Điệu Valse giã từ - Chương 5 phần 3

17.

Cơ thể không còn sức sống của Ruzena nằm trong một căn phòng nhỏ thường được dành cho bác sĩ trực đêm. Nhiều người bu lại đó, thanh tra hình sự cũng đã ở đó, ông ta vừa tra hỏi Frantisek và ghi lại lời khai. Frantisek thêm một lần nữa bỉêu lộ ý muốn bị bắt.
- Có phải anh đưa cô ấy viên thuốc này không, đúng hay không? – viên thanh tra hỏi.
- Không!
- Thế thì đừng nói là anh đã giết cô ấy.
- Cô ấy lúc nào cũng nói với tôi là sẽ tự tử - Frantisek nói.
- Tại sao cô ấy lại nói với anh là cô ấy sẽ tự tử?
- Cô ấy nói rằng cô ấy sẽ tự tử nếu tôi tiếp tục làm hại đời cô ấy. Cô ấy không muốn có đứa con. Rằng cô ấy thà tự tử còn hơn có đứa con!
Bác sĩ Skreta bước vào phòng. Anh thân mật chào viên thanh tra và lại gần người chết, anh lật lông mi để nhìn màu sắc đồng tử.
- Bác sĩ, anh là sếp của cô y tá này – viên thanh tra hỏi.
- Đúng thế.
- Anh có nghĩ là cô ấy dùng thuốc độc dễ lấy tại cơ sở của anh không?
Skreta lại quay về phía cái xác của Ruzena và bảo miêu tả chi tiết cái chết của cô. rồi anh nói:
- Tôi cho là cô ấy không thể lấy được thuốc hay chất độc nào tại các phòng kham của chúng tôi đâu. Chắc chắn đây là chất alcaloide. Loại nào, khám nghiệm tử thi sẽ cho biết.
- Nhưng làm thế nào mà cô ấy có thuốc đó được?
- Khó nói lắm.
- Lúc này, tất cả đều kỳ bí – viên thanh tra nói. – Mục đích cũng vậy. Người đàn ông trẻ tuổi này nói với tôi là cô ấy đang đợi một đứa con của anh ta và cô ta muốn phá thai.
- Chính thằng cha đó đã bắt buộc cô ấy làm thế đấy! – Frantisek kêu lên.
- Ai cơ? – viên thanh tra hỏi.
- Tay nghệ sĩ kèn trompet. Hắn muốn chiếm cô ấy của tôi và đã bắt cô ấy phá thai đứa con của tôi! Tôi đã theo dõi họ! hắn ta có mặt với cô ấy ở chỗ hội đồng.
- Tôi có thể khẳng định điều đó – Skreta nói – Chính xác là sáng nay chúng tôi đã xem xét một lá đơn xin phá thai của cô y tá này.
- Nghệ sĩ kèn có đến cùng cô ấy không? – Thanh tra hỏi.
- Có – Skreta nói – Ruzena đã tuyên bố đó là cha của đứa bé.
- Đó là một lời nói dối! Đứa con là của tôi! – Frantisek hét lên.
- Không ai nghi ngờ - bác sĩ Skreta nói – nhưng Ruzena cũng phải nhờ một người đàn ông đã có gia đình nhận làm bố đứa bé để hội đồng có thể cho phép chấm dứt mang thai.
- Vậy thì ông đã biết đó là một lời nói dối! – Frantisek hét lên với bác sĩ Skreta.
- Theo luật, chúng ta phải đặt lòng tin vào những gì người phụ nữ tuyên bố. Vì Ruzena nói với chúng tôi cô ấy mang thai của ông Klima và ông ấy cũng khẳng định những lời tuyên bố đó, không ai trong số chúng tôi có quyền nghĩ ngược lại hết.
- Nhưng ông không tin ông Klima là bố đứa trẻ chứ? – viên thanh tra hỏi.
- Không
- Ý kiến của ông dựa vào đâu?
- Ông Klima đến thành phố nước nóng này hai lần duy nhất, và đến rất ít thời gian. Ít có khả năng đã có quan hệ tình dục giữa ông ấy và cô y tá của chúng tôi. Khu điều trị nước nóng này là một thành phố quá nhỏ, nếu có chuyện gì thì tôi phải biết rồi. việc ông Klima nhận làm bố rất có khả năng là thủ thuật mà Ruzena đã thuyết phục ông ấy giúp cô để hội đồng cho phép phá thai. Quả thật, ông đây chắc chắn không đồng ý cho phá thai đâu.
Nhưng Frantisek không còn nghe thấy những gì Skreta nói nữa. Gã đứng trân trối đó, không nhìn thấy gì hết. Gã chỉ còn nghe thấy những lời của Ruzena "Anh sẽ khiến tôi phải tự tử mất, chắc chắn anh sẽ bắt tôi phải tự tử" và gã biết mình là nguyên nhân cái chết của cô, tuy thê' gã không hiểu tại sao tất cả dường như không thể giải thích nổi. Gã ở đó như một kẻ dã man đối mặt với một điều kỳ diệu, gã ở đó như ở trước một cái không thực, đột nhiên điếc đặc và mù loà bởi vì lý trí của gã không sao hình dung được cái không thể hiểu đang giáng xuống đầu gã.
(Frantisek khốn khổ của tôi, anh sẽ lạc lối suốt cuộc đời và anh sẽ không hiểu gì hết trừ việc tình yêu của anh đã giết chết người đàn bà mà anh yêu, anh sẽ mang theo sự chắc chắn đó như một dấu vết kinh rợn bí mật, anh sẽ lạc lối như một kẻ mắc bệnh cùi mang đến những thảm hoạ không thể giải thích với người mà hắn yêu, anh sẽ lạc lối cả đời như một nhân tố của bất hạnh).
Gã tái nhợt, gã đứng im lìm như một bức tượng muôi và thậm chí không nhìn thấy một người đàn ông khác, lảo đảo, vừa đi vào trong phòng, người mới đến lại gần người chết, nhìn cô rất lâu và vuốt tóc cô.
Bác sĩ Skreta thì thầm:
- Một vụ tự tử. Thuốc độc.
Người mới đến lắc đầu dữ dội:
- Một vụ tự tử à? Tôi có thể lấy đầu tôi ra mà thề rằng người phụ nữ này đã không tự kết liễu đời mình. Và nếu cô ấy uống thuốc độc, thì chỉ có thể là một vụ ám sát thôi.
Viên thanh tra ngạc nhiên nhìn người mới đến. Đó là Bertlef, và đôi mắt ông ta đang rực cháy một ngọn lửa giận dữ.
18.
Jakub xoay chìa khoá nổ máy xe. Anh đi qua những biệt thự cuối cùng của khu điêu dưỡng và đã đến một khung cảnh rộng lớn. Anh tiến về phía biên giới và không muốn vội vã. Ý nghĩ mình đang lăn bánh ở đây lần cuối cùng khiến khung cảnh trở nên thân thiết với trái tim anh và cũng lạ thường. Mỗi lúc anh lại có cảm giác mình không biết gì về nó, nó khác với những gì anh tưởng tượng và thật tiếc vì không thể ở đây lâu thêm được.
Nhưng ngay lập tức anh cũng tự nhủ rằng mọi chậm trễ, dù một ngày hay nhiều năm, cũng đều không thể nào thay đổi được gì với những cái giờ đang làm anh đau đớn, anh sẽ không thể biết được khung cảnh này một cách thân thiết hơn anh biết ngày hôm nay. Anh phải chấp nhận mình sắp rời bỏ nó mà không biết gì về nó, chưa uống được đến cạn kiệt những duyên dáng của nó, và anh sẽ rời bỏ nó vừa như một người mang nợ vừa như một chủ nợ.
Sau đó, anh nghĩ đến cô gái trẻ mà anh đã đưa cho viên thuốc độc tưởng tượng bằng cách tuồn vào tuýp thuốc, và anh tự nhủ sự nghiệp giết người của mình là ngắn ngủi hơn cả trong số các sự nghiệp khác. Mình đã là một kẻ giết người trong khoảng mười tám tiếng đồng hồ, anh tự nhủ, và mỉm cười.
Nhưng ngay lập tức, anh có một phản đối. Không đúng vậy, anh là kẻ giết người trong khoảng thời gian không ngắn như thế. Anh là kẻ giết người và vẫn sẽ là kẻ giết người cho đến khi chết. Bởi vì dù viên thuốc màu xanh nhạt có thuốc độc hay không, điều đó không quan trọng, mà quan trọng là anh đã tin điều dó và mặc dù tin điều đó anh vẫn đưa nó cho cô gái không quen và đã không làm gì để cứu cô ta.
Và anh bắt đầu nghĩ đến tất cả những điều đó với sự vô lo của một người hiểu là hành động của mình được đặt trên sân khấu thuần tuý kinh nghiệm chủ nghĩa.
Vụ giết người của anh thật lạ. Đó là một cuộc giết người không động cơ. Không có một lợi thế nào đó có lợi cho kẻ giết người để có thể làm mục đích. Ý nghĩa chính xác của nó là gì? Ý nghĩa duy nhất của cuộc giết người của anh rõ ràng là để anh biết mình là một kẻ giết người.
Cuộc giết người với tư cách là kinh nghiệm chủ nghĩa, hành động để hiểu biết chính mình, điều đó nhắc anh nhớ đến điều gì đó, phải, đó là Raskolnikov – nhân vật chính trong tiểu thuyết Tội ác và Trừng phạt của Dostoeievski – Raskolnikov đã giết người để biết liệu con người có quyền giết một người thấp kém hơn mình và liệu mình có đủ sức để chịu đựng cái chết đó không, qua cuộc giết người đó, anh đã tự tra vấn về bản thân.
Phải, có cái gì đó mang anh lại gần với Raskolnikov, sự vô ích của cuộc giết người, tính chất lý thuyết của nó. Nhưng vẫn có những khác biệt: Raskolnikov tự hỏi liệu con người tài năng có quyền hy sinh một cuộc đời thấp kém hơn nhân danh lợi ích của chính mình. Khi Jakub đưa tuýp thuốc cho cô y tá, trong đầu anh không có chút gì giống như vậy. Jakub không tự hỏi mình liệu con người có quyền hy sinh cuộc sống của một người khác không. Ngược lại, Jakub từ lâu nay vẫn đinh ninh rằng con người không có cái quyền đó, Jakub sống trong một thế giới nơi người ta hy sinh cuộc sống những người khác cho những tư tưởng trừu tượng. Jakub biết rõ bộ mặt những kẻ đó, bộ mặt lúc vô tội đến láo xược, lúc hèn nhát đến phát buồn tẻ, những bộ mặt đã thi hành với thế hệ sau, có xin lỗi, nhưng rất cẩn thận, một bản án mà chính họ cũng biết sự tàn bạo. Jakub biết rõ những bộ mặt đó, và anh căm ghét chúng. Ngoài ra, Jakub biết là tất cả mọi người đều muốn cái chết của một người khác và chỉ hai điều khiến hắn có thể khiến hắn không phạm phải tội giết người: nỗi sợ bị trừng phạt và khó khăn về mặt vật lý của việc giết người. Jakub biết là nếu tất cả mọi người đều có thể giết bí mật và từ xa, nhân loại sẽ biến mất trong vòng vài phút. Thế nên anh phải kết luận cái chủ nghĩa kinh nghiệm của Raskolnikov là thuần tuý hão huyền.
Nhưng thế thì tại sao anh lại đưa thuốc độc cho cô y tá? Đó không phải là một sự tình cờ hoàn toàn chứ? Raskolnikov quả thật đã sắp xếp và chuẩn bị rất lâu tội ác của mình, trong khi Jakub đã hành động dưới vỏ một sự thúc đẩy bột phát. Nhưng Jakub biết là cả anh cũng đã chuẩn bị cho cuộc giết người của mình một cách vô thức trong nhiều năm trời và cái giây phút mà anh đưa thuốc độc cho Ruzena là đường nứt nơi cả cuộc đời đã qua của anh, tất cả sự căm ghét con người của anh, như một cái đòn bẩy, chui xuống.
Khi Raskolnikov giết nhanh chóng một mụ cho vay lãi, biết rõ mình đang vượt qua một cái ngưỡng đáng sợ, anh ta biết là mình đang coi thường luật của Thượng Đế, anh ta biết rằng bà già dù không có giá trị gì cũng vẫn là một tạo vật của Chúa. Nỗi sợ mà Raskolnikov cảm thấy, Jakub không hề hay biết. Với anh, con người không phải là những tạo vật thần thánh. Jakub yêu sự tinh tế và lớn lao của tâm hồn, nhưng anh tự cho là chúng không hề là những phẩm chất của con người. Jakub biết rõ con người, chính vì thế nah không yêu họ. Jakub có tâm hồn lớn lao, chính vì thế anh đưa thuốc độc cho họ.
Thế thực ra mình là kẻ giết người vì có tâm hồn lớn lao, anh tự nhủ, và ý nghĩ đó anh thấy lố bịch và đáng buồn.
Raskolnikov, sau khi giết mụ cho vay lãi, không còn sức để chế ngự cơn bão khủng khiếp của hối hận. Trong khi Jakub, người trong tâm can tin là con người không có quyền hy sinh cuộc sống của người khác, lại không hề cảm thấy hối hận.
Anh thử tưởng tượng cô y tá thực sự chết để xem liệu mình có cảm giác phạm tội nào không. không, anh không thấy gì như thế hết. Anh đưa tâm trí bình tĩnh và yên ổn đi qua một miền đất mềm dịu và tươi cười đang chào anh.
Raskolnikov đã trải qua tội ác của mình như một bi kịch và cuối cùng đã gục ngã dưới sức nặng của hành động. Và Jalub ngạc nhiên vì hành động của mình nhẹ nhàng đến thế, không nặng nề chút nào, không hề đè nặng lên anh. Và anh tự hỏi nếu sự nhẹ nhàng đó lại không đáng sợ bằng những cảm giác lên cơn của nhân vật người Nga.
Anh đi chầm chậm và ngừng những suy nghĩ của mình để nhìn cảnh vật. Anh tự nhủ toàn bộ câu chuyện viên thuốc độc chỉ là một trò chơi, một trò chơi không hậu quả, như toàn bộ cuộc đời anh tại một đất nước mà anh không để lại chút dấu vết nào, không một sợi rễ nào, không một vệt nào phía sau và từ đó giờ đây anh ra đi như một ngọn gió, một búng không khí.
19.
Sau khi đã cho một phần tư lít máu, Klima sốt ruột hết sức đợi bác sĩ Skreta trong phòng chờ. Anh không muốn rời bỏ thành phố mà không từ biệt Skreta và nhờ anh chăm sóc Ruzena một chút. "Cho đến lúc phẫu thuật, tôi vẫn có thể thay đổi ý kiến". Anh vẫn còn nghe thấy những lời của cô y tá và chúng làm anh sợ. Anh e rằng sau khi mình đi, Ruzena sẽ thoát khỏi ảnh hưởng của mình và sẽ quay lại với quyết định đầu tiên.
Cuối cùng bác sĩ Skreta cũng xuất hiện. Klima lao về phía anh, chào tạm biệt và cảm ơn vì đã chơi trống rất hay.
- Đó là một buổi biểu diễn lớn đấy – bác sĩ Skreta nói – Ông đã chơi thật tuyệt. Miễn là chúng ta lại có thể bắt đầu nữa! Cần phải suy nghĩ cách tổ chức những cuộc biểu diễn như thế này ở các thành phố nước nóng khác.
- Đúng rồi, rất sẵn sàng, tôi đã rất hạnh phúc được chơi với các anh ở đây! – nghệ sĩ kèn nói vội vã và thêm vào – Tôi còn muốn nhờ anh thêm một việc nữa. Anh có thể chăm sóc Ruzena một chút không. Tôi sợ cô ấy lại nổi nóng. Phụ nữ thật là khó đoán trước.
- Cô ấy sẽ không nổi nóng đâu. Hiện tại, đừng lo gì hết – bác sĩ Skreta nói – Ruzena không còn sống nữa.
Mất một lúc Klima không thể hiểu nổi và bác sĩ Skreta giải thích điều gì đã xảy ra. Rồi anh nói:
- Đó là một vụ tự tử, nhưng dù sao cũng còn nhiều điểm khó hiểu. Vài người tò mò tại sao cô ấy tự kết liễu đời mình chỉ một giờ sau khi cùng anh đến hội đồng. Không, không, không, đừng lo ngại gì hết – anh nói tiếp và cầm lấy tay nghệ sĩ kèn trompekt vì thấy anh tái mặt đi – Thật may mắn cho anh, Ruzena có một tay bạn trai là một thợ máy trẻ, hắn cho rằng đứa con là của hắn. Tôi đã tuyên bố rằng giữa anh và cô ấy chưa từng có chuyện gì và cô y tá chỉ đơn giản là đã thuyết phục anh nhận làm bố đứa trẻ, vì hội đồng không chấp nhận cho phá thai khi cả hai bố mẹ còn độc thân. Thế nên đừng có cắn câu nếu người ta hỏi anh nhé. Anh đang nóng nảy, cái đó trông rất rõ ràng và rất đáng tiếc đấy. Anh cần nghỉ ngơi, bởi vì chúng ta còn rất nhiều buổi biểu diễn trước mặt nữa.
Klima mất hẳn khả năng nói. Nhiều lần anh cúi xuống trước bác sĩ Skreta, và nhiều lần anh nắm lấy tay anh ta. Kamila đợi anh trong căn phòng khách sạn. Klima ôm cô trong vòng tay không nói năng gì và hôn lên má cô. Anh hôn từng nơi một trên khuôn mặt cô, rồi anh quỳ xuống và hôn chiếc váy, từ trên xuống dưới cho đến đầu gối.
- Anh làm sao thế?
- Không sao. Anh chỉ thấy hạnh phúc làm sao khi có được em. Anh hạnh phúc làm sao vì có em trên đời.
Họ nhét đồ đạc vào túi du lịch và đi ra xe. Klima nói anh mệt và bảo cô lái xe.
Họ đi trong im lặng. Klima, thật sự kiệt sức, nhưng lại cảm thấy một sự nhẹ nhõm lớn lao. Anh vẫn hơi lo lắng với ý nghĩ mình có thể bị thẩm vấn. Thế thì Kamila sẽ biết phong phanh chuyện gì đó. Nhưng anh tự nhắc đi nhắc lại những gì bác sĩ Skreta đã nói với anh. Nếu người ta thẩm vấn anh, anh sẽ đóng vai người vô tội (và khá tầm thường tại cái đất nước này) của con người ga lăng đã tự nhận mình là bố đứa bé để giúp đỡ người khác. Sẽ không ai trách anh về điều đó, ngay cả Kamila nếu tình cờ cô biết được.
Anh nhìn cô. Vẻ đẹp của cô choán đầy không gian nhỏ hẹp của chiếc xe như một thứ nước hoa mạnh. Anh tự nhủ trong suốt cuộc đời mình sẽ chỉ còn muốn hít thứ nước hoa này mà thôi. Rồi anh tin mình nghe thấy tiếng nhạc xa xăm và dịu dàng của chiếc kèn trompet của anh và anh tự hứa cả đời sẽ chơi thứ nhạc đó chỉ để vui lòng người đàn bà này, duy nhất và thân thiết nhất
20.
Mỗi lần cầm tay lái, cô lại cảm thấy mạnh mẽ hơn và độc lập hơn. Nhưng lần này, không chỉ bánh lái cho cô sự bảo đảm. Đó còn là lời nói của người lạ mặt gặp ở hành lang khách sạn Richmond. Cô không thể quên chúng được. Và cô không thể quên khuôn mặt người đó, nam tính hơn rất nhiều khuôn mặt nhẵn lỳ của chồng cô. Kamila nghĩ là cô chưa từng biết đến người đàn ông nào xứng đáng với danh hiệu đàn ông hơn thế.
Cô nhìn ngang khuôn mặt mệt mỏi của nghệ sĩ kèn trompet, trên đó lúc nào cũng thường trực những nụ cười vô hồn khó hiểu, trong khi bàn tay anh vuốt ve âu yếm vai cô.
Sự dịu dàng quá mức này không làm cô thích thú và không cham được đến cô. Bởi vì nó đang có những điều không thể giải thích, nó chỉ khẳng định thêm một lần nữa là nghệ sĩ kèn có bí mật nào đó đang giấu cô, và cô không được chấp nhận ở đó. Nhưng lúc này, việc nhận ra điều đó, nhẽ ra phải làm cô đau khổ, cô lại thấy thờ ơ.
Người đàn ông đó đã nói gì? Rằng anh ra đi mãi mãi. Một nỗi hoài nhớ dài và dịu dàng bóp lấy tim cô. Không chỉ hoài nhớ về người đàn ông đó mà còn là về cái cơ hội đã mất đi. Và không chỉ cơ hội đó, mà còn là cơ hội bản thân cô. Cô hoài nhớ tất cả những cơ hội mà cô đã để trôi qua, mất đi, mà cô đã bỏ lỡ, ngay cả những cơ hội mà cô chưa từng bao giờ có.
Người đàn ông đó nói là cả đời mình anh đã sống như một kẻ mù quáng và thậm chí anh không ngờ là cái đẹp có tồn tại. Cô hiểu anh. Bởi vì cô cũng vậy. Cô cũng sống trong sự mù qúang. Cô chỉ nhìn thấy một con người duy nhất, dưới ngọn đèn pha của lòng ghen tuông. Và điều gì sẽ xảy ra nếu ngọn đèn đó đột nhiên tắt ngấm? Trong ánh sáng mờ ảo của ngày hàng nghìn những người khác hiện lên, và con người mà cho đến giờ cô vẫn tin là người duy nhất trên đời bỗng chốc chỉ còn là một người trong số rất nhiều người.
Cô cầm lái, cảm thấy tự tin và đẹp, và vẫn tự nhủ, có phải thực sự tình yêu đã kéo cô đến với Klima hay chỉ là nỗi sợ mất anh? Và nếu nỗi sợ lúc đầu mang hình dáng sợ hãi của tình yêu, thì có phải theo thời gian tình yêu (mệt mỏi và kiệt sức) không thoát khỏi được hình dáng đó nữa? Có phải cuối cùng chỉ còn lại nỗi sợ đó, một nỗi sợ không đi cùng với tình yêu? Và sẽ còn lại gì nếu cô mất nốt nỗi sợ đó?
Nghệ sĩ kèn trompet, bên cạnh cô, mỉm cười khó hiểu.
Cô quay về phía anh và tự nhủ nếu cô ngừng ghen tuông thì sẽ không còn lại gì hết cả. Cô lao nhanh, cô nghĩ ở đâu đó trước mặt trên con đường cuộc đời, một đường nét đã được vạch sẵn mang ý nghĩa là sự đoạn tuyệt với nghệ sĩ kèn. Và lần đầu tiên ý nghĩ đó không làm cô sợ hãi lẫn hoảng hốt.
21.
Olga đi vào căn hộ của Bertlef và xin lỗi:
- Xin lỗi vì đường đột vào nhà ông. Nhưng tôi đang ở tâm trạng không thể ở một mình được. Đúng thế, tôi không làm phiền các ông chứ?
Trong căn phòng có Bertlef, bác sĩ Skreta và viên thanh tra, thanh tra trả lời Olga:
- Cô không làm phiền đâu. Cuộc trò chuyện của chúng tôi không hề có tính chính thức nào hết.
- Ông thanh tra là bạn thân của tôi – bác sĩ Skreta giải thích với Olga.
- Thưa các ông, tại sao cô ấy lại làm thế? – Olga hỏi.
- Cô ấy đã cãi lộn với bạn trai, và nhẽ ra phải cãi nhau thì cô ấy lại tìm kiếm một cái gì đó trong túi và đã uống một viên thuốc độc. Chúng tôi không biết gì hơn và tôi e rằng chúng tôi sẽ không bao giờ biết gì hơn – thanh tra trả lời.
- Thưa ông thanh tra – Bertlef nói chắc nịch – tôi xin ông để ý đến những gì tôi đã nói trong lời khai của tôi. Tôi đã ở đây, chính đây, cùng với Ruzena, đêm cuối cùng của đời cô ấy. Có lẽ tôi đã không nhấn đủ mạnh đến cái chính yếu. Đó là một đêm tuyệt vời và Ruzena đã vô cùng hạnh phúc. Cô gái kín đáo đó chỉ cần vứt bỏ vòng gò bó trong đó những người xung quanh thờ ơ và cáu kỉnh nhốt cô ấy vào để trở thành thơm con người rạng ngời đầy tình yêu, tinh tế và tâm hồn đẹp, con người mà các ông không thể ngờ được ở trong cô ấy. Tôi khẳng định với các ông là, đêm hôm qua, tôi đã mở cho cô ấy cánh cửa của một cuộc sống khác và chính hôm qua cô ấy đã bắt đầu muốn sống. Nhưng sau đó, ai đó đã ngáng ngang đường... – Bertlef nói, đột nhiên trở nên suy nghĩ, và hạ giọng nói thêm – Tôi cảm thấy ở đây có sự can thiệp của địa ngục.
- Cảnh sát hình sự không quan tâm lắm đến các thế lực địa ngục – thanh tra nói.
Bertlef không nhận ra sự châm chọc đó.
- Giả thuyết tự tử đúng là không hề có ý nghĩa, - ông nói tiếp – các ông hãy hiểu đi, tôi xin các ông đấy! Cô ấy không thể tự giết mình vào đúng lúc cô ấy muốn bắt đầu được sống! Tôi nhắc lại điều đó với các ông, tôi không chấp nhận người ta kết tội cô ấy tự tử.
- Thưa ông thân mến, - thanh tra nói – không ai kết tội cô ta tự tử cả, vì lý do tự tử là không phải là một tội ác. Tự tử không phải là việc liên quan đến cảnh sát. Đó không phải là việc của chúng tôi.
- Đúng – Bertlef nói – với ông tự tử không phải là một lỗi bởi vì với ông cuộc sống không có giá trị. Nhưng tôi, thưa ông thanh tra, tôi không biết ngoài đó ra còn có tội lỗi nào lớn hơn. Tự tử là cách giết người tồi tệ nhất. Người ta có thể giết người để trả thù hoặc vì tham lam, nhưng ngay cả tham lam cũng là biểu hiện một tình yêu ngược đời với cuộc son. Nhưng tự tử, đó là ném cuộc sống dưới chân Chúa, như một sự nhạo báng. Tự tử, đó là nhổ vào mặt đấng Sáng tạo. Tôi nói với các ông là tôi sẽ làm tất cả để chứng minh rằng cô gái đó vô tội. Bởi vì các ông nhất định nói là cô ấy đã tự kết liễu đời mình, hãy giải thích cho tôi là tại sao? Các ông đã phát hiện được lý do nào rồi?
- Các lý do của tự tử luôn luôn huyền bí – thanh tra nói – Thêm nữa, tìm kiếm chúng không thuộc trách nhiệm của chúng tôi. Đừng bắt tôi làm thêm việc. Tôi đã có quá nhiều việc, và tôi chỉ có đủ thời gian để thực hiện chúng thôi. Hồ sơ dĩ nhiên chưa đóng, nhưng tôi có thể nói trước với ông là tôi không nghiêng về giả thuyết có bàn tay kẻ giết người ở đây.
- Tôi ngưỡng mộ - Bertlef nói giọng rất cay nghiệt – tôi ngưỡng mộ sự nhanh chóng mà ông đi theo dấu vết về một cuộc đời một con người.
Olga nhận ra viên thanh tra mặt đỏ phừng phừng. Nhưng ông tự kiểm soát được mình và nói, sau một lúc im lặng, giọng khá thân thiện:
- Tốt lắm, thế thì tôi đồng ý giả thuyết của ông, nghĩa là đã có một vụ giết người. Thế thì chúng ta phải hỏi nó đã được thực hiện thế nào. Chúng tôi đã tìm thấy một tuýp thuốc an thần trong túi nạn nhân. Người ta có thể giả thiết rằng cô y tá muốn lấy một viên thuốc để trấn an, nhưng ai đó đã luồn một viên thuốc khác có cùng hình dáng và có chứa thuốc độc vào tuýp thuốc đó.