Đại Đường Song Long Truyện - Chương 160-P2

Đổng Thục Ni giận dỗi nói: “Có gì mà phải kinh ngạc chứ. Lẽ nào huynh muốn người ta gả cho Lý lão đầu háo sắc ấy à?”.
Khấu Trọng thầm giật mình, Từ Tử Lăng đoán quả không sai, vì đối phó Lý Mật, Lý Uyên và Vương Thế Sung đã tiến hành một cuộc giao dịch hôn nhân chính trị, món hàng chính là Lạc Dương đệ nhất mỹ nữ Đổng Thục Ni. Không còn nỗi lo mặt phía Tây, Vương Thế Sung có thể phóng tay giao chiến với Lý Mật, còn Lý gia thì cũng vui vẻ tọa sơn quan hổ đấu.
Tất cả những điều này chắc chắn đều là kế hoạch của Lý Thế Dân, chỉ là y không ngờ mình đã trở thành người được Sư Phi Huyên tuyển lựa, đặt bước mở đầu cho nguy cơ sau này sẽ tranh đoạt vương vị với Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành là hạng người gì? Đương nhiên y không thể để yên cho Lý Thế Dân được.
Vì vậy chỉ cần đem tin tức này truyền đến tai Lý Kiến Thành, Lý phiệt sẽ khó mà giữ được đoàn kết nội bộ. Chỉ hận là diệu kế này không thể thực hiện, bởi vì Từ Tử Lăng tuyệt đối không thích gã sử dụng những thủ đoạn đó, huống hồ tin tức này còn nhờ gã mới có được.
Tất cả đành phải thuận theo tự nhiên vậy.
Giấy dù sao cũng không gói được lửa, Lý Kiến Thành sớm muộn gì cũng sẽ biết chuyện này.
Cửa thành hiện ra trước mắt, Đổng Thục Ni dừng bước, thử thăm dò: “Huynh nghĩ ra cách gì chưa?”.
Khấu Trọng giật mình sực tỉnh, đáp qua loa: “Chuyện này có liên quan đến rất nhiều vấn đề phức tạp, để tối nay hãy nói”.
Đổng Thục Ni làm sao biết những điều gã đang nghĩ trong đầu hoàn toàn không liên quan đến chuyện trốn chạy cùng nàng, vui vẻ nói: “Giờ tuất tối nay đợi Thục Ni ở cửa trước phủ của Vinh Phụng Tường, người ta sẽ tìm cách lẩn ra ngoài, không gặp không về”.
Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Vinh Phụng Tường là thằng nhãi nào, nhà hắn ở đâu, đêm nay đến đó làm gì?”.
Đổng Thục Ni bực bội nói: “Người nổi tiếng như Vinh Phụng Tường huynh cũng không biết mà còn dám đến Lạc Dương hay sao? Ở Lạc Dương này, y vừa có tiền vừa có thế, đại cựu phụ cũng phải cố kỵ ba phần. Cứ mười đổ trường ở trong thành thì đã có tám là củu y rồi, nữ nhi Vinh Giảo Giảo của y với người ta được xưng là Lạc Dương Song Diễm, hôm nay là đại thọ năm mươi của y, thế nên mới bày tiệc ăn mừng, đã hiểu chưa hả?”.
Khấu Trọng nói: “Nếu đã là nhân vật giang hồ thì ta tự biết tìm được phủ đệ của y, có điều nếu lúc nàng trốn ra mà không thấy ta, tốt nhất nên tìm người khác để cùng chạy trốn, bởi vì rất có thể lúc đó ta đang bị một đám ni cô và hòa thượng xú ác đuổi giết, không có thời gian đến đón nàng đâu”.
Nói đoạn không tiếp tục lằng nhằng với nàng nữa, tung mình lao vút đi, làm Đổng Thục Ni tức giẫm mạnh chân xuống đất, nhưng cũng không làm gì được gã.
o0o
Mảnh giấy bị gã vận công bóp thành bột vụn, bay theo gió rơi xuống dòng Lạc Thủy. Dương quang chiếu xuống dòng nước lấp lánh chói ngời, thuyền khách, thuyền hàng đi lại không ngớt.
Từ Tử Lăng ngồi trên bờ đê, tắm mình trong ánh nắng ấm áp, thoải mái dễ chịu lạ thường, trong đầu không hề có chút phiền não vì chuyện Hòa Thị Bích.
Gã biết rõ rằng sau kỳ ngộ đêm qua, gã đã tiến được một bước vô cùng
quan trọng trên con đường võ đạo của mình, bằng không hiện giờ gã cũng chẳng còn mạng mà hưởng thụ ánh dương quang ấm áp và vẻ tĩnh lặng đặc biệt ở giữa nơi náo thị thế này.
Xa xa bên trái là Thiên Tân Kiều bắc qua Lạc Hà, người xe như nước, nhưng lại giống như là một thế giới hoàn toàn khác, không hề có chút liên hệ với gã ở chốn này.
Chính vào lúc này, phía sau có người đi tới. Từ Tử Lăng không cần quay đầu lại cũng biết người đến chính là Lý Tịnh, thầm thở dài một tiếng.
Lý Tịnh ngồi xuống bên cạnh gã, dõi mắt nhìn xuống dòng Lạc Thủy, thở ra nhè nhẹ nói: “Giao thứ đó ra đi!”.
Từ Tử Lăng nhạt giọng nói: “Ngươi trở thành người phát ngôn cho Sư Phi Huyên từ lúc nào vậy?”.
Lý Tịnh chua chat nói: “Ta biết vì chuyện Tố muội mà đệ giận ta, nhưng trước giờ ta đều chỉ coi nàng là một hảo muội tử, chưa từng nghĩ đến chuyện nam nữ tư tình, cũng giống như đệ và Khấu Trọng là hảo huynh đệ của ta vậy, vì thế hiện giờ ta cũng không thể không đến khuyên các đệ đem trả lại vật đó”.
Từ Tử Lăng cười lạnh nói: “Bất kỳ một ai đó khi làm chuyện gì hoặc không làm chuyện gì cũng đều rất dễ tìm ra một lý do nào đó. Có điều chuyện này người ngoài thực rất khó can dự, ta chỉ muốn hỏi ngươi một câu thôi, có phải Lý Thế Dân đã từng phái Dương Hư Ngạn đi ám sát Hương Ngọc Sơn không?”.
Lý Tịnh không ngờ gã lại hỏi như vậy, ngẩn người ra trong thoáng chốc mới đáp: “Chuyện này liên quan đến cơ mật của Tần Vương, Lý Tịnh ta thực không thể trả lời được. Đệ cũng biết có một số chuyện rất khó nói mà”.
Sự thực thì y trả lời như vậy cũng không khác gì gián tiếp thừa nhận rồi.
Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Hiện giờ có phải lại là Lý Thế Dân bảo ngươi đến khuyên ta giao đồ ra không?”.
Lý Tịnh tỏ ý không vui nói: “Tần vương nào phải loại người ấy, hơn nữa người căn bản không có tham tâm với Hòa Thị Bích. Ta chỉ vì lo lắng cho hai đệ, và cũng chỉ có ta mới biết hai đệ có bản lĩnh hóa thân thành người khác, nhưng cũng chỉ giấu ở trong lòng, không dám nói cho Tần Vương biết, đệ nên hiểu cho cái khó của ta chứ!”.
Từ Tử Lăng cười ha hả nói: “Chúng ta đã không còn là huynh đệ nữa, ngươimuốn làm gì thì cứ việc làm”.
Lý Tịnh thở dài nói: “Ta hiểu tâm tình hiện nay của các đệ. Sự thực thì ta cũng rất khó sử vì chuyện của Tố muội, có điều công ra công, tư ra tư, Hòa Thị Bích tuyệt đối không phải là thứ có thể đụng đến, có được nó rồi hai đệ cũng không được ích lợi gì, thậm chí có tặng cho người khác cũng không ai dám nhận, hà cớ gì phải khổ như vậy?”.
Lý Tịnh càng nói, Từ Tử Lăng càng cảm thấy khó chịu, hừ lạnh một tiếng đáp: “Nếu như Lý Thế Dân không có hứng thú gì với Hòa Thị Bích, mà chúng ta thì đã ân đoạn nghĩa tuyệt, vậy thì còn gì để nói nữa đâu?”.
Lý Tịnh đứng vụt dậy, song mục lấp lánh hàn quang, nhìn ra những dãy nhà trải dài không dứt, trầm giọng nói: “Tử Lăng đã chấp ý như vậy, ta cũng không còn gì để nói. Có điều bất luận đệ nói thế nào, mọi người cũng đã từng là huynh đệ, ta có mấy lời gan ruột, mong đệ có thể nghe lọt tai”.
Từ Tử Lăng nghĩ lại những ngày tháng cùng chung hoạn nạn, trong lòng bồi hồi xúc cảm, cười khổ nói: “Ngươi nói đi!”.
Lý Tịnh nói: “Đương kim thiên hạ chia năm xẻ bảy, chiến họa liên miên, người chịu khổ chỉ có bình dân bá tánh, những kẻ có chí như chúng ta, cần phải chọn minh chủ mà thờ, khiến cho thiên hạ được thống nhất, mà theo ta quan sát, chỉ có Tần Vương mới xứng với ngôi vị đó mà thôi, cả Sư Phi Huyên cũng nghĩ như ta vậy. Ta nói vậy đệ có hiểu không? Đại nghĩa trước mắt, tư tình gì cũng đều phải dẹp sang một bên”.
Từ Tử Lăng hiểu rõ y biết người có dã tâm là Khấu Trọng chứ không phải gã, nên mới nói ra những lời này. Nhưng gã chỉ lắc đầu thở dài: “Ai là minh chủ cứu thế, chỉ e rằng phải trải qua khảo nghiệm của thời gian mới minh chứng được, mà nói cho cùng cũng chỉ là một chuyện đơn giản vô cùng, chính là tranh đoạt thiên hạ. Nếu ngươi còn muốn nói chuyện này nữa thì không nói cũng được. Từ Tử Lăng này không hứng thú đi thị hầu bất cứ ai, đây gọi là mỗi người một chí”.
Lý Tịnh cười ha hả, liên tiếp nói mấy tiếng “hảo” rồi quay người bỏ đi.
o0o
Khấu Trọng vội vội vàng vàng rời khỏi hoàng thành, đi đến nơi hội họp với Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn.
Sự tình đã phát triển ngoài mức tưởng tượng của gã.
Đầu tiên là Liễu Không đã thông qua hảo hữu Vương Bạc, đem mọi chuyện công bố khắp nơi. Một chiêu tưởng chừng như rất lỗ mãng này thực ra lại là một sách lược hết sức cao minh.
Nói không chừng chính là do Sư Phi Huyên đứng sau chủ sử.
Chỗ tuyệt diệu của kế này là có thể biến bất cứ kẻ nào trộm được Hòa Thị Bích đều biến thành “bất pháp chi đồ”, trở thành công địch của tất cả các thế lực.
Kế đó là mượn cơ hội này thống nhất tất cả các môn phái bạch đạo trước nay vẫn ngưỡng mộ tôn kính Từ Hàng Tịnh Trai lại dưới một mục tiêu chung.
Sư Phi Huyên là người ngoài thế tục, tự nhiên không tiện cuốn vào phân tranh của trần thế, thế nên mới thông qua kẻ đã bỏ mộng làm hoàng đế là Vương Bạc để liên lạc các thế lực bạch đạo, lúc ấy chỉ cần tìm được Hòa Thị Bích, rồi đích thân nàng sẽ giao lại cho người được mình tuyển lựa, vậy thì sẽ càng vang động thiên hạ.
Có điều nàng đương nhiên không thể biết Hòa Thị Bích đã thành một đống bột vụn, hiện giờ có bắt ba người bọn gã lóc xương xẻ thịt, bọn gã cũng không thể giao được Hòa Thị Bích ra nữa.
A!
Càng nghĩ càng cảm thấy đáng cười. Đang định rẽ ngoặt ra phố lớn thì trước mặt gã chợt hiện ra một bóng người thấp thoáng.
Khấu Trọng dừng lại định thần nhìn kỹ.
Thì ra là một văn sĩ ăn vận theo lối sư gia, đang vừa vuốt ve hàng râu dưới miệng, vừa gật đầu mỉm cười với gã. Có điều hang hàng râu rất đẹp của người này lại hoàn toàn không phù hợp với gương mặt trắng bệch tới mức bệnh hoạn của y, khiến cho y vừa có vẻ tùy tiện lại có vẻ như đang cố làm trò huyền hoặc để gạt người. Ánh mắt vàng vọt của y càng làm người ta phát ghét, hai hốc mắt phù thũng cho thấy người này cũng thuộc hạng tửu sắc quá độ.
Nhưng Khấu Trọng có thể khẳng định y là cao thủ nhất đẳng, ít nhất cũng không kém Biên Bất Phụ là bao nhiêu. Đó đơn thuần chỉ là trực giác khi gặp phải cao thủ, không có bất cứ lý do gì khác để gã đưa ra kết luận chắc chắn.
Khấu Trọng thầm nhủ: “người không thể xem tướng mạo mà luận” thì trung niên thư sinh bệnh hoạn ấy đã cúi người thi lễ nói: “Tại hạ Bệnh Thư Sinh Kinh Triệu Ninh, là thực khách trong phủ Tri Thế Lang Vương Bạc, phụng mệnh Tri Thế Lang mời Khấu công tử lên thuyền của người chơi một chuyến”.
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Các hạ dựa vào cái gì bảo ta là Khấu công tử gì gì đó chứ? Chúng ta mới gặp nhau lần đầu mà?”.
Kinh Triệu Ninh cười ha hả nói: “Nhân tài như Khấu công tử đây vạn người chỉ có một, chỉ cần có người chỉ điểm, làm sao có thể không nhận ra được chứ.
Khấu công tử nói đùa rồi”.
Khấu Trọng thở dài nói: “Xem ra lại vì chuyện Hòa Thị Bích rồi. Không biết hôm nay ta gặp vận đen gì nữa, nói tóm lại là chắc chắn ta phải gánh mối họa này rồi! Có điều hiện giờ ta có việc gấp phải làm, lại càng không muốn tự dâng mình đến miệng cọp, đợi khi nào ta làm rõ một số vấn đề, sẽ đến bái phỏng
Vương công sau được không?”.
Kinh Triệu Ninh chau mày nói: “Công tử nói vậy thật làm tại hạ khó xử quá, không mời được đại giá Khấu công tử, tại hạ làm sao ăn nói với Tri Thế Lang đây?”.
Khấu Trọng nổi cáu lên quát: “Bây giờ ta đã phiền tới sắp điên lên rồi, cả chuyện các hạ ăn nói thế nào cũng phải lo lắng hay sao? Có phải muốn bức tử ta không vậy?”.
Kinh Triệu Ninh bật cười nói: “Khấu công tử chớ nên động khí, tại hạ chỉ là muốn mời Khấu công tử đi gặp Tri Thế Lang, hoặc để Tri Thế Lang đến tìm công tử cũng được. Có gì không thỏa dáng, chúng ta ngồi lại nói chuyện cho thỏa đáng là xong. Chỉ cần chân thành đối đãi theo đung quy củ giang hồ thì có gì mà phải phiền não, có vấn đề gì mà không giải quyết nổi chứ?”.
Khấu Trọng thấy y không nổi cáu, trong lời nói lại có cả cứng lẫn mềm, bề ngoài thì khách khí hữu lễ, nhưng bên trong lại sắc bén như đao, trong lòng cũng không khỏi thầm khen lợi hại, ung dung mỉm cười nói: “Vương công uy vọng cao vời, tự nhiên tiểu đệ đây phải đến bái phỏng mới đúng. Kinh huynh đã nhắc đến quy củ giang hồ, vậy cũng phải biết nếu không có chứng cứ xác thực thì tuyệt đối không thể đổ chuyện Hòa Thị Bích bị đánh cắp lên đầu tiểu đệ đây chứ”.
Kinh Triệu Ninh cười ha hả đáp: “Khấu huynh thật lý thú. Vậy Kinh Triệu Ninh cũng không vòng vo tam quốc nữa, chúng tôi có hơn hai trăm nhân chứng, chỉ cần ba người cùng lúc hiện thân, tự nhiên sẽ có người đứng ra phân biệt chân giả. Phật môn không nói lời gian, lời của của các vị đại sư ở Tịnh Niệm Thiền Viện, chắc ba vị đều tin tưởng đúng không?”.
Khấu Trọng thầm kêu khổ, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra hết sức mừng rỡ, cười cười nói: “Vậy thì hay lắm, chân tướng cuối cùng cũng có thể lộ rõ. Trước hoàng hôn ngày hôm nay ba người chúng tôi sẽ đến bái kiến Vương công. Dám hỏi qúy thuyền của Vương công đang đậu ở bến cảng nào vậy?”.
Sau khi nghe Kinh Triệu Ninh nói ra địa điểm, Khấu Trọng thầm kêu khổ mấy tiếng rồi lướt đi như một làn khói.