Bảy năm sau - Phần 01 Chương 13-15

13

Tòa nhà của trường St. Jean Baptiste trông như một ngôi đền Hy Lạp.

Theo phong cách đối xứng, mặt tiền bằng đá cẩm thạch màu xám được trang trí những hình khối tam giác trên tường đầu hồi và những chiếc cột Doric được chạm khắc tinh tế.

Scientia potestas est[1]: được khắc sâu vào mặt đá, khẩu hiệu của trường kiêu hãnh tỏa ra hai phía trên chiếc cầu thang đồ sộ khiến ngôi trường trung học này mang dáng dấp một nơi tôn nghiêm. Vẻ lạnh lẽo toát ra từ mặt đá được giảm bớt nhờ tiếng chim hót và những tia nắng lấp lóa qua tán lá màu vàng cam. Khoác lên mình vẻ sang trọng, nơi này toát lên vẻ yên bình, văn hóa và tri thức. Khó có thể tin rằng ta đang ở giữa lòng Manhattan, chỉ cách những trò vui ồn ào và dân dã của quảng trường Thời đại có vài khối nhà.

[1]. “Biết là có thể”

Tuy nhiên, trong thoáng chốc, vẻ tĩnh lặng như chốn tu hành này đã bị xáo trộng. Một nữ sinh đặt bước chân đầu tiên xuống bậc thềm. Rồi, theo từng nhóm nhỏ, đám nữ sinh tản mát khắp vỉa hè.

Tiếng cười và tiếng la hét loang ra. Bất chấp bộ đồng phục nữ sinh cùng chiếc cổ áo cánh sen, những cuộc chuyện trò của họ vẫn hướng vể những chủ để chẳng được cao sang như thế: chuyện về lũ con trai, chuyện đi chơi, mua sắm, chế độ ăn uống, Twitter hay Facebook.

Tựa vào yên xe, Nikki nheo mắt, cố gắng nhận ra bóng dáng Camille giữa những toán nữ sinh này. Dù cô không muốn, vài mẩu chuyện vẫn dập vào tai cô. Vài cảm nhận thoáng qua về một thế hệ không còn là thế hệ của cô nữa. “Tớ phê lòi mắt cậu ấy, Stephen ấy!”, “Tớ in love vãi ra rồi!”, “Khiếp cái bà ấy quá, bà dạy môn xã hội ấy”, “Nẫu mề”, “Tớ đang tức lộn ruột đây”…

Cuối cùng thì cô cũng thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy con gái.

- Mẹ đang làm gì ở đây vậy? Camille ngạc nhiên hỏi mẹ. Con thấy mẹ đã nhắn tin cho con.

- Không có nhiều thời gian giải thích cho con đâu, con yêu. Mấy ngày nay con không nhận được tin tức gì về Jeremy sao?

- Không ạ, cô bé khẳng định.

Nikki nói cho con bé biết vụ mất tích của anh trai, nhưng để không làm con gái hoảng sợ, cô không kể vụ phá hoại nhà cô cũng như việc phát hiện ra ma túy.

- Trong lúc chờ cho chuyện này qua đi, bố muốn con đến nhà bà nội ở vài ngày.

- Nhưng không được! Con phải làm mấy bài kiểm tra trong tuần này! Với lại con đã nhận lời đi chơi cùng các bạn rồi.

Nikki cố tỏ ra thuyết phục.

- Con nghe này, Camille. Mẹ sẽ không ở đây nếu mẹ không nghĩ con đang gặp nguy hiểm.

- Nhưng nguy hiểm gì chứ? Anh con dạt nhà, thế thì sao chứ? Đây có phải lần đầu đâu.

Nikki nhìn đồng hồ thở dài. Chưa đầy nửa tiếng nữa sẽ có một chuyến tàu đến Đông Hampton, nhưng từ giờ đến năm rưỡi chiều thì đây là chuyến cuối cùng.

- Đội cái này vào! Cô vừa ra lệnh vừa chìa chiếc mũ bảo hiểm cho con gái.

- Nhưng...

- Không nhưng nhị gì hết. Mẹ là mẹ của con. Nếu mẹ bảo con làm gì, thì con cứ làm đi, thế thôi! Và không được cãi.

- Y hệt giọng bố! Camille cự nự khi ngồi lên yên sau chiếc mô tô.

- Và đừng xúc phạm mẹ, xin con đấy!

Nikki cưỡi lên xe rồi rời khỏi Thượng Đông Manhattan. Cô lái xe đi dọc Lexington, lao qua những pháo đài bằng kính và bê tông, phóng nhanh hết sức nhưng vẫn tập trung vào việc lái xe.

Nhất là không được để xảy ra tai nạn. Không phải bây giờ.

Do vụ ly hôn, từ trước đến nay mối quan hệ của cô và Camille vẫn luôn xa cách. Cô rất yêu con gái, nhưng lại không có cơ hội thiết lập với con bé mối đồng cảm thật sự. Lỗi đương nhiên là do những điều kiện chia rẽ phi lý mà Sebastian đã áp đặt. Nhưng cũng còn do một rào cản âm ỉ hơn. Bản tính trung thực buộc cô phải thừa nhận rằng thực ra cô luôn tự ti khi đối diện với con gái. Camille là một cô bé xuất sắc, đam mê văn hóa cổ điển. Còn rất nhỏ tuổi mà cô bé đã đọc hàng trăm cuốn sách, xem hầu hết các bộ phim kinh điển. Về khía cạnh này, Sebastian đã dạy dỗ con bé không chê vào đâu được. Nhờ anh, con bé được phát triển trong một môi trường ưu việt. Anh dẫn nó đi xem kịch, nghe hòa nhạc, xem triển lãm...

Camille là một cô gái ngoan, đúng hơn là một cô gái khiêm nhường và không kiêu ngạo, nhưng Nikki thường cảm thấy mình bị qua mặt mỗi khi, ở đoạn rẽ một cuộc chuyện trò, cô mạo hiểm tiến vào lãnh địa của vốn văn hóa “bác học”. Một người mẹ tụt hậu. Một người mẹ thấp kém. Mỗi lần nghĩ tới điều đó, nước mắt cô lại chực trào ra, nhưng cô luôn cố gắng giữ cho nỗi buồn ấy ở xa mình.

Chạy nhanh hết tốc lực, cô băng qua Grand Central, liếc nhìn kính chiếu hậu rồi lách qua dòng xe vượt lên một chiếc xe cứu hỏa.

Cám dỗ, tốc độ, cảm giác choáng ngợp. Cô yêu thành phố này bao nhiêu thì cũng căm ghét nó bấy nhiêu. Sự đông đúc và chuyển động bất tận của thành phố bóp nghẹt cô và khiến cô choáng váng.

Nhỏ bé, kẹt giữa những bức tường thẳng đứng và những con đường chia ô bàn cờ, chiếc mô tô vẫn đang lao nhanh.

Còi hụ ầm ĩ, bầu không khí ô nhiễm lơ lửng, đám taxi kích động, tiếng còi xe, tiếng la hét.

Nikki về số, làm một vòng cua rộng để rẽ vào phố 39, rồi hòa mình vào dòng người trên đại lộ Thời trang. Các hình ảnh cứ nối tiếp nhau hiện ra trước mặt cô: đám đông chen chúc, mặt đường rải nhựa rạn nứt, những chiếc xe chở đầy hàng của mấy người bán xúc xích, ánh kim loại phản chiếu loang loáng từ các cao ốc, vài cặp đùi thon thả được in khổ lớn dán trên mặt tiền một tòa nhà.

Vừa đến Pennsylvania Plaza, cô đỗ được chiếc mô tô kẹp giữa hai chiếc ô tô.

New York là địa ngục đối với xe hai bánh: đường sá đã bị cày nát và lại còn không được đỗ xe bừa bãi.

- Hết tiền, xuống xe thôi!

Camille nhảy lên vỉa hè và giúp cô khóa chiếc BMW lại.

2 giờ 24 chiều.

Tàu sẽ khởi hành trong mười phút nữa.

- Khẩn trương lên con yêu.

Hai mẹ con băng qua phố giữa dòng xe cộ để vào tòa nhà thô kệch nơi có ga Penn.

Cứ nhìn vào những bức ảnh lịch sử dán trong sảnh lớn thì thấy nhà ga có mật độ hành khách đông nhất nước Mỹ này thuở xưa sở hữu một tòa nhà đồ sộ được trang trí với những cột đá hoa cương màu hồng. Được lắp một ô kính ghép màu lớn, phòng đợi dành cho hành khách mang dáng dấp một giáo đường với máng nước, cửa kính ghép màu và tượng cẩm thạch. Nhưng thời vàng son ấy đã qua lâu lắm rồi. Dưới sức ép của các nhà cải cách và ngành công nghiệp giải trí, người ta đã phá bỏ tòa nhà cũ từ đầu những năm 1960 để xây dựng tại đó một tổ hợp vô hồn toàn văn phòng, khách sạn và sân khấu.

Nikki và Camille chen lấn mở đường dẫn vào phòng vé.

- Làm ơn cho một vé đi Đông Hampton.

Nhân viên bán vé, một phụ nữ dáng vẻ ục ịch, rề rà điền thêm thông tin vào vé. Nhà ga náo nhiệt. Là điểm trung chuyển quan trọng trên hành trình từ Washington tới Boston, ga Penn cũng có nhiều tàu tới New Jersey và Long Island.

- 24 đô la. Tàu sẽ khởi hành trong sáu phút nữa.

Nikki cầm tiền thừa rồi nắm tay Camille kéo con gái chạy xuống lòng đất, nơi bắt đầu các tuyến đường sắt.

Trên cầu thang, dòng người xô đẩy nhau. Cảnh hỗn tạp đến ngột ngạt. Tiếng trẻ con la hét. Người người chen vai thích cánh. Đầu gối đụng đâu cũng thấy va li. Mùi mồ hôi.

- Đường tàu số 12, đằng kia!

Nikki kéo tay con gái. Cả hai chạy ngược lên chỗ đoàn tàu tương ứng.

“Khởi hành trong ba phút nữa”, nhân viên soát vé thông báo.

- Con gọi điện cho bố mẹ ngay khi tới nơi nhé, được không?

Camille gật đầu đồng ý.

Khi nghiêng người hôn tạm biệt con gái, Nikki nhận thấy vẻ bối rối của cô bé.

- Con giấu mẹ chuyện gì, đúng không?

Vừa không vui vì bị bắt lỗi vừa thấy nhẹ nhõm vì đã trút được một gánh nặng, rốt cuộc Camille cũng thổ lộ:

- Đó là về chuyện Jeremy. Anh ấy đã bắt con hứa không được nói với mẹ, nhưng...

- Con mới gặp nó phải không? Nikki đoán.

- Vâng. Anh ấy đến tìm con hôm thứ Bảy, giữa trưa, sau buổi học tennis của con.

Thứ Bảy, cách đây ba ngày...

- Có vẻ anh ấy rất lo lắng, Camille nói tiếp. Rất vội vã nữa. Anh ấy gặp rắc rối, rõ ràng là thế.

- Nó có giải thích với con mấy chuyện đó không?

- Anh ấy chỉ bảo với con là anh ấy cần tiền.

- Con có đưa cho nó không?

- Vì con không mang theo nhiều tiền nên anh ấy đi cùng con về nhà.

- Bố con không có nhà sao?

- Không, hôm đó bố ăn trưa ngoài hàng với cô Natalia.

Tàu chuẩn bị đóng cửa. Những hành khách cuối cùng đang chạy lên các toa. Bị mẹ thúc ép, Camille nói tiếp:

- Con đã đưa Jeremy 200 đô con cất trong phòng, nhưng vì chỗ đó chưa đủ cho anh ấy, nên anh ấy muốn con mở két của bố.

- Con biết mã à?

- Dễ mà: là ngày sinh của bọn con!

Hồi còi gióng lên báo hiệu giờ khởi hành đã đến.

- Có 5000 đô tiền mặt, cô bé nói tiếp trong lúc nhảy lên tàu. Jeremy đã hứa với con sẽ trả lại trước khi bố phát hiện ra.

Vẫn còn đứng trên bến, mặt Nikki tái nhợt đi khiến Camille lo lắng.

- Mẹ nghĩ đã có chuyện xảy ra với anh ấy sao, mẹ?

Cánh cửa tàu đóng sập lại sau câu hỏi của cô bé.

14

Thời tiết trở nên u ám. Đột ngột.

Chỉ trong vài phút, bầu trời đen kịt như bị xát cả mỏ chì lên đó và những đám mây xám xịt chồng chất lên nhau, bịt kín cả chân trời.

Trên đường cao tốc Brooklyn-Queens, dòng xe nối đuôi nhau chạy san sát. Đang trên đường đi tới địa chỉ mà Santos nói, Sebastian nhẩm tính trong đầu những điều anh sẽ tiết lộ với FBI và những điều anh muốn giữ lại. Lựa chọn thật khó khăn. Từ khi ngồi vào trong ô tô, anh cố gắng hoàn thành bức tranh ghép mà anh còn thiếu quá nhiều mảnh ghép nhưng công cốc. Như một nỗi đau nhói lòng, một câu hỏi ám ảnh cứ giày vò anh: tại sao Jeremy lại giấu một kilôgram cocain trong phòng riêng? Với câu hỏi này, anh chỉ có một đáp án: vì thằng bé đã lấy trộm nó. Chắc chắn là từ ông chủ quán bar đó, quán Boomerang. Rồi, bị ngợp trước hành động của mình và do hoảng loạn, chắc chắn thằng bé đã dạt nhà để trốn chạy bọn buôn lậu.

Nhưng sao thằng bé lại có thể rơi vào cơn ác mộng này? Con trai anh đâu phải thằng ngốc. Mấy vụ rắc rối với pháp luật gần đây của nó chỉ liên quan tới chuyện ăn cắp vặt và trò hư hỏng vô hại. Chẳng có dấu hiệu nào dù xa hay gần liên đới tới trọng án cả.

Đột nhiên, giao thông trở nên thông thoáng. Đường cao tốc đi vào một đoạn hầm dài rồi lại nhô lên mặt đất ở cuối bờ kè sông Đông.

Điện thoại của Sebastian rung lên trong túi. Là Joseph.

- Tôi rất tiếc, viên quản lý xưởng giải thích, nhưng chúng ta đã mất hợp đồng. Bên Furstenberg sẽ giám định chiếc Bergonzi.

Sebastian chấp nhận lời phán quyết mà không hề nhíu mày. Lúc này, dường như toàn bộ chuyện ấy với anh chẳng có nghĩa lý gì. Anh tranh thủ lúc đang nói chuyện điện thoại với Joseph bỗng đột ngột hỏi ông:

- Anh nghĩ một kilôgam cocain thì giá bao nhiêu?

- Gì cơ? Cậu đùa đấy à? Có chuyện gì xảy ra với cậu vậy?

- Chuyện dài lắm. Tôi sẽ giải thích với anh sau. Thế bao nhiêu?

- Tôi hoàn toàn mù tịt về chuyện này, Joseph thú thật. Tôi thì tôi thà uống whisky hai mươi năm tuổi...

- Tôi không có thời gian đùa bỡn đâu, Joseph.

- Ok... Chuyện đó còn phụ thuộc vào chất lượng, nguồn gốc...

- Chuyện đó thì tự tôi cũng có thể đoán ra. Anh có thể tìm kiếm thử trên mạng được không?

- Chờ nhé, tôi đang kết nối Google. Được rồi đấy. Tôi phải gõ gì bây giờ?

- Anh tự nghĩ đi, nhưng mà nhanh lên đấy.

Điện thoại áp chặt vào tai, Sebastian đang đi vào khu vực có công trường xây dựng. Được phân công điều tiết giao thông, có một cậu công nhân ra hiệu yêu cầu anh rẽ sang hướng khác. Cú rẽ đột ngột khiến anh đi chệch về phía Nam nơi một đám ách tắc nữa chặn hẳn đoạn đường dẫn ra đường gom.

- Tôi tìm thấy một bài báo có thể giúp cậu, lát sau Josep nói tiếp. Nghe nhé: “Chín mươi kilogram cocain, trị giá khoảng 5,2 triệu đô la, vừa được thu giữ tại một bãi đỗ xe thuộc WashingtonHeights.”

Sebastian lao vào tính theo quy tắc tam suất:

- Nếu chín mươn kilogram trị giá 5,2 triệu đô la, thì một kilôgram bằng...

- ... gần 60.000 đô la, Joseph nói nốt câu. Bây giờ, cậu có thể giải thích cho...

- Để sau đã, Joseph. Tôi ngắt máy đây. Cảm ơn anh.

Một tia hy vọng sáng lên trong mắt Sebastian. Anh nảy ra một kế hoạch. Khoản tiền này đúng là rất lớn, nhưng không đến nỗi quá lớn. Dù sao anh cũng có thể nhanh chóng xoay xở được ngần ấy tiền mặt. Anh định sẽ tiến hành như sau: anh sẽ tới quán bar đó, Boomerang, và đề nghị tên Drake Decker kia một phi vụ “mà hắn không thể chối từ”: anh sẽ bồi hoàn cho hắn toàn bộ giá trị chỗ ma túy cộng thêm 40.000 đô la tiền hoa hồng đề bù lại chuyện xáo trộn cũng như lời hứa sẽ quên đi sự tồn tại của Jeremy.

“Tiền là sức mạnh duy nhất mà người ta không bao giờ phải bàn cãi”, câu nói này thường xuyên được nhắc lại trong gia đình anh. Một câu nói mà ông nội anh hẳn đã trích ra từ một cuốn sách nào đó đã trở thành một dạng châm ngôn, phương châm gia đình, là kim chỉ nam đã định hướng lối sống cho nhà Larabee từ bao thập kỷ nay. Suốt một thời gian dài, Sebastian khinh bỉ lối suy nghĩ này, nhưng lúc này, đến lượt anh, chính anh lại vận dụng nó. Giờ đây, anh tràn trề niềm tin vào tương lai. Mọi thứ đều sẽ được sắp xếp đâu vào đấy. Anh sẽ trả tiền cho tên thủ lĩnh để đẩy lùi mối nguy đe dọa gia đình anh. Một khi mối nguy đã bị xóa bỏ, anh sẽ đi tìm con tria rồi sẽ giành lại việc dạy dỗ và các mối quan hệ của thằng bé. Vẫn chưa phải là quá muộn. Suy cho cùng, thời kỳ này có lẽ lại hữu ích.

Vậy đấy. Anh đã quyết định. Không được lãng phí một phút giây nào nữa.

Anh đến trước ngã tư hai tầng dẫn lên đoạn dốc cầu Manhattan, nhưng thay vì đi lên cầu, anh quay xe trở lại Brooklyn.

Anh nhằm thẳng hướng quán Boomerang.

15

- Cuốn xéo cái xe của mày đi, đồ con lợn!

Tiếng chửi rủa đập vào tai Sebastian khi anh đi ngang qua một nhóm người vô gia cư đang lục lọi mấy thùng rác của quán Pizza Hut trên đường Frederick. Miệng tu lon bia giấu trong một túi giấy, họ đánh dấu lãnh thổ của mình bằng cách chửi rủa những người qua đường và những người lái xa đang nhìn họ chằm chằm.

- Đồ mặt chuột!

Một cốc giấy đầy ặc bay tới bẹp gí trên kính chắn gió. Sebastian kéo cửa kính lên rồi khởi động cần gạt nước.

Thú vị...

Đây là lần đầu tiên anh đặt chân tới khu vực này của thành phố. Và chắc chắn cũng là lần cuối cùng, anh hy vọng thế.

Hương vị ẩm thực vùng Porto phảng phất trong không khí ngấy mùi mỡ. Tiết tấu đặc trưng Caribê tràn qua các ô cửa sổ. Cờ Dominica tô điểm bậc thềm các ngôi nhà. Đã từ lâu nay chẳng ai có thể phủ nhận sự thực rằng khu Bushwick này trở thành vùng độc chiếm của người Latin. Dần tỏa ra tứ phía, khu phố này trải dài hàng chục dãy nhà và lưu giữ vẻ thô ráp. Những nhóm yppie từng bao vây Williamsburg vẫn chưa đổ tới khu vực này. Nơi đây, không có những thanh niên giàu có, đám nghệ sĩ thời thượng hay các nhà hàng sinh thái, mà chỉ liên tiếp các kho hàng, những ngôi nhà mái tôn, những ngôi nhà gạch, những bức tường chi chit hình vẽ graffiti và những khoảng đất bỏ hoang phủ kín cỏ dại.

Con đường rộng thênh thang nhưng gần như vắng tanh. Sebastian đã xác định được vị trí quán Boomerang nhưng anh vẫn muốn đổ chiếc Jaguar của mình ở con phố song song. Anh khóa xe rồi quay lại đường Frederic cũng là lúc những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi, khiến Bushwick nhuốm một màu xám xịt buồn bã.

Boomerang chẳng có vẻ gì là một lounge sang trọng và tiện nghi. Đó là một quán bar nhỏ ở ngoại ô, xập xệ và bẩn thỉu. Nó phục vụ thứ rượu rẻ tiền cùng bánh mì kẹp thịt giá hai đô. Được dính vào tấm cửa sắt cuốn, một tấm biển nhỏ thông báo quán chỉ mở cửa bắt đầu từ năm giờ chiều. Tuy nhiên, cửa sắt cuốn vẫn để mở để ba phần tư, cho phép đi vào cửa chính của quán.

Sebastian gõ lên ô cửa kính màu khói khi ngoài trời mưa đang nặng hạt dần.

Không có tiếng trả lời.

Anh đánh liều đẩy hết cửa cuốn lên rồi thử mở cửa chính ra.

Cửa không khóa.

Người bết nước mưa, anh do dự mất một lúc. Khung cảnh xập xệ và căn phòng chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Cuối cùng, anh quyết định bước vào đồng thời để ý đóng cánh cửa sau lưng nhằm tránh nguy cơ bị người qua đường phát hiện.

- Có ai không? Anh cất tiếng hỏi trong lúc dò dẫm tiến lên.

Đi được vài bước trong phòng, anh đưa tay bụm miệng. Một mùi hôi thối khiến anh lợm giọng và buồn nôn. Thứ mùi tanh tanh, thứ mùi ám ảnh, bạo lực...

Mùi của máu.

Anh định chạy đi, nhưng lại kiềm chế được nỗi sợ hãi. Anh lùi lại sát tường, mò mẫm tìm cầu dao điện.

Khi thứ ánh sáng màu xanh lục đã trùm xuống căn phòng, anh bỗng thấy kinh hãi.

Cả quán bat đẫm màu máu. Sàn nhà vấy những vệt đen dính nhơm nhớp. Các bức tường gạch in đầy vệt chất lỏng màu tía bắn lên. Gỗ lát tường cũng bê bết. Thứ chất lỏng đó còn bắn lên tận mấy tầng giá chất đầy chai lọ phía sau quầy bar.

Một cuộc tàn sát thật sự.

Cuối phòng, một người đàn ông nằm bất động trong vũng máu.

Drake Decker chăng?

Tim Sebastian đập thình thịch trong lồng ngực, không thể kiểm soát nổi. Bất chấp cảm giác hoảng loạn và cơn buồn nôn, anh vẫn tiến về phía cái xác. Một xác người to lớn và bị đâm chém đã mất hết máu đang nằm phơi ngực. Bàn bi a nơi cái xác nằm trên đó trông giống như một bàn thờ, một chiếc bàn lễ được dựng lên cho một buổi hiến tế mờ ám. Người chết là một gã cao lớn, hói đầu và để ria mép, nặng phải hơn một tạ. Phệ bụng, long lá, y có dáng dấp giống một vài thành viên của Những chú gấu, một nhánh nhỏ của cộng đồng gay luôn phô diễn vẻ ngoài cường tráng. Vốn có màu kaki, chiếc quần vải của y giờ đã đâm màu máu đen. Từ chiếc áo sơ mi kẻ ca rô, bị phanh cúc trên ngực và bụng, trào ra cả nội tạng. Ruột, gan, dạ dày lẫn lộn với nhau tạo thành một mớ hổ lố dính dớp và nhớt nhát.

Sebastian không thể chịu đựng thêm nữa. Chống hai tay lên đầu gối, anh nôn thốc nôn tháo ra một đống nhờ nhờ hăng hắc trào ngược lên từ cái dạ dày rỗng của mình. Anh đứng nguyên như vậy mất một lúc. Người đầm dìa mồ hôi, mặt nóng bừng. Nín thở.

Tuy nhên anh vượt qua được cơn hoảng sợ. Một chiếc ví thò ra khỏi miệng túi áo. Sebastian thò tay rút chiếc ví da rồi xem xét bằng lái xe: đây chính xác là Drake Decker.

Trong khi anh đang cố nhét lại chiếc ví vào túi áo, cơ thể Drake bỗng co giật.

Sebastian giật nảy mình. Mạch máu giật giật hai bên thái dương anh.

Cơn co giật cuối cùng post mortem [1]?

[1]. Tiếng Latin trong nguyên bản: sau khi chết. (ND)

Anh cúi nhìn khuôn mặt bê bết máu.

Cái “xác” bỗng mở mắt. Sebastian lùi lại và tiếng hét nghẹn lại trong họng anh.

Mẹ kiếp!

Drake có thể đang hấp hối, nhưng có hơi thở trộn lẫn với dòng máu nhỏ rỉ ra từ miệng y.

Làm gì bây giờ?

Hoảng loạn. Choáng váng. Cảm giác nghẹt thở.

Anh rút điện thoại ra bấm số gọi cấp cứu. Anh từ chối cung cấp danh tính, nhưng yêu cầu một chiếc xe cấp cứu tới địa chỉ 17 đường Frederick.

Anh ngắt máy rồi cố hết sức nhìn lại một lần nữa khuôn mặt và thân hình Drake. Rõ ràng chú gấu đã bị tra tấn không từ một cực hình nào. Máu thấm qua cả lớp thảm len phủ mặt bàn bi a. Mép thảm chần nổi giữ vai trò như đường rãnh dẫn dòng máu chảy đến tận các giỏ hứng bóng. Lúc này, y đã chết hẳn.

Thứ axít chua lòm trào lên thiêu đốt cổ họng anh. Miệng Sebastian khô khốc. Đôi chan anh run lẩy bẩy. Các ý nghĩ rối tung trong đầu anh.

Anh cần nhanh chóng rời khỏi hiện trường. Rồi anh sẽ suy nghĩ sau. Sau khi chắc chắn không bỏ quên thứ gì, anh phát hiện thấy trên quầy bar một chai whisky đặt cạnh một cốc rượu vẫn còn phân nửa. Một lát vỏ cam và hai cục đá to vẫn đang nổi trong cốc whisky. Anh ngừng lại ở chi tiết cuối này. Ai đã uống rượu trong chiếc cốc này? Chắc chắn là “tên đồ tể” đã tra tấn Drake. Nhưng nếu đá còn chưa tan hết, điều đó có nghĩa là tên hành hung chỉ vừa rồi khỏi hiện trường.

Thậm chí hắn vẫn còn trong phòng...

Trong khi nhào ra phía cửa, anh nghe thấy một tiếng rắc. Anh sững người lại. Nếu Jeremy đang bị giam cầm trong cái xó xỉnh ô uế này thì sao?

Anh ngoảnh lại thì nhận thấy một bóng người lẻn ra sau chiếc bình phong sơn mài.

Ló ra từ sau các phiến gỗ, một gã cao lớn lao về phía anh.

Da nâu, vóc dáng thô lậu, mặt xăm trổ như một chiến binh bộ tộc Maori, hắn cầm trong tay một con dao găm lưỡi kép.

Sững sờ, Sebastian khựng lại tại chỗ.

Anh thậm chí còn không giơ tay tự vệ khi lưỡi dao nhằm thẳng người anh lao xuống.