lưỡi gươm một đao phủ đang chuẩn bị xử trảm người bị kết án. 

"Nếu tôi muốn, tôi có thể cắt đầu anh ngay tức khắc", tôi nói, thông báo một điều đã quá rõ. "Nhưng tôi sẵn sàng tha cho anh vì con của Shekure và hạnh phúc của nàng. Hãy tử tế với nàng và đừng cư xử tàn nhẫn và bừa bãi với nàng. Hứa với tôi đi" 

"Tôi hứa," anh ta nói. 

"Tôi ban Shekure cho anh," tôi nói. 

Nhưng cánh tay tôi hành động theo ý nó, không chú ý đến lời tôi. Tôi đâm con dao xuống bằng tất cả sức lực vào Siyah. 

Ngay phút cuối, vừa bởi Siyah đã né, vừa bởi tôi đổi hướng cú đâm, con dao trúng vào vai chứ không ngay cổ anh ta. Tôi hốt hoảng nhìn hành động này hoàn toàn do cánh tay tôi thực hiện. 

Khi tôi rút con dao ra, vốn đã cắm lút cán vào người Siyah, chỗ đó loang ra một màu đỏ thuần khiết. Việc tôi đã làm khiến tôi vừa sợ hãi vừa xấu hổ. Nhưng nếu tôi mù đi lúc ở trên tàu, có lẽ khi qua vùng biển Ẳ Rập, tôi biết rằng mình không thể trả thù bất cứ người anh em tiểu họa nào của tôi. 

Leylek, do sợ rằng sẽ đến lượt anh ta, và sợ thế là có lý, đã chạy trốn vào những căn phòng tối bên trong. Giơ cao ngọn đèn, tôi đuổi theo anh ta, nhưng liền thấy sợ hãi và quay trở lại. Hành động cuối cùng của tôi là hôn Kelebek và nói lời giã biệt với anh ta. Vì mùi máu đã xen giữa chúng tôi, tôi không thể hôn anh ta cho thỏa. Nhưng anh ta đã nhận thấy mắt tôi đẫm lệ. 

Tôi rời ngôi nhà trong sự im lặng chết chóc bị ngắt quãng bởi tiếng rên rỉ của Siyah. Gần như chạy, tôi băng qua khu vườn ẩm ướt và lầy lội rồi qua khu xóm tối đen. Con tàu đưa tôi đến xưởng làm việc của Akbar Đại hãn sẽ khởi hành sau giờ cầu kinh sáng; vào giờ đó con thuyền chèo cuối cùng sẽ rời bến cảng Galleon để ra con tàu đó. Trong khi tôi chạy, nước mắt tôi chảy dài. 

Khi băng qua Aksaray giống như một tên trộm, tôi có thể lờ mờ nhìn thấy ánh bình minh ở chân trời. Đối diện vòi nước đầu tiên trong khu xóm mà tôi gặp, giữa những con phố nhìn những đường hẻm hẹp và các bức tường là ngôi nhà đá mà tôi đã trú ngụ trong đêm đầu tiên đến Istanbul cách nay hai mươi lăm năm. Ở đó, bên trong cổng sân mở rộng, một lần nữa tôi thấy cái giếng mà tôi từng muốn nhảy xuống lúc nửa đênh do bị giày vò bởi tội lỗi vì đã mười một tuổi mà còn đái dầm ra tấm nệm được một người bà con xa trải ra cho tôi để thể hiện lòng hiếu khách tử tế và hào phóng. Lúc tôi đến được Bayazid, cửa hàng của tay thợ sửa đồng hồ (nơi tôi thường đến để sửa chiếc đồng hồ hư của tôi) cửa hàng bán chai lọ (nơi tôi đến mua những chiếc đèn pha lê rỗng, những tách đựng nước mang về trang trí và những chai nhỏ đem về vẽ những thiết kế hoa cỏ rồi bí mật bán cho bọn giàu có) và những nhà tắm công cộng (nơi một thời bàn chân tôi thường đến theo thói quen vì nó vừa rẻ tiền vừa vắng vẻ), tất cả đứng nghiêm kính cẩn trước mặt tôi và đôi mắt đầy lệ của tôi. 

Chẳng có ai quanh quán cà phê bị thiêu rụi và phá tan hoang này, cũng chẳng có ai ở nhà Shekure xinh đẹp và người chồng mới của nàng, người lúc này đây có lẽ đang hấp hối. Tôi chẳng cầu mong gì cho họ ngoài hạnh phúc. Khi lang thang khắp các ngả đường trong những ngày sau khi tôi để tay mình vấy máu, mọi con chó, những bóng cây, những cửa sổ che kín rèm, những ống khói đen ngòm, những bóng ma và những kẻ dậy sớm làm lụng vất vả và bất hạnh của Istanbul vội đến thánh đường để cầu kinh sớm luôn luôn nhìn tôi với sự oán thù; nhưng từ giây phút tôi thú nhận những tội ác của mình và quyết định rời bỏ thành phố duy nhất tôi từng biết này, tất cả lại nhìn tôi với vẻ thân thiện. 

Sau khi băng qua Thánh đường Bayazid, tôi nhìn xuống cửa sông Halic từ một mũi đất: Chân trời đang sáng dần lên, nhưng mặt nước vẫn đen ngòm. Nhấp nhô giữa những con sóng vô hình, hai chiếc xuồng đánh cá, những con tàu hàng buồm cuộn lại và một con thuyền bỏ không cứ nài nỉ tôi đừng nên bỏ đi. Có phải những giọt lệ từ mắt tôi chảy xuống là do cây kim gây ra không? Tôi tự nhủ hãy mơ về cuộc sống huy hoàng mà tôi sẽ có ở Hindustan nhờ những tác phẩm tráng lệ mà tài năng của tôi sẽ tạo ra ở đó! 

Tôi rời con đường, chạy qua hai khu vườn lầy lội và ẩn vào một ngôi nhà đá giữa đám cây xanh. Đây là ngôi nhà tôi đã đến mỗi thứ Ba khi còn là thợ học việc để gặp Thầy Osman và đi theo sau thầy hai bước mang túi, cặp, hộp viết và bàn viết của ông trên đường đến xưởng làm việc của chúng tôi. Nơi đây không có gì thay đổi trừ những cây tiêu huyền trong sân và dọc đường đã quá lớn, đến độ một vẻ hùng vĩ, mạnh mẽ và thịnh vượng gợi nhớ thời vua Suleyman đã phủ trên ngôi nhà và con đường. 

Vì con đường dẫn đến cảng đã gần, tôi ngả theo sự cám dỗ của Quỷ sứ, và thuận theo nỗi xao xuyến muốn nhìn lại những cổng vòm của xưởng vẽ nơi tôi đã sống qua một phần tư thế kỷ. Bởi thế nên tôi mới đi theo con đường ngày xưa mình đã đi khi còn là thợ học việc, theo sau Thầy Osman: dọc phố Okçu đầy mùi hoa chanh choáng ngợp vào mùa xuân, đi qua tiệm bánh nơi thầy tôi sẽ mua những chiếc bánh nhân thịt tròn, đi ngược con dốc đầy bọn ăn mày và cây mộc qua cùng cây dẻ, đi qua những rèm cửa đóng kín của ngôi chợ mới và bác thợ cạo mà thầy tôi chào mỗi sáng, dọc theo cánh đồng trống nơi những nghệ sĩ xiếc nhào lộn sẽ dựng lều vào mùa hè và biểu diễn, phía trước những ngôi nhà trọ bốc mùi hôi thối dành cho dân độc thân, bên dưới những cổng vòm Byzantine đầy mùi ẩm mốc, trước mặt lâu đài của vua Ibrahim và cây cột có dạng ba con rắn cuộn quanh trục đứng mà tôi đã vẽ hàng trăm lần, đi qua cây tiêu huyền mà chúng tôi đã vẽ mỗi lần một cách khác nhau, giờ hiện ra trong Hippodrome và dưới cây dẻ cùng cây dâu tằm nơi bọn sẻ và ác là sà xuống hót líu lo như điên vào buổi sáng. 

Cánh cửa nặng nề của xưởng làm việc đóng kín. Chẳng có ai ngay lối vào hay bên dưới hàng hiên có mà vòng cung bên trên. Tôi chỉ mới nhìn thoáng lên những cửa sổ nhỏ đóng kín mà từ đó khi còn là những thợ học việc ngột ngạt vì buồn chán, chúng tôi thường ngắm nhìn cây cối thì có người quát lên với tôi. 

Hắn ta có giọng the thé chói tai. Hắn nói rằng con dao găm có cán nạm ngọc dính máu trong tay tôi là của hắn và rằng cháu trai hắn, Shevket, và Shekure đã cùng nhau ăn cắp từ nhà hắn. 

Đây là chứng cứ rõ ràng cho thấy tôi là người của Siyah, những kẻ đã đột kích nhà hắn đêm qua để bắt cóc Shekure. Người đàn ông ngạo mạn, giọng nói the thé và giận dữ này cũng biết mặt những người bạn họa sĩ của Siyah và biết họ sẽ quay lại xưởng làm việc. Hắn vung một thanh gươm dài lung linh một màu đỏ kỳ lạ và cho thấy rằng hắn có một số ân oán mà, vì lý do nào đó, hắn có ý định giải quyết với tôi. Tôi định nói với hắn rằng có một sự hiểu lầm nào đó, nhưng rối tôi thấy vẻ giận dữ kỳ quái trên khuôn mặt hắn. Tôi có thể thấy rõ qua vẻ mặt hắn rằng hắn sắp sửa tấn công tôi quyết liệt. Tôi muốn nói biết bao câu, "Tôi van anh, hãy dừng lại." Nhưng hắn đã ra tay. 

Tôi thậm chí không kịp giơ dao lên, tôi chỉ giơ tay cầm túi xách lên. 

Túi xách rớt xuống. Bằng một động tác nhẹ nhàng, không giảm tốc độ, lưỡi gươm thoạt tiên cắt lìa bàn tay tôi sau đó lướt đến cổ tôi, tiện đứt đầu tôi. 

Tôi biết mình đã bị chặt đứt đầu qua hai bước chân kỳ quặc của cái thân tội nghiệp của tôi, bỏ tôi lại phía sau trong cơn bối rối, qua động tác vung vẩy con dao một cách ngốc nghếch và qua cách thân xác lẻ loi của tôi đổ sụm xuống, máu phun ra từ cổ như một vòi nước. Hai bàn chân tội nghiệp của tôi, vốn vẫn tiếp tục di chuyển như thể đang đi, giãy giụa một cách vô ích như chân của một con ngựa đang giãy chết. 

Từ mặt đất lầy lội nơi cái đầu tôi rơi xuống, tôi không thể thấy tên sát nhân mà cũng không thấy túi xách của tôi đựng đầy những đồng tiền vàng và tranh vẽ, mà tôi vẫn muốn ôm thật chặt. Những thứ này ở đằng sau tôi, về hướng ngọn đồi dẫn xuống biển và cảng Galleon mà tôi sẽ không bao giờ đến được. Đầu tôi sẽ không bao giờ còn ngoảnh lại và thấy được chúng hay phần còn lại của thế giới này. Tôi đã quên chúng và để cho ý nghĩ của tôi mang tôi đi xa. 

Đây là những gì hiện đến với tôi ngay trước khi tôi bị chém đứt đầu: Con tàu sẽ nhổ neo rời cảng; hình ảnh này trong ý nghĩ của tôi được nối liền với mệnh lệnh bảo tôi nhanh chân lên; đó là cách mẹ tôi thường kêu "nhanh lên" khi tôi còn nhỏ. Mẹ ơi, cổ con đau quá và tất cả vẫn im lạng. 

Đây là điều mà người ta gọi là cái chết. 

Nhưng tôi biết tôi chưa chết. Đồng tử bị đâm thủng của tôi bất động, nhưng tôi vẫn có thể thấy rất rõ qua đôi mắt mở to. 

Những gì tôi thấy ở tầm sát đất đầy trong suy nghĩ của tôi: Con đường hơi dốc lên, bức tường, cổng vòm, mái nhà của xưởng vẽ, bầu trời... bức tranh lùi xa dần theo kiểu đó. 

Có vẻ như phút giây quan sát này cứ tiếp tục và tôi hiểu ra việc nhìn đã trở thành một dạng ký ức. Tôi nhớ lại những gì tôi nghĩ khi nhìn hàng giờ liền vào một bức tranh đẹp: Nếu các vị nhìn đủ lâu, tâm trí các vị sẽ bước vào thời đại của bức họa. 

Mọi thời điểm giờ đã trở thành thời điểm này. 

Có vẻ như không ai thấy được tôi, khi ý nghĩ của tôi mờ nhạt dần, cái đầu lấm bùn của tôi sẽ tiếp tục nhìn vào con dốc u buồn này, bức tường đá và những cây dâu, cây dẻ gần kế bên nhưng dẫu có nhiều năm sau nữa cũng không thể nào tới được. 

Sự chờ đợi vô tận này bất ngờ có những mức độ tẻ nhạt và cay đắng, tôi chẳng muốn gì hơn là rời bỏ thời điểm này.

--------------------------------

1 Câu trước, "Đông và Tây đều thuộc về Allah" là trong kinh Koran chương Al-Baqara (Con bò). Câu sau "Đông là đông và Tây là tây" là câu thơ nổi tiếng của Rudyard Kipling (1865-1936) trong bài "The Ballad of East and West." được tác giả gắn vào miệng một nhân vật ở thế kỷ 16.