Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 04-P3

Tôi rút vài tờ giấy từ máy in ra. Đó là một danh sách với tiêu đề “Quà Noel đã nhận được.” Một, hai, ba, bốn, năm, sáu trang giấy in nhỏ sít, mỗi dòng một tên người tặng và nội dung đồ tặng. Cả thảy 256 món quà. Trông như danh mục quà tặng đám cưới Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị vậy. Tôi đọc thấy hộp phấn trang điểm Bobby Brown, đích thân Bobby Brown tặng, một túi đầm (làm riêng độc bản!) bằng da, hiệu Kate Spade, do Kate và Andy Spade gửi đến, một sổ ghi lịch công tác bìa da màu huyết dụ từ Bond Street sang trọng do Graydon Carter biếu, một túi nngủ lót lông chồn của Miuccia Prada, một vòn gtay Verdura của Aerin lauder, một đồng hồ nạm kim cương của Donatella Versace, một hòm sâm banh của Cynthia Rowley, một áo con đính ngọc cộng với túi đầm cùng bộ của Mark Badgley và James Mischka, một bộ sưu tập bút Cartier của Irv Ravitz, một ống bao tay lông sócVora Wang, một áo khoác in sọc ngựa vằn của Alberto Ferretti, một cái chăn len cashmere Burberry của Rosemarrie Bravo. Đó mới chỉ là đoạn đầu. Còn cả một lô tí xách đủ màu đủ kiểu đủ cỡ của Herb Ritts, Bruce Weber, Giselle Bundchen, Hillary Clinton, Tom Ford, Calvin Klein, Annie Leibovitz, Nicole Miller, Adrienne Vittadini, Michael Kors, Helmut Lang, Giorgio Armani, John Sahag, Bruno Magli, Mario Testino, và Narcisco Rodriguez, chỉ để gọi ra vài tên lấy lệ. Thêm vào đó là hàng mấy chục khoản quyên góp mang tên Miranda gửi đến các tổ chức từ thiện, mấy trăm chai vang và sâm banh, tám đến mười túi hiệu Dior, vài tá nến thơm, mấy đồ gốm phương Đông, pijama tơ tằm, sách bọc bìa da, mỹ phẩm phòng tắm, sôcôla, vòng tay, trứng ca, áo len cashmere. ảnh đóng khung, vô số hoa và cây cảnh đủ để trang trí cho những đám cưới tập thể 500 đôi uyên ương tại sân vận động như vẫn thấy ở Trung Quốc. Lạy chúa! Tôi cấu vào tay mình xem mê hay tỉnh. Có thật là mình đang làm viẹc cho một bà sếp vừa nhận 256 món quà Noel của những người nổi tiếng nhất địa cầu? Ít nhất thì tôi cũng cho rằng họ rất nổi tiếng. Tất nhiên là tôi đâu có biết hết tất cả tên tuổi ấy, trừ mấy người quan trọng và các nhà tạo mốt. Cũng không biết phần còn lại là tên của những ngệ sĩ nhiếp ảnh, chuyên gia trang điểm, người mẫu, VIP và một loạt giám đốc điều hành có ảnh hưởng lớn của Elias Clark. Trong lúc tôi tự hỏi liệu Emily có biết tất cả những người đó ai là ai hay không, thì cô quay về phòng. Tôi giả bộ không đọc mấy tờ danh sách, nhưng cô cũng chẳng để tâm.

“Có kinh khủng không cơ chứ? Miranda quả là người đàn bà siêu hạng.” cô trầm trồ, vồ lấy tập giấy trên bàn và chằm chằm ngó với ánh mắt cảm thán không sao tả xiết. “Chị đã bao giờ được thấy thứ gì tuyệt diệu hơn chưa? Đây là danh sách của năm ngoái. Tôi chỉ in ra để mường tượng còn những việc gì phải làm nữa. Nhưng món quà đầu tiên đã tới rồi. Một trong những mặt hay nhất của công việc ở đây là được mở tất cả các gói quà ra.” Tôi bối rối. Tại sao chúng tôi lại mở quà của Miranda ra, mà bà ấy không tự làm lấy? Một cấu hỏi không kìm lại được.

“Chị có vấn đề về thần kinh không hả? Chín mươi phần trăm chỗ quà này đằng nào Miranda cũng không ưa. Một vài thứ quà thì chẳng khác gì chửi vào mặt người nhận, tôi không muốn cho bà ấy nhìn thấy. Như cái này này,” cô nói và nhặt ra một chiếc hộp nhỏ. Trong đó là một chiếc điện thoại không dây kéo dài hiệu Bang & Olufsen màu bạc mờ, nằm gọn trong tay và có thể sử dụng xa máy mẹ đến 3.000 cây số. Chính tôi cách đây mấy tuần đã vào một cửa hàng Bang & Olufsen để chứng kiến Alex rỏ dãi ngắm một dàn stereo, vì vậy tôi biết nó có giá tối thiểu 500 dollar và cực kỳ nhiều công dụng – ngoài khả năng tự gọi đi hộ người sử dụng. “Điện thọai! Chị có tưởng tượng ra ai đó dở hơi đến mức tặng Miranda Priestly một chiếc điện thoại?” Cô quẳng nó cho tôi. “Chị thích thì giữ lấy mà dùng. Tôi không dám để Miranda nhìn thấy nó, bà ấy nổi xung lên ngay khi người nào tặng đồ dùng điện tử.” Emily phát âm chữ “điện tử” như một từ đồng nghĩa với thổ tả vậy. Tôi đút hộp điện thoại xuống dưới bàn mình và cố nén cười. Quá may mắn! Máy điện thoại kéo dài đang nằm trong danh sách những thứ tôi cần cho căn phòng mới, đã vậy cái máy 500 dollar này lại còn miễn phí nữa chứ.

“Này” Emily nói tiếp và ngồi xệp xuống sàn nhà. “Chúng mình gói thêm ít chai rượu vang nữa. Vài tiếng nữa xong việc thì chị có thể mở các gói quà mới đến hôm nay. Đống bên kia kìa.” Cô chỉ sang một núi nho nhỏ sau bàn mình, toàn những hộp, túi và giỏ bảy sắc cầu vồng.

“Còn đây là quà của Miranda mà mình sẽ gửi đi, đúng không?” Tôi hỏi và nhặt một hộp lên, gói vào tấm bìa trắng. “Phải. Năm nào cũng thế. Các vị chiếu trên được nhận một chai Dom Pérignon, đó là các thành phần trong ban giám đốc của Elias Clark và các nhà tạo mốt mà Miranda không thân, cả luật sư và cố vấn thuế của bà ấy nữa. Tầng giữa được một chai Veuve Clicquot, đa số thuộc vào lớp này - thầy giáo của hai đứa sinh đôi, thợ làm tóc, lái xe, vân vân. Lớp vô danh nhận một chai Ruffino Chianti - thường là bộ phận quảng cáo, bá sĩ thú y, mấy cô trông trẻ hay thế chỗ cho Cara, nhân viên bán hàng ở các cửa hiệu Miranda hay đến, và nhân viên chăm sóc nhà nghỉ ở Connecticut. Đầu tháng Mười một là tôi đặt mua mấy thứ này, hết khảng 25000 dollar, Elias Clark trả tiền và nhà Shery-Lehman cung cấp hàng, và mất chừng một tháng để gói quà. May mà Miranda hiện giờ không có mặt ở văn phòng, không thì mình phải đem hết về gói ở nhà.”

“Tôi đoán là nếu đề nhà Sherry-Lehman gói hàng thì sẽ đắt gấp đôi, đúng không?” Tôi vẫn ngạc nhiên về thứ hạng của những người nhận quà.

“Thì dính gì đến mình?” Emily làu bàu. “Tin tôi đi, chị sẽ nhanh chóng học một điều là tiền nong ở đây không đóng vai trò gì cả. Mà Miranda không thích loại giấy gói hàng của công ty cung cấp. Năm ngoái tôi đã gửi họ giấy gói màu trắng này, nhưng tự gói lấy trông vẫn tử tế hơn.” Cô nói đầy hãnh diện.

Chúng tôi cứ thế gói ghém đến gần sáu giờ tối. Emily giảng giải cho tôi những việc cần làm ở cái chốn lạ lùng và lý thú này. Trong lúc cô tả cho tôi biết chính xác cách uống cafê của Miranda (café sữa với hai viên đường mía) thì một cô gái tóc vàng – tôi nhớ cô ta thuộc vào đám trợ lý thời trang - hớt hải khuân vào một giỏ đan bằng liễu gai to như xe đẩy trẻ con. Trước cửa phòng Miranda cô khựng lại, cứ như sợ lớp thảm mềm màu ghi dưới thành cát trượt dưới gót đôi Jimmy Choo nếu cô cả gan bước qua ngưỡng cửa.

“Hello Emily, tôi vừa lấy được chỗ váy về. Xin lỗi vì hơi lâu, nhưng trước lễ Tạ ơn chẳng gặp được ai cả. Hy vọng các cậu tìm ra được món nào làm sếp vừa lòng.” Cô ngó xuống chiếc giỏ chất đầy váy.

Emily nhìn cô ta, không giấu vẻ khinh bỉ. “Đặt giỏ lên bàn tôi. Tôi sẽ trả lại những đồ không được chọn. Tôi đoán là sẽ trả lại gần hết chỗ này, gu của cô thì tôi biết rồi.” Câu cuối cô khẽ nói thêm, chỉ đủ để tôi nghe thấy.

Cô tóc vàng lúng túng ra mặt. Nhất định cô không phải loại trợ lý có đầu óc xuất chúng, nhưng trông cô dễ mến. Tôi ngạc nhiên, tại sao Emily ghét cô ta ra mặt như thế. Hôm nay là một ngày dài, chạy khắp thành phố làm những việc vặt, hàng trăm khuôn mặt và danh tính mà tôi cố nhớ. Thôi không hỏi nữa.

Emily chống nạnh đứng nhìn cái giỏ to tướng trên bàn mình. Vẫn ngồi rtên nền nhà trong văn phòng Miranda nhưng tôi cũng nhận ra ít nhất hai mươi lăm cái váy bằng đủ loại vải, màu sắc và kích cỡ. Miranda không nói rõ là bà muốn loại nào cụ thể? Có thật là bà không báo cho Emily biết dùng váy vào dịp nào – màu đen để đi ăn tôi, hay để chơi tennis hoặc đơn giản trùm lên bikini khi đi bơi về? Bà ưa vải bò, hay nhung the hợp hơn? Làm sao chúng tôi đoán được chính xác bà muốn gì?

Câu trả lời không phải đợi lâu. Emily khuân cái giỏ đan vào phòng Miranda và nhẹ nhàng, kính cẩn đặt nó xuống nền thảm mềm cạnh tôi. Cô ngồi thụp xuôntgs và bắt đầu lần lượt trải từng chiếc váy thành một vòng xung quanh người.

Bộ sưu tập quả là đáng nể: một chiếc váy sợi móc màu hoa vân anh rực rỡ của Celine, một váy quấn màu xám ngọc của Calvin Klein, một chiếc váy da đính cườm đen dọc gấu do chính tay Oscar de la Renta làm. Váy đỏ, váy mộc, váy màu tím oải hương, cái thì có đăng ten cái thì làm bằng len cashmere. Một số dài đến mức đủ chấm mắt cá, ại có mấy cái ngắn tũn như áo con có gấu chùng. Tôi áp lên mình một chiếc váy lụa nâu dài đến bắp chân, hẹp ngang đến nỗi chỉ vừa đủ quấn quanh một bắp đùi tôi. Cái tiếp theo mà tôi nhặt ra từ đống avý là một dòng xoáy bằng vải tuyn và nhung the phủ đến tận đất, trông như để mặc đi vũ hội ngoài trời ở Charleston. Một chiếc váy bò mài đi kèm với thắt lưng da nâu to bản, một chiếc khác may bằng vải nhàu màu bạc mỏng như giấy. Tôi ngây ngất cả người.

“Trông có vẻ như Miranda rất khoái mặc váy” tôi nói, vì chẳng có gì đáng nói hơn.

“Thật ra thì không. Miranda hơi bị nghiện dùng khăn.” Emily tránh ánh mắt của tôi, cứ như là cô vừa tự thú mình bị hắc lào. “Đó là một trong những điểm riêng đáng yêu của Miranda mà chị nên biết.”

“Hay nhỉ!” Tôi nói, cố tạo ra vẻ thích thú chứ không phải kinh ngạc. Nghiện khăn? Tôi chú trọng quần áo, túi xách và giày, như hàng nghìn cô gái khác xung quanh, nhưng không thể goi đó là “nghiện” được. Và cách Emily nói ra điều ấy chứng tỏ có gì đó không bình thường.

“Miranda nhất định cần cái váy này cho một dịp đặc biệt, nhưng khăn mới là thứ bà ấy mê. Khăn cũng giống như danh thiếp của Miranda vậy.” cô nhìn tôi. Chắc thấy mặt mũi tôi thộn ra nên cô nói tiếp: “Chị không nhớ hôm đến đây phỏng vấn à?”

“Có chứ.” Tôi vội vàng trả lời, linh cảm là tốt nhất không cho Emily biết rằng bữa phỏng vấn tôi chỉ nhớ được tên Miranda là cùng, chứ đâu để ý là bà ấy mặc gì. “Nhưng tôi không nhớ đến cái khăn nào.”

“Miranda không bao giờ đi đâu mà lại thiếu một chiếc khăn Hermès trắng, không bao giờ. Thường là quàng cổ, nhưng đôi khi bà ấy bảo thợ làm tóc tết lẫn vào búi tóc, hay lấy khăn làm thắt lưng. Như danh thiếp của mình vậy. Mọi người đều biết là Miranda luôn có trên người một chiếc khăn Hermès trắng. Thế mới tuyệt chứ.”

Đột nhiên tôi nhận ra là Emily cũng có một chiếc khăn xanh xỏ qua các đỉa quần túi hộp của mình. lấp ló dưới gấu T-shirt trắng.

“Đôi lúc Miranda thích pha trộn, tôi đoán là lần này cũng thế. Nhưng cái bọn ngu xuẩn bên bộ phận thời trang không bao giờ hiểu nổi bà ấy thích gì. Nhìn cái của nợ này xem, có kinh không cơ chứ!” Cô nhón tay giơ lên một chiếc váy đẹp kinh hồn, trông nó lịch sự hơn những chiếc khác một chút, điểm chấm vàng lấp lánh trên nền nâu nhạt.

“Quá đúng.” Tôi phụ họa, cốt làm sao để dứt dòng buôn chuyện của Emily, “trông khiếp quá đi mất.” Cái váy rất đẹp, tôi sẵn sàng mặc nó hôm đám cưới của mình.

Emily vẫn lải nhải nói tiếp về loại vải và kiểu cắt, về những nhu cầu và sở thích của Miranda, thỉnh thoảng chen câu bình luận khinh miệt về một đồng nghiệp. Rốt cuộc cô quyết định chọn ba chiếc váy hoàn toàn khác kiểu nhau để gửi cho Miranda, trong lúc luôn mồm nói không nghỉ lấy một tích tắc. Tôi cố lắng tai nghe, nhưng lúc đó đã gần bảy giờ tối và tôi không rõ mình sắp chết đói, kiệt quệ thần kinh hay lả ra vì mệt. Chắc là cả ba triệu trứng cùng lúc. Tôi đờ ra đến nỗi không hề nhận thấy có một người đàn ông to lớn đến kinh dị vừa bước vào phòng.

“CÔ KIA!” Đột ngột có tiếng nói đâu đó sau lưng tôi. “ĐỨNG DẬY CHO TÔI XEM MẶT CÔ!”

Tôi quay phắt lại và nhìn thấy một người đàn ông cao hơn hai mét, da rám nâu, tóc đen, đang chỉ thẳng vào mặt tôi. Ông ta không chỉ cao mà còn to ngang, với tấm thân trên ngót tạ rưỡi như chực xé bung bộ áo liền quần bằng vải bò. Lạy Chúa! Đúng là ông ta mặc bộ áo lièn quần. Đúng thế, bằng vải bò, bó sát người, thắt lưng, tay xắn cao. Lại còn khăn nữa! Một chiếc khăn lông to bằng cả cái chăn quấn quanh cổ trâu. Đôi chân to như voi dận trong ủng quân sự màu đen bóng lộn to bằng cái tiểu sành. Trông ông ta chừng ba mươi alưm tuổi, nhưng với dáng vạm vỡ, nước da nâu và quai hàm bạnh ra người ta dễ đoán già thêm mười tuổi hay trẻ đi năm năm. Ông ta hất tay ra hiệu cho tôi đứng dậy. Tôi làm theo. Trong khi tôi không rời mắt ngạc nhiên nhìn thì ông kiểm tra tôi kỹ lưỡng.

“AHA, XEM AI VÀO LÀM Ở ĐY NÀÀÀO,” ông ta gào lên, tuy giọng lại the thé chua cả tai. “CÔ BÉ XINH ĐẤY, NHƯNG QUÊ QUÁ. QUẦN ÁO THÌ QUÊN KHẨN TRƯƠNG!”

“Tôi là Andrea, trợ lý mới của Miranda.”

Ông đảo mắt quét dọc người tôi, thẩm tra từng phần một. Emily quan sát tấn trò với nụ cười giễu cợt. Im lặng đến khó chịu.

“ỦNG CAO CỔ? ĐI CÙNG VÁY DÀI ĐẾN GỐI? CÔ ĐỊNH TRÊU TÔI HẢ? CƯNG NÀY, NẾU CÔ LỠ MẮT BỎ QUA, HAY NẾU CÔ KHÔNG NHÌN THẤY TẤM BIỂN ĐEN TO TƯỚNG NGOÀI CỬA – ĐY LÀ TẠP CHÍ RUNWAY, TẠP CHÍ THỜI TRANG SIÊU ĐẲNG NHẤT QUẢ ĐẤT. NHẤT QUẢ ĐẤT, NGHE CHƯA? NHƯNG KHÔNG SAO, BÉ Ạ, NIGEL NÀY SẼ KHẨN TRƯƠNG GIẢI PHÓNG CÔ KHỎI BỘ ĐỒ SIDA NÀY.”

Ông đặt hai bàn tay to tướng lên hông và xoay người tôi lại, tôi nhận rõ ánh mắt của ông tia lên mông và đùi.

“THẬT KHẨN TRƯƠNG, BÉ Ạ. TÔI HỨA VẬY, VÌ PHẦN THÔ CỦA CÔ TỐT ĐẤY. CHN DÀI, TÓC ĐẸP, VÀ KHÔNG BÉO. CÓ THỂ CẢI TẠO ĐƯỢC. KHẨN TRƯƠNG BÉ Ạ.”

Lẽ ra tôi phải thấy mình bị xúc phạm và hất tay ông ta ra khỏi eo lưng mình, để nghĩ xem tại sao con người lạ hoắc này - chắc là cộng tác viên - lại bỗng dưng vô tư đưa ra những lơqì nhận xét thành thật về dáng người và quần áo của mình. Nhưng tôi không phản ứng gì. Tôi đưa cặp mắt xanh lá cây thân thirnj lúc nào cũng như đang cười giễu, hơn thế nữa, tôi sung sướng đã qua kỳ sát hạch. Trước mặt tôi là Nigel - một cái tên như Madonna hay Prince – ông vua thời thời trang mà tôi dã biết amựt trên tivi, trong các tạp chí và bài viết ở mục xã hội, khắp nơi, và ông ấy khen tôi xinh. Và nói là tôi chân dài! Tôi lờ đi lời nhận xét về quần áo sida. Tôi rất có cảm tình với ông ta.

Sau lưng tôi, Emily xin ông đừng quấy quả tôi nữa vì chúng tôi đang bận, nhưng tôi không muốn ông ta bỏ đi. Qua muộn, Nigel đã đi ra phía cửa, chiếc khăn lông thú phất phới bay. Tôi không kịp nói ra là tôi rất vui mừng được làm quen ông, tôi không hề bị xúc phạm bởi những gì ông nói và rất sung sướng được ông “tân trang” lại. Chợt Nigel quay lại, tiến hai bước dài như cú nhảy xa của người bình thường. Sừng sững trước mặt tôi, ông dang hai cánh tay lực lưỡng ôm chầm lấy tôi và xiết chặt. Đầu tôi chỉ chạm ngực ông, và tôi ngửi thấy hương thơm không thể lẫn được của kem thoa da trẻ con Johnson. Tôi cũng tỉnh táo ôm lại, nhưng ông đã đẩy tôi ra, chụp gọn lỏn tay tôi mà lắc và kêu the thé:

“BÉ CƯNG, HÃY VUI LÊN ĐI TRONG NHÀ BÚP BÊ!”