Bảy năm sau - Phần 04 Chương 60-62

60

Hơn chín giờ tối chuyến bay chở Lorenzo Santos mới hạ cánh xuống đường băng của sân bay nhỏ Rio Branco. Anh đã phải mất đến hơn ba mươi giờ đồng hồ mới tới được thủ phủ bang Acre. Một chuyến đi gian nan với hai lần quá cảnh – São Paolo và Brasilia – trên chiếc ghế chật chội của một hãng hàng không giá rẻ, giữa đám hành khách mồm miệng quàng quạc.

Đứng trước băng chuyền, anh vừa dụi mắt vừa càu nhàu vì tiếp viên trưởng đã bắt anh gửi hành lý. Trong lúc chờ lấy hành lý, anh bật lại điện thoại để xem có tin nhắn không thì thấy có thư của Nikki.

Phần nội dung thư để trống. Không có tiêu đề thư, không phần giải thích. Chỉ có khoảng gần mười bức ảnh. Trong lúc chờ đợi ảnh được tải lần lượt xuống máy, Santos cảm thấy cơn phán khích lan tỏa trong lòng. Anh xem xét từng bức ảnh. Mọi chuyện còn chưa rõ ràng, nhưng các miếng ghép đã dần ráp nối lại với nhau trong tâm trí anh, xác nhận nhiều trong số các linh cảm của anh là đúng. Vậy là anh đã đúng khi làm theo bản năng mách bảo nên tới Braxin!

Anh nhận ra hai tay mình hơi run rẩy.

Sự phấn khích, cảm giác hào hứng, mối nguy hiểm, nỗi sợ…

Ly cocktail yêu thích của viên cảnh sát.

Anh thử gọi cho Nikki, nhưng ngay lập tức bị chuyển sang hộp thư thoại. Anh có thể đánh cược điều đó. Bức thư này là một lời kêu cứu. Anh thậm chí còn không đợi lấy hành lý. Anh đang nghĩ cách tới được bãi đỗ trực thăng. Gió rốt cuộc cũng đã đổi chiều. Đêm nay, anh sẽ bắn trúng hai đích chỉ bằng một mũi tên: phá được vụ án lớn nhất trong sự nghiệp và giành lại được tình yêu của người phụ nữ mà anh yêu.

Cùng thời điểm đó, tại Paris, Constance Lagrange vẫn đang miệt mài. Cô làm việc suốt từ sáng tới giờ, cố gắng huy động mọi nguồn lực để giúp đỡ vợ chồng Larabee. Cô đã tìm lại được trên trang Facebook của Simon mấy bức ảnh chụp Flavia rồi gửi chúng tới các mối quen biết của mình ở nhiều sở cảnh sát khác nhau và đã thu thập được một số thông tin rất bất ngờ.

Mắt cô khô rát. Cô chớp mắt nhiều lần để xua đi cảm giác rát bỏng, chuyện thường ngày của những người làm việc quá lâu trước màn hình máy tính. Cô liếc nhìn đồng hồ điện tử trên máy tính: ba giờ sáng. Cô quyết định tạm nghỉ một lúc rồi đứng dậy đi vào bếp để làm một lát bánh mì phết sô cô la. Cô quay mặt ra vườn, ngốn ngấu phần bánh, cô như tìm lại được hương vị tuổi thơ ở mỗi miếng bánh. Làn gió đêm cuối tháng Mười mơn man mặt cô. Cô nhắm mắt lại và nhận ra một cảm giác thanh bình đến bất ngờ trong lòng, như thể đã tự giải phóng được mình khỏi cơn cuồng nộ, vượt qua nỗi khiếp sợ cái chết. Cô nghe được tiếng vi vu của làn gió đang lùa qua ô cửa sổ, ngửi thấy mùi hương dịu ngọt của những đóa hoa trà mùa thu. Bị cảm giác thanh thản lạ thường này chế ngự, cô cảm nhận thời khắc hiện tại với sự mạnh mẽ khác thường. Cô thề điều này là phi lý, nhưng mọi nỗi sợ hãi đều đã rời xa cô, như thể cái kết không còn là tất yếu.

Một âm thanh leng keng vang lên báo hiệu có thư mới đến.

Constance mở choàng mắt rồi quay lại ngồi trước màn hình máy tính.

Đó là thư của Nikki! Cô nhấp chuột mở các tệp đính kèm, chúng hiện lên gần như ngay tức khắc. Những bức ảnh chụp một bộ khung máy bay đã nát vụn giữa rừng rậm, một chuyến hàng toàn súng M-16 và AK-47, hàng trăm cân cocain, một gã đi cắm trại bộ dạng cực kỳ hung tợn, một bản đồ vùng Amazon…

Suốt ba tiếng đồng hồ sau đó, Constance không ngẩng mặt khỏi màn hình máy tính. Cô đã gửi hàng chục bức thư cho tất cả các sở cảnh sát trong mạng lưới để thu thập thông tin về mấy bức ảnh. Đến gần sáu rưỡi sáng thì điện thoại của cô đổ chuông.

Là Nikki.

61

Một hòn đảo bê tông giữa lòng Amazon.

Thành phố Manaus trải rộng về phía Tây Bắc của Braxin, vươn những cụm đô thị vào sâu trong khu rừng rậm.

Sau hơn bốn tiếng bay, Nikki và Sebastian đã tới sảnh đến của sân bay. Họ lờ đi đám tài xế taxi dù đang mời mọc các khách hàng tiềm năng ở khu giao nhận hành lý và tiến tới quầy đón tiếp của các văn phòng chính hãng để láy phiếu đăng ký.

Trời đang mưa.

Vừa ra khỏi sân bay, họ đã bị nghẹt thở vì cái nóng ẩm vùng nhiệt đới. Không khí bụi bặm và dày đặc hơi nước. Nước mưa hòa lẫn bụi bẩn, hơi nước ô nhiễm và cặn dầu khiến cho bầu không khí ngột ngạt không thở nổi. Họ đi ngược lên cả dãy taxi rồi chìa phiếu đặt xe cho nhân viên điều phối, người này đã điều đến cho họ một chiếc Mercedes 240D sơn đỏ và xanh lục. Dòng xe thịnh hành vào cuối những năm 1970.

Trong xe bốc mùi chua và hấp hơi. Một thứ mùi khó chịu như của trứng thối, lưu huỳnh và mùi nôn mửa. Họ vội vàng hạ cửa kính xuống rồi mới trình bày lộ trình với tài xế, một thanh niên người lai có mái tóc khô cứng, răng sâu và mặc áo phông vàng xanh của Selecão[1]. Trên radio là bản Macarena phiên bản Braxin. Không thể chịu đựng nổi, inh tai nhức óc.

[1]. Tức đội tuyển bóng đá quốc gia Braxin.

Nikki bật điện thoại và cố găng nối máy về Pháp trong khi Sebastian kiên quyết yêu cầu tài xế vặn nhỏ âm lượng đài. Sau vài lần cố kết nối mà không thành công, rốt cuộc Constance cũng bắt máy. Nikki nói vắn tắt tình hình hiện tại cho cô cảnh sát.

- Tôi đã thu thập tin tức và tôi có tin xấu, cô cảnh sát trẻ thông báo.

- Chúng tôi có rất ít thời gian, Nikki vừa cảnh báo vừa bật loa ngoài để Sebastian có thể nghe được cuộc trò chuyện.

- Vậy nên hai người nghe kỹ những điều tôi nói nhé. Tôi đã gửi ảnh của Flavia tới tất cả các mối quen biết. Cách đây vài giờ, tôi vừa nhận được cuộc gọi từ một đồng nghiệp ở OCRTIS. Cơ quan Trung ương trấn áp tội phạm buôn lậu ma túy. Anh ấy nhận ra cô gái trong ảnh. Tên cô ta không phải là Flavia. Đó là Sophia Cardoza, còn được biết đến với cái tên “Barbie Narco”. Đó là con gái độc nhất của Pablo Cardoza, một trùm ma túy sừng sỏ ở Braxin, kẻ đứng đầu đường dây Seringueiros.

Nikki và Sebastian hoảng hốt nhìn nhau. Seringueiros… Họ đã nghe thấy cái tên này ở Rio.

- Từ một tháng nay, Pablo Cardoza bị giam giữ trong khu an ninh đặc biệt của nhà tù liên bang, Constance nói tiếp. Theo tin công bố chính thức thì đường dây đó đã bị đánh sập sau một đợt truy quét quy mô lớn của giới chức Braxin, nhưng cô gái “Flavia” tiếng tăm đó rõ ràng vẫn nuôi tham vọng điều hành đế chế của cha. Công việc phục vụ quán bar ở bãi biển Ipanema chỉ là vỏ bọc. Cô ta chưa bao giờ sống ở khu phố nghèo… Chuyến đi của anh chị qua khu Rocinba chỉ là một vụ dàn cảnh.

Bất chấp thứ mùi khó chịu trong xe, Nikki vẫn kéo cửa kính lên để ngăn tiếng ồn ào ngoài đường vọng vào. Hơi nóng ngột ngạt. Độ ẩm và tình trạng ô nhiễm ở khắp nơi. Những tòa nhà chọc trời vô duyên xen kẽ với những công trình cổ hơn, vết tích từ quá khứ huy hoàng của thành phố này, thời mà thủ phủ bang Amazon vẫn thống trị ngành sản xuất cao su của thế giới. Dù đã là buổi đêm, đường phố vẫn rất náo nhiệt, lúc nhúc người và ồn ào.

- Thế còn chiếc máy bay? Cô hỏi.

- Tôi đã gửi cả ảnh chiếc DC-3 ấy cho đồng nghiệp ở bên OCRTIS. Theo anh ấy, chắc chắn một điều là: chiếc máy bay thuộc tổ chức đó và chuyến hàng ma túy này có nguồn gốc từ Bolivia. Tầm khoảng bốn đến năm trăm cân cocain nguyên chất trị giá khoảng năm mươi triệu đô la. Chiếc máy bay chở hàng đó hẳn là gặp sự cố trước khi bị rơi tan xác giữa rừng rậm, cách đây hai hoặc ba tuần. Sau mốc thời gian đó, Flavia và các thành viên của tổ chức thoát khỏi các vụ bắt giữ hẳn đang ráo riết tìm lại cho được chiếc máy bay.

- Tìm một chiếc máy bay lớn cỡ đó liệu có phức tạp đến vậy không? Sebastian hỏi.

- Trong rừng Amazon thì có đấy. Dựa vào địa điểm máy bay rơi thì có lẽ khó mà tìm được nó. Đa phần đó đều là những nơi hẻo lánh, không có đường sá, không lối vào, không gì hết. Máy bay đó hẳn không có thiết bị báo cứu. Tôi đã tìm kiếm thử: năm ngoái, quân đội Braxin đã mất hơn một tháng mới xác định được vị trí một chiếc Cessna của tổ chức Chữ thập đỏ bị rơi xuống vùng rừng rậm. Và thêm nữa, đó là nhờ một bộ lạc da đỏ đã chỉ đường cho họ.

Cô cảnh sát Pháp ngừng lại vài giây rồi mới nói tiếp:

- Nhưng điều bất ngờ nhất lại là danh tính của người đàn ông tìm ra chiếc máy bay…

- Tôi không hiểu.

- Những bức ảnh về chiếc máy bay đó được chụp bằng điện thoại di động, Constance giải thích. Dựa vào đống đồ cắm trại lỉnh kỉnh trên người gã mà ta có thể thấy trên vài bức ảnh, chúng ta cứ tưởng đó là một khách du lịch vô tình lạc tới đó. Tôi thì nghĩ ngược lại, gã đã cố đi tìm và đã tìm thấy nó trước đám tay chân của tổ chức kia. Tôi cũng cho rằng gã chỉ có một mình vì bức ảnh có mặt gã đều là bức ảnh “tự sướng”. Vì gã mặc một chiếc áo phông có cở Mỹ nên tôi đánh cược gã không phải người Braxin và tôi đã tra cứu cơ sở dữ liệu của Interpol, một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Hai người biết không: gã đó đã bị cảnh sát New York truy nã suốt năm năm nay. Gã trốn khỏi Brooklyn sau khi bị kết án tù dài hạn. Tên hắn là Memphis Decker: chính là em trai của Drake Decker, ông chủ quán bar Boomerang…

Nikki và Sebastian tiếp nhận thông tin với vẻ ngỡ ngàng. Từ khi rời khỏi khu vực sân bay, gã tài xế vẫn đi mỗi một con đường: đại lộ Constantino Nery, một kiểu đường vành đai nối khu Tây Bắc Manaus với bến cảng đồng thời chạy qua khu trung tâm cổ kính. Chiếc xe đột ngột rời khỏi đại lộ, chạy lên đường dân dành cho ô tô để bắt vào một dãy dài các bến tàu dọc con đường rải nhựa. Sừng sững trên dòng nước đen của Sông Đen, bến cảng Manaus rộng lớn trải dài đến hút tầm mắt.

- Cái gã tìm ra chiếc DC-3 là em của Drake Decker ư? Cô chắc không? Sebastian hỏi.

- Chắc chắn, Constance xác nhận. Gã đã lưu các tấm ảnh và bản đồ vào iPod của mình rồi mới gửi chiếc máy nghe nhạc đó tới New York cho anh trai. Và Drake đã không tìm thấy nơi nào để cất giấu nó tốt hơn là trong hộp đựng bài poker mà Jeremy đã lấy trộm của hắn…

- Thế cô có biết bây giờ cái gã Memphis Decker ấy đang ở đâu không? Nikki hỏi.

- Biết, ở nghĩa địa. Người ta đã tìm thấy xác hắn ở trong bãi đỗ ở bến xe Coari, một thành phố nhỏ ven sông Amazon. Theo báo cáo của cảnh sát, thi thể hắn có dấu hiệu bị tra tấn và cắt xẻo.

- Là đám tay chân của Flavia?

- Đương nhiên là thế. Chắc chắn chúng đã ép gã khai ra vị trí chính xác của chiếc máy bay.

Taxi đi lướt qua những chiếc tàu đầu tiên: những chiếc tàu khổng lồ mà trên boong treo lủng lẳng hàng trăm chiếc võng đủ màu sắc. Rồi xe chạy ngang qua khu vực dành cho tàu hàng chuẩn bị đi tới những bến cảng chính của lưu vực sông Amazon – Belém, Iquitos, Boa Vista hay Santarém – rồi đỗ lại trước một khu chợ lớn bằng thép. Dưới bộ khung kim loại đồ sộ, các sạp hàng đầy ắp những cá, dược liệu, xương bò, các loại da và hoa quả nhiệt đới. Không khí đậm đặc và nồng nặc mùi sắn. Rực rỡ sắc màu và vô tổ chức, chợ “Rungis[2] ở Amazon” này đang náo nhiệt với đủ thứ âm thanh. Trong cảnh lộn xộn, hàng chục ngư phủ đang đổ thêm hàng ra sạp, bổ sung thêm các loại tôm cua vẫn nhảy lách tách.

[2]. Khu chợ nổi tiếng ở phía Nam Paris, được coi là chợ lớn nhất thế giới. (ND)

Trong khi taxi vẫn tiếp tục đi dọc bờ kè han gỉ, Sebastian dụi mắt, cố móc nối các sự kiện với nhau. Sau khi giết Memphis, tổ chức buôn lậu ma túy kia đã phái một tay chân – chắc chắn là tên “Maori” khốn khiếp kia – để liên lạc với Drake Decker. Bị đe dọa, Drake hẳn đã khai ra rằng chiếc máy nghe nhạc bị một thằng nhóc tên là Jeremy đánh cắp. Nhưng như lời Simon kể, Drake hoàn toàn không biết họ cũng như là địa chỉ của Jeremy. Những thông tin duy nhất mà hắn có là tên thằng bé và sở thích của nó với nhóm nhạc Shooters, thằng bé vẫn hay mặc áo phông có hình nhóm nhạc này. Và thông qua Facebook của nhóm nhạc mà Flavia mới lần ra được manh mối của Jeremy để rồi dụ dỗ thằng bé với hy vọng thằng bé sẽ tới Braxin mang theo chiếc iPod…

Một kế hoạch điên rồ. Một âm mưu thâm độc và xảo quyệt.

- Aqui é cidade à beira do lago [3], anh chàng tài xế cảnh báo trong khi các nhà kho và công ten nơ dần nhường chỗ cho các ngôi nhà hoang.

[3]. Tiếng Bồ Đào Nha trong nguyên bản: Đã tới khu phố ven hồ. (ND)

Khu phố ven hồ là một kiểu xóm dân nghèo bên dòng nước đen. Một xóm nhà nổi ổ chuột toàn những túp lều gỗ lợp mái tôn lượn sóng. Một vũng nước sếnh bùn dính dớp có thể khiến chiếc xe sa lầy vào đó trong tích tắc.

- Tôi ngắt máy đã nhé, Constance. Cảm ơn sự giúp đỡ của cô.

- Đừng tới cuộc hẹn đó, Nikki! Thật điên rồ! Anh chị không biết những gã đó có thể làm gì đâu…

- Tôi không được lựa chọn, Constance, chúng đang giữ hai đứa con của tôi!

Cô cảnh sát ngưng lại một lúc rồi nghiêm trang cảnh báo:

- Nếu anh chị đưa tọa độ vị trí của chiếc máy bay, chúng sẽ trừ khử mọi người ngay lập tức, cả hai người và hai đứa trẻ. Đó là điều chắc chắn.

Không muốn nghe thêm về điều đó, Nikki ngắt máy. Cô đờ đẫn liếc mắt sang phía chồng cũ. Lần này họ đã ý thức được rõ mình đang chơi ván cờ quyết định với một đối thủ mà họ không có cơ chiến thắng.

Người tài xế dừng xe, đút túi tiền công rồi vội vã quay đầu xe, bỏ mặc hành khách giữa khung cảnh thê lương. Vẫn chỉ có Nikki và Sebastian ở đó một lúc lâu, đứng trân trân, sợ hãi. Trong màn đêm đen, mưa phùn lất phất và sương mù ngấm sâu xuống mảnh đất đã bị tàn phá, biến nơi này thành một vùng đầm lầy rộng lớn bao quanh là những bụi rậm. Đúng ba giờ, hai chiếc Hummer lừng lững tiến ra từ màn đêm rồi hướng về phía họ. Bị lóa mắt vì ánh đèn pha, họ đứng dạt sang một bên để khỏi bị hai con quái vật địa hình nghiền nát. Hai chiếc xe đỗ lại, vẫn để động cơ chạy.

Các cửa xe bật mở. Hùng dũng trong bộ đồng phục rằn ri, lủng củng các bao đạn trên người, súng máy hiệu IMBEL đeo trên vai, ba người đàn ông vũ trang đầy mình bước ra từ đêm đen. Những viên lính biệt kích cải trang của đám buôn lậu ma túy.

Bất thình lình, chúng lôi Camille và Jeremy từ một trong hai chiếc xe 4x4 ra rồi chĩa họng súng vào hai đứa trẻ, tay của cả hai đều bị trói ngược phía sau, miệng thì bị dán băng dính.

Khi nhận ra hai con, Nikki và Sebastian đều cảm thấy thắt lòng. Tim họ đập thình thịch. Đến cửa địa ngục rốt cuộc họ lại tìm được Camille và Jeremy.

Còn sống.

Nhưng trong bao lâu nữa?

Một người phụ nữ trẻ tóc vàng, dáng người mảnh mai rốt cuộc cũng đóng sập cánh cửa chiếc xe Hummer và đứng ngạo nghễ trước ánh đèn pha.

Sophia Cardoza, biệt hiệu “Barbie Narco”.

Flavia.

62

Cuốn hút, duyên dáng, mảnh mai như một chiếc lá.

Dáng người thanh mảnh của Flavia nổi bật trong màn mưa bụi và ánh sáng chói lóa của đèn pha từ hai chiếc xe địa hình. Những sóng tóc vàng ươm uốn lượn trên bờ vai và những tia ngũ sắc ánh lên trong mắt.

- Các người đang giữ thứ gì đó thuộc về tao! Cô ả hét lên trong đêm.

Cách cô ả mười mét, Nikki và Sebastian vẫn bất động không nói gì. Ánh sáng lóe lên từ khẩu súng ngắn tự động trong tay cô gái Braxin. Cô ả túm tóc Camille rồi gí nòng khẩu Glock vào thái dương cô bé.

- Mau! Đưa cho tao cái bản đồ chết tiệt ấy!

Sebastian tiến thêm một bước, đưa mắt tìm con gái để động viên cô bé. Anh nhìn thấy mặt con, tái mét vì sợ hãi, hằn lên những lọn tóc mai bị gió thổi áp vào. Anh hoảng hốt thì thầm thúc ép vợ cũ.

- Trả cô ta cái iPod đi, Nikki.

Một cơn gió lốc ào tới cuốn theo làn mưa xô nghiêng những vạt cỏ cao bên sườn dốc.

- Nên lý trí một chút đi, Flavia nôn nóng. Bản đồ và hai phút sau các ngươi sẽ trở lại Mỹ cùng hai đứa con!

Lời mời chào mới hấp dẫn làm sao, nhưng là dối trá. Cảnh báo của Constance vẫn vang vọng trong đầu Nikki: “Nếu anh chị đưa tọa độ vị trí của chiếc máy bay, chúng sẽ trừ khử mọi người ngay lập tức, cả hai người và hai đứa trẻ. Đó là điều chắc chắn.”

Cần phải kéo dài thời gian, bằng mọi giá.

- Tôi không còn giữ nó! Nikki hét lên.

Im lặng chết chóc.

- Sao cơ, các người không giữ nó nữa ư?

- Tôi vứt nó đi rồi.

- Tại sao mày dám liều mạng như thế? Flavia hỏi.

- Tôi mà đưa bản đồ cho cô, liệu cô còn hứng thú giữ mạng sống cho chúng tôi nữa không?

Nét mặt Flavia bất động trong vẻ lạnh băng. Cô ta bắt đầu ra lệnh cho đám tay chân lục soát cả hai. Ngay lập tức, ba tên lính biệt kích nhảy bổ vào hai tù nhân, lộn trái các túi, sờ nắn quần áo của họ nhưng không tìm được gì.

- Tôi biết vị trí chính xác của chiếc máy bay! Nikki khẳng định đồng thời cố che giấu nỗi sợ hãi. Chỉ mình tôi mới có thể dẫn cô tới đó!

Flavia do dự. Trong tất cả các phương án đã vạch ra, cô ta không dự tính được việc mang theo con tin, nhưng cô ta có thật sự được lựa chọn không? Cách đây hai tuần, cô ta những tưởng màn tra tấn có thể moi được thông tin từ miệng Memphis Decker, nhưng gã người Mỹ đó đã chết mà không tiết lộ gì về tọa độ chiếc máy bay. Vì bất trắc đó, giờ cô ta đang bị dồn vào chân tường. Vừa nhìn đồng hồ đeo tay, cô ta vừa cố giữ bình tĩnh. Màn đếm ngược này sẽ sớm kết thúc thôi. Mỗi một giờ trôi qua nguy cơ phải thấy lực lượng cảnh sát tìm được chiếc máy bay trước sẽ càng tăng lên.

- Leva-los[1]! Cô ả hét lên với đám thuộc hạ.

[1]. Tiếng Bồ Đào Nha trong nguyên bản: Đưa chúng đi. (ND)

Bằng một hành động giống hệt nhau, đám lính đẩy vợ chồng Larabee và hai đứa trẻ về phía xe. Ngay lập tức, Nikki và Sebastian bị đẩy vào ghế sau của một xe trong khi Jeremy và Camille bị nhét vào xe còn lại. Rồi cả hai chiếc xe địa hình lao khỏi khu cảng nhanh chóng hệt như lúc xuất hiện.

Họ đi về phía Đông trong khoảng nửa giờ. Đoàn xe xuyên màn đêm, đi theo các trục đường lớn vắng tanh vắng ngắt rồi rẽ vào một con đường đất lầy lội. Con đường mòn men theo bờ một hồ kẹp giữa hai bờ dốc và chạy thẳng tới một khoảng đất rộng nơi có một chiếc trực thăng Black Hawk đậu chình ình. Nó đang đợi những kẻ buôn lậu ma túy cùng các con tin. Khi họ vừa đặt chân xuống đất viên phi công lái chiếc trực thăng đã khởi động máy. Trong tình cảnh bị gí súng đe dọa, gia đình Larabee leo lên trực thăng, theo sau là Flavia vào vị trí phụ lái!

- Tiramos! Cô ả ra lệnh

Viên phi công gật đầu. Gã hướng chiếc Black Hawk ra ngược với hướng gió rồi kéo cần chỉnh độ nghiêng để máy bay cất cánh. Flavia chờ cho trực thăng đạt vận tốc đường trường rồi mới quay lại phía Nikki.

- Chúng ta đi đâu? Cô ả hỏi một cách cứng rắn.

- Trước tiên là về hướng Tefé.

Flavia nhìn cô chằm chằm bằng cặp mắt sâu đang cố tỏ ra bình thản, nhưng tia sáng dữ dội lóe lên từ đôi đồng tử cho thấy cô ta đang nôn nóng và bực tức. Nikki không hé thêm thông tin nào. Trong suốt chuyến bay Rio-Manaus, cô đã nghiền ngẫm chi tiết bản đồ và lộ trình dẫn tới vị trí chiếc máy bay chở đầy cocain. Cô đã thầm phân chia chặng đường sao cho có nhiều điểm ngắt để chuyến bay càng kéo dài càng tốt.

Ở phía sau trực thăng, Sebastian không liên hệ được chút nào với hai đứa con. Ba gã hộ pháp ngồi chình ình ở đó như tấm bình phong ngăn chặn mọi ánh mắt cũng như lời nói.

Phải bay đến giờ thứ hai Sebastian mới cảm nhận được những triệu chứng đầu tiên. Cơ thể sốt cao, buồn nôn, các khớp chân đau đớn. Cột sống tê mỏi, gáy cứng đờ và đầu đau nhức.

Bệnh cúm nhiệt đới ư? Anh nghĩ tới lũ muỗi đã đốt anh ở khu ổ chuột. Chúng chính là sinh vật truyền bệnh sốt xuất huyết, nhưng thời kỳ ủ bệnh ở anh có vẻ hơi ngắn. Do máy bay chăng? Trong chuyến bay đưa họ từ Paris tới Rio, anh nhớ là có một hành khách bị ốm ngồi ngay trước anh. Suốt cả chuyến bay, người đó cứ run cầm cập dưới chăn. Có thể người đó đã truyền sang anh căn bệnh quái quỷ nào đó…

Mà giờ đâu có phải là lúc để bị ốm.

Nhưng anh không thể làm gì để ngăn cơn sốt ngày càng tăng. Anh co rúm người lại vừa xoa xoa vào mạng sườn cho ấm người lên vừa cầu mong tình trạng này sẽ không trầm trọng thêm.

Tefé cách Manaus hơn năm trăm cây số. Quãng đường bay mà chiếc trực thăng có thể vượt qua trong chưa đầy ba tiếng, lướt trên một biển cây, một dải sẫm màu trải dài vô tận đến hết tầm nhìn. Suốt hành trình, Flavia bắt Nikki phải ngồi trong khoang lái để theo dõi màn hình hiện lên đường đi của chiếc Black Hawk.

- Thế còn bây giờ? Cô tiểu thư đứng đầu đường dây ma túy hỏi trong khi mặt trời đang nhú trên nền trời hồng xanh.

Nikki xắn tay áo thun lên. Như một nữ sinh, cô đã viết trước lên cánh tay một dãy các con số và chữ:

N 4 3 21

Đ 64 48 30

Cô đã ghi nhớ bài học của Sebastian về cách viết tọa độ địa lý của một vị trí. Vĩ độ và kinh độ. Độ, phút, giây.

Flavia nheo mắt rồi yêu cầu phi công nhập các con số này vào hệ thống điều khiển.

Chiếc Black Hawk lại bay thêm nửa giờ nữa rồi mới đáp xuống một khoảng đất trống giữa rừng.

Mọi người vội vã bước xuống. Đám lính khuân theo dao rựa, bình nước và những ba lô nặng trịch. Chúng trói cổ tay của từng người nhà Larabee lại bằng dây nhựa, đeo vào thắt lưng họ một bình nước, rồi cả nhóm người tiến vào cánh rừng nguyên sinh.