Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 04-P2

Đám phụ nữ, hay gọi cho đúng là “Girl”, mỗi người đẹp một kiểu riêng. Nhìn chung phải nói là mê hồn. Đa số trông như khoảng hai mươi lăm tuổi, ít ai quá ngưỡng ba mươi lấy một ngày. Hầu như ai cũng mạng hạt xoàn khủng khiếp ở ngón đeo nhẫn - dấu hiệu đã thành hôn – song không thể tưởng tượng trong số họ đã có ai từng sinh nở, kể cả trong quá khứ lẫn tương lai xa xôi. Đi ra lượn vào, họ lướt yểu điệu trên những gót giầy mười phân lênh khênh, bay tới bên bàn tôi, chìa bàn tay trắng như sữa với bộ móng dài mài giũa cẩn thận và tự giới thiệu là “Jocelyn, làm cùng chỗ Hpoe”, “Nicloe ở bộ phận thời trang” và "Stef, phụ trách thời trang”. Người duy nhất dưới 1.80 mét là Shayna, mảnh mai đến mức có cảm giác cô không thể mang thêm lấy một phân chiều cao nào nữa. Không ai mang quá 50kg lên bàn cân.

Tôi ngự trên chiếc ghế xoay và cố nhớ hết tên mọi người, đột nhiên cô gái đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời bước vào. Cô mắc một chiếc áo len cashmere hồng, trong như dệt bằng những đám mây. Suối tóc trắng đến sửng sốt chảy tràn xuống lưng. Trông cô gầy đến mức khó tin có đủ sức đứng vững, song cô di chuyển với dáng vẻ yểu điệu của một vũ nữ. Gò má cô sáng hồng, và hột kim cương trong vắt nặng đến mấy cara trên chiếc nhẫn đính hôn tỏa ánh lấp lánh vô thường. Tựa như đã nhận ra tôi ngó chòng chọc vào viên kim cương, cô gí sát tay vào mũi tôi.

“Tự sáng tác đấy” cô tuyên bố trong khi mỉm cười với bàn tay mình và nhìn vào mắt tôi. Tôi đưa mắt dò sang hỏi Emily, nhưng cô ta lại bận nói điện thoại. Tôi tưởng cô gái mới vào ám chỉ viên kim cương mà cô tự thiết kế, nhưng cô nói ngay: “Màu quá lộng lẫy, đúng không? Một lớp Marshmallow và một lớp Ballet Sliper, đúng ra là sơn Ballet Sliper trước rồi đè lớp sơn phủ lên. Tuyệt đỉnh - lấp lánh như thế mà trông không như sơn bằng White Out. Tớ nghĩ là từ giờ trở đi tớ chỉ chọn màu này mỗi khi đi chăm sóc móng tay!” Nói xong cô quay gót và lướt ra khỏi phòng. Vâng, rất hân hạnh được làm quen, tôi gửi theo một câu chào nhẩm trong óc tới tấm lưng cô nàng đang oai vệ bước ra ngoài.

Gặp gỡ các cộng tác viên kể cũng vui; trông ai cũng có vẻ dễ mến và thân thiện, trừ cô nàng dở hơi say mê sơn móng tay ai cũng tỏ ra thích thú làm quen với tôi. Emily không rời tôi một bước, cô tận dụng mọi cơ hội để chỉ bảo công việc. Cô giảng giải cho tôi hay, ai thực sự quan trọng, ai không được phép làm mếch lòng, ai nên bắt thân bằng được vì đó là người tổ chức nhưng cuộc vui hoành tráng nhất. Lúc tôi kể lại chuyện cô gái sơn móng tay, mặt Emily sáng lên.

“Ôi” cô rên lên; tôi chưa thấy cô phấn khích như vậy với bất cứ người nào từ nãy đến giờ. “Một người tuyệt diệu, phải không?”

“Vâng, đúng, có vẻ dễ thương. Nhưng tôi không có cơ hội nói gì nhiều cô ấy chỉ khoe móng tay của mình thôi.”

Emily mỉm cười rạng rỡ và tự hào: “Thế đấy, chị không biết cô ta là ai à?”

Tôi vắt óc xem cô ta có giống ai đó trong số minh tinh màn bạc, ca sĩ hay người mẫu, nhưng bó tay không biết xếp cô ta vào đâu. Hay thật, thì ra là một người nổi tiếng! Có thể cô ta không tự giới thiệu vì cho rằng ai cũng biết mình. Nhưng tôi thì không. “Không, tôi không biết thật, người nổi tiếng à?”

Ánh mắt đáp lại của Emily pha lẫn sửng sốt và phẫn nộ: “Hừm, thôi được” cô dài giọng nhấn mạnh chữ thôi được và nguýt tôi đến rách mắt, đồ nhà quê dốt nát. “Đó là Jessica Duchamps.” Cô đợi. Tôi đợi. Im lặng. “Đúng là chị không biết đó là ai sao?” Một lần nữa tôi soi lại cáca danh mục VIP trong đầu, cố liên hệ với thông tin mới nhận được, rồi đành bó tay. Quả thật tôi chưa từng nghe cái tên ấy bao giờ. Và bắt đầu chán cái trò đánh đố này.

“Emily, tôi chưa hề thấy mặt cô ta lần nào, và tên cô ta cũng chẳng gợi nhớ điều gì. Chị có thể cho tôi biết cô ta là ai không?” Tôi hỏi, cố không mất chút bình tĩnh còn sót lại. Nói cho cùng thì tôi cũng cahửng thèm biết cô ấy là ai, nhưng rõ ràng Emily không chịu bỏ cuộc trước khi chứng minh được căn bệnh dốt nát của tôi đã hết thuốc chữa trị.

Giờ thì Emily cười rất kẻ cả: “Tất nhiên, sao chị không nói ngay? Jessica Duchamps là…là Duchamps! Chắc chị nghe rồi, nhà hàng Pháp danh giá nhất New York! Bố mẹ cô ấy là chủ nhà hàng, giàu không tưởng tượng nổi. Có khủng khiếp không?”

“Thật hả?” Tôi giả đò kinh ngạc, thì ra người ta phải biết đến cô gái đẹp ngất trời ấy, chỉ vì bố mẹ cô làm nhà hàng? “Hay ra phết.

Tôi đón mấy cuộc điện thoại bằng câu “Đây là văn phòng Miranda Priestly” đã khá trôi chảy, tuy vậy cả Emily và tôi đều e ngại nếu chính Miranda gọi đến và tôi không biết phải làm gì. Có lần tôi đã phát hoảng khi một người phụ nữ không xưng tên lảm nhảm chuyện gì đó với giọng Anh đặc sệt. Tôi lúng túng đưa máy cho Emily, quên rằng có thể chuyển cuộc gọi qua đó.

“Bà ấy đấy” tôi thì thào năn nỉ, “bắt điện đi.”

Và lần đầu tiên tôi được thưởng thức ánh mắt đặc biệt mà Emily dành riêng cho mình, cô nhướng mày và vênh cằm lên, lộ rõ cảm xúc nửa thương hại, nửa căm ghét.

“Miranda? Emily đấy” cô nói, nụ cười tươi rói hiện trên khuôn mặt, cứ như là Miranda sắp chui qua đường dây điện thoại và nhìn thấy cô. Im lặng. Lo lắng. “Mimi? Xin lỗi nhé! Cô nhân viên mới tưởng chị là Miranda! Vâng, tôi biết, Nhộn thật đấy. Tôi đoán là phải dạy lại bài không nhất thiết giọng Anh nào cũng là của sếp!” Cô nhìn tôi đầy hàm ý, cặp lông mày nhướng lên, nay còn nhích cao thêm một đoạn.

Trong khi cô tiếp tục tán chuyện với đầu dây bên kia, tôi tiếp tục nhận điện thoại và ghi lại tên để Emily gọi lại. Gần trưa, khi bụng bắt đầu cồn cào, tôi nhấc máy và nghe một giọng Anh ở đầu kia.

“A lô, Allison phải không?” Giọng người hỏi lạnh băng, nhưng đầy quyền uy. “Tôi cần một cái váy.”

Tôi giật bắn minh, úp tay lên ống nghe. “Emily, bà ấy đấy, lần này đúng đấy” tôi rít lên, vung ống nghe lên để Emily chú ý. “Bà tấy cần một cái váy.”

Emily quay lại, nhìn thấy bộ mặt hoảng hốt của tôi và dập ngay máy xuống, không đủ thì giờ nói “Tôi sẽ gọi lại sau” hay thậm chí “Good bye”. Cô nhấn nút chuyển cuộc gọi của Miranda sang máy mình rồi úp ngay lên mặt nụ cười tươi rói:

“Miranda? Emily đây. Tôi có thể làm gì?” Cô vớ cây bút và viết ngoay ngoáy, trán hằn sâu nhưng nếp nhăn. “Vâng, nhất định, tất nhiên rồi.” Thế là xong. Tôi nhìn cô dò hỏi.

“Có vẻ như chị nhận được nhiệm vụ đầu tiên rồi đấy. Ngày mai Miranda cần vài thứ, trong đó là một cái váy, chậm nhất là tối nay phải đưa ra máy bay ngay.”

“Ok, bà ấy cần loại váy nào?” Tôi hỏi lại, thực sự choáng sau khi thấy sếp bà chỉ cần phẩy tay một cái là phải gửi ngay một cái váy theo đường máy bay đến tận St Barth’s.

“Miranda không nói rõ.” Emily lẩm bẩm trong khi nhấc điện thoại.

“Jocelyn, tôi đây, sếp cần một cái váy, tôi sẽ gửi nó theo máy bay của bà Marteau đêm nay để đưa sang đó cho sếp. Không, tôi không rõ. Không, bà ấy không nói. Tôi không biết thật đấy. Ok, cảm ơn.” Cô quay sang và nói với tôi: “Việc sẽ phức tạp hơn, vì bà ấy không nói rõ. Bà có quá nhiều việc phải làm, không có thì giờ cho mấy chi tiết lặt vặt, bây giờ không biết lấy vải nào, màu nào, cắt kiểu nào, hiệu nào. Nhưng không sao. Tôi có số đo của Miranda rồi, tôi cũng biết rõ gu để đoán bà ấy muốn gì.Tôi vừa gọi Jocelyn bên bộ phận thời trang, cô ấy sẽ đặt đưa đến đủ đồ để chọn.” Tôi tưởng tượng ra cảnh các loại váy khác nhau rầm rập tiến vào trong tiếng kèn trống rộn ràng.

Tuy nhiên sự việc diễn ra không hẳn thế. Đi đặt váy là bài học đầu tiên cuẩ tôi về những cái lố bịch diễn ra ở Runway, mặc dù tôi phải công nhận là mọi thứ diễn ra với độ chính xác của một chiến dịch quân sự. Khi có nhu cầu, Emily hoặc tôi thông báo cho các trợ lý thời trang - tổng cộng tám người, tất cả đều có quan hệ mật thiết với các nhà tạo mốt và cửa hiệu đã chọn lựa. Các trợ lý ngay tức khắc gọi điện tới những mối quan hệ ở các nhà hàng thời trang, và nếu được thì lục tung các cửa hiệu khắp Manhattan và nói rằng bà Miranda Priestly, đúng thế, đích thân Miranda Pristly, vâng, Miranda Priestly chứ còn ai nữa, cần một món hàng nhất định. Trong vòng mấy phút, phòng tiếp thị và quảng cáo của Michael Kors, Gucci, Prada, Versace, Fendi, Armani, Chanel, Barney’s, Chloé, Calvin Klein, Bergdorf, Roberto Cavalli và Saks phái ngay nhân viên (tùy trường hợp, họ còn đích thân) đem đến mọi chiếc váy có ít nhiều hy vọng được Miranda Priestly để mắt tới. Tôi quan sát thấy quá trình đó diễn ra chuẩn mực như biên đạo múa balê vậy, mỗi mắt xích trong guồng máy đó biết rõ ở bộ phận nào ai sẽ làm gì và làm như thế nào trong khâu tiếp theo. Trong việc này, giống như những vụ việc hầu như diễn ra hàng ngày, Emily sai tôi đi kiếm một loạt các thứ khác mà chúng tôi sẽ gửi đi cùng với chiếc váy tối nay.

“Xe của chị đang đợi ở phố 58,” cô nói trong khi đồng thời nâng hai máy điện thoại lên và nguệch ngoạc viết những việc giao cho tôi lên tờ giấy viết thư của Runway. Cô chỉ ngừng việc một cút để ném cho tôi chiếc điện thoại di động và nói: “Cầm lấy, đề phòng tôi cần gọi hoặc chị có việc gì cần hỏi lại. Chớ tắt máy. Và bao giờ cũng phải bứat điện thoại.” Tôi đón chiếc điện thoại, tờ giấy và chạy xuống phố 58 bên sườn tòa nhà, vẫn chưa biết làm sao tìm ra chiếc ôtô “của tôi” đỗ ở đâu. Cũng chẳng rõ tại sao lại gọi là ôtô “của tôi” nữa. Song chỉ mới bước chân ra đến vỉa hè và đang ngơ ngác ngó quanh thì một người đàn ông tóc hoa râm béo quay, mồm ngậm tẩu tiến lại.

“Cô là nhân viên mới của bà Priestly?” Ông ta lè nhè hỏi, hàm răng vàng khè khói thuốc vẫn cắn chặt chiếc tẩu màu gụ. Tôi gật đầu. “Tôi là Rich, phụ trách đội xe. Khi nào cần xe thì cứ báo với tôi. Tóc chưa, tóc vàng?” Tôi lại gật đầu và rụt cổ leo lên ghế sau của chiếc ghế Cadillac đen đợi sẵn. Rich đóng cửa đánh sầm và vẫy tay.

“Cô đi đâu?” Tiếng người lái xe hỏi làm tôi sực nhớ không biết đi đâu. Tôi moi tờ giấy trong túi ra.

Nơi đến đầu tiên: cửa hàng Ralf Lauren, số 355 phố 57

Tây, lầu 6.

Tìm Leanne, muốn gì có nấy.

Tôi nói địa chỉ cho tài xế roòi ngó qua cửa kính. Một giờ chiều, ngày tháng Mười một lạnh căm căm. Tôi, một con nhãi ranh hai mươi ba tuổi được tài xế chở trên một chiếc Cadillac đen bóng tới cửa hiệu cảu Ralf Lauren. Bụng sôi lên vì đói. Mất gần bốn mươi lăm phút luồn lách qua dòng xe cộ vào giờ nghỉ trưamới đi xong quãng đường ngắn, lần đầu tiên tôi biết thế nào là nạn ùn tắc xe ở thành phố lớn. Tài xế thả tôi xuống, anh ta sẽ lượn vài vòng quanh khu nhà, đợi tôi xong việc quay lại. Ở quầy lễ tân trên lầu 6 tôi hỏi tìm Leanne, đúng lúc một cô bé dễ thương nhảy chân sao từ cầu thang xuống, nom giỏi lắm là mười tám tuổi.

“A lôôô!” Cô líu lo kéo dài âm “ô”. “Chị là Andrea, trợ lý mới của Miranda đúng không? Ở đây ai cũng mê bà ấy lắm. Chúc mừng chị đã vào hội!” Cô ta cười toe toét. Tôi cũng cười toe toét. Thoắt một cái, cô lôi một túi nylon to tổ bố dưới gầm bàn ra và đổ hết ra sàn. “Đây này, chúng tôi có quần bò loại Caroline thích, ba mầu khác nhau, một loạt T-shirt nữa. Còn Cassidy thì rất mê váy kaki của Ralph Lauren, tôi gửi chị một chiếc màu ô liu và một chiếc màu ghi đá.” Váy bò, áo khoác Denim, thêm mấy đôi tất tuôn một đống ra khỏi túi; và tôi há hốc mồm; chỗ quần áo này đủ mặc cho ít nhất bốn, năm đứa trẻ con. Nhưng caroline và Cassidy là những của nợ nào cơ chứ? Tôi ngơ ngác ngắm núi quần áo. Có người nào tử tế lại đi mặc quần bò hiủphalph lauren, lại những ba màu khác nhau nữa?

Chắc là vẻ mặt tôi không được thông minh cho lắm, chả thế mà Leanne ý tứ xây lưng lại và nói trong khi xếp lại đống đồ vào túi. “Tôi biết là mấy cô con gái nhà Miranda sẽ rất thích. Chúng tôi trang bị quần áo cho mấy cô bé từ nhiều năm nay và Ralph Lauren bao giờ cũng tự tay lựa đồ đấy.” Tôi đưa mắt nhìn cô đầy vẻ biết ơn rồi chất túi lên vai.

“Chúc chị may mắn.” Leanne gọi với theo trong khi cửa thang máy đóng lại, miệng cười rạng rỡ. “Chị thật may mắn có được công việc siêu hạng này…” Chẳng cần phải nghe hết câu, tôi cũng nhẩm ra trong đầu khúc còn lại: hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm việc này đấy. Và ở giây phút đầu tiên trong đời được bước chân vào cửa hàng của nhà tạo mốt nổi tiếng và khuân đống quần áo trị giá hàng nghìn dollar về, tôi cũng tin là cô ta nói đúng.

Một khi đã biết đường đi lối lại, mấy tiếng còn lại trong ngày cũng nhanh chóng trôi đi. Tôi tự hỏi, liệu có ai phản đối chuyện mình dành ra một phút đi kiếm chiếc bánh mì kẹp hay không, vì quả thật tôi không có sự lựa chọn nào khác. Từ khi nhét được một chiếc bánh sừng bò vào bụng lúc bảy giờ sáng nay tôi chẳng ăn thêm gì. Mà bây giờ đã gần hai giờ chiều rồi. Tôi bảo tài xế đỗ trước một quầy bán đồ ăn, vào mua một chiếc bánh kẹp gà tây với mù tạc mật ong, và trước lúc quay ra cũng nhân thể lấy luôn cho anh ta một cái nữa. Anh chàng há hốc mồm, khiến tôi ngại răng đã làm anh ta khó xử.

“Tôi nghĩ chắc anh cũng đói bụng rồi.” tôi nói. “Suốt ngày đi xe vòng vèo trong thành phố, nhất định anh không có thời gian nghỉ ăn trưa.”

“Cảm ơn, rất cảm ơn cô, tôi lái xe cho các cô gái của Elias Clark đã hai mươi năm rồi, tôi biết họ không thân thiện lắm. Tôi thấy cô khác hẳn.” anh ta nói với giọng địa phương nặng trịch không rõ miền nào, mắt nhìn tôi trong gương chiếu hậu. Tôi mỉm cười đáp lại và bỗng có một linh tính chẳng lành. Nhưng cảm giác ấy cũng vụt biến, chúng tôi khoan khoái gặm bánh trong lúc giao thông bị tắc nghẽn và nghe nhạc CD ưa thích của anh ta, nghe như tiếng một người đàn bà hét inh tai nhức óc bằng một ngôn ngữ lạ hoắc trên nền đàn sitar.

Điểm tiếp theo mà Emily viết cho tôi là nơi lấy một đôi quần soóc trắng cho Miranda tập thể thao. Tôi nghĩ là ở Polo, nhưng trên giấy ghi rõ là Chanel. Chanel cũng làm đồ thể thao sao? Tài xế đưa tôi tới một tiệm tư nhân. Bà bán hàng đã luống tuổi, da mặt căng nhiều lần đến nỗi mắt híp tịt lại, trao cho tôi một đôi quần cộc vải thun Lycra trắng, cỡ 0, gắn bằng kim vào mắc treo bọc lụa và tất cả bọc trong một túi nhung. Tôi nhìn chiếc quần tí xíu như cho một đứa sáu tuổi rồi ngó qua bà bán hàng.

“Hừm, bà có tin là Miranda sẽ mặc đồ này không?” Tôi ngập ngừng hỏi lại.

Bà ta nhìn tôi trừng trừng và ngoạc mồm ra như một con quái vật chuẩn bị xơi tái tôi: “Tôi hy vọng thế, cô em ạ, đấy là đồ may đo theo đúng sở thích riêng của Miranda,” bà cấm cảu nói trong khi trao cho tôi gói đồ bé xíu. “Cho gửi lời trân trọng nhất của ông Kopelman.” Vâng, thưa bà. Của ai cũng được.

Điểm tiếp theo trên tờ giấy Emily đưa cho tôi là J&R Computer World gần tòa thị chính, tận đầu kia thành phố. Có vẻ như đó là cửa hiệu duy nhất ở New York bán trò chơi điện tử Warriors of the West mà Miranda định mua tặng Maxime, con trai nhà Frederic và Marie-Élise Marteau. Lần này xe đi mất hơn một tiếng. Tôi mò ra được là điện thoại di động này gọi ngoại tỉnh được, thích quá, tôi gọi luôn về nhà cho bố mẹ để kể về công việc tuyệt vời ra sao.

“Bố à? Con đấy. Andy đây. Bố đoán xem con đang ở đâu nào? Vâng, tất nhiên đang giờ làm việc, nhưng con lại ngồi trên xe, có tài xế chở đi vòng quanh Manhattan. Con đã xong việc ở Ralph Lauren và Chnel, bây giờ đi mua trò chơi điện tử nữa, sau đó con đưa mọi thứ đến nhà riêng của Frederic Marteau ở đại lộ Park Avenue. Toàn các nhà tạo mốt siêu hạng! Không, mấy đồ này không cho ông Marteau, Miranda đang ở St Barth’s và Marie –Élise sẽ bay tới đó đêm nay. Vâng, phi cơ riêng đấy bố ạ!”

Giọng bố tôi hơi thận trọng, nhưng ông rất vui khi thấy tôi sung sướng. Tôi hoanf toàn không bận tâm làm một chân sai vặt có bằng đại học. Sau khi trao túi quần áo Ralh Lauren, quần soóc và trò chơi game cho người gác cổng lịch thiệp của tòa nhà lộng lẫy ở đại lộ Park Avenue (thì ra người ta gọi khu nhà đó là Park Avenue!) tôi quay về tòa nhà Elias Clark. Vào đến văn phòng, tôi thấy Emily đang ngồi xếp bằng tròn dưới sàn nhà như một người da đỏ, đang gói quà tặng bằng giấy trắng và thắt băng trắng. Cô ngồi giữa một núi hộp trắng đỏ, phải đến vài trăm hay vài ngàn chiếc hộp giống hệt nhau nằm chồng chất giữa hai cái bàn của chúng tôi và tràn túa cả vào phòng Miranda. Emily không thấy tôi đang đứng quan sát cô, mỗi hộp cô chỉ cần hai phút, cộng với mười lăm giây để thắt chiếc băng xa-tanh trắng. Cô cử động nhịp nhàng, không thừa lấy một giây, đặt các hộp trắng đã gói xong lên núi hộp chất sau lưng mình.Đống hộp đã gói xong mọc cao dần, nhưng đống chưa gói cũng chẳng hề nhỏ đi. Tôi ước tính là cô còn làm bốn hôm nữa cũng chưa chắc đã xong.

Tôi phải hét lên để át tiếng đĩa CD nhạc thập kỷ 80 từ computer của Emily. “Hello, Emily, tôi về rồi!”

Cô quay lại nhìn tôi, một lát sau vẫn ngơ ngác không nhớ ra tôi là ai. Nhưng rồi cô cũng nhận ra con bé mới đến và hỏi: “Thế nào rồi?” Cô hỏi ngắn gọn. “Có kiếm được hết các thứ ghi trên giấy không?”

Tôi gật đầu.

“Cả trò chơi video? Lúc tôi gọi điện thì họ chỉ còn có một hộp cuối cùng. Có lấy được không?”

Tôi lại gật.

“Và tất cả đã đưa cho gác cổng nhà Marteau ở Park Avenue? Quần áo, soóc, tất cả?”

“Rõ, không có vấn đề gì, mọi việc trôi chảy cả, tôi đã bàn giao mọi thứ cách đây mấy phút. Chỉ không hiểu là liệu Miranda có thực sự mặc tất cả…”

“Gượm nào, tôi phỉa đi vệ sinh ngay cái đã, từ lúc nãy chỉ đợi chị về. Chị ngồi canh điện thoại một lát được không?”

“Chị không đi vệ sinh từ lúc tôi ra khỏi nhà?” Tôi hỏi bán tín bán nghi. Năm tiếng đồng hồ liền! “Tại sao không?”

Emily thắt nốt dải băng quanh chiếc họp vừa gói xong và mát mẻ nhìn tôi: “Ngoài các trợ lý, Miranda không cho phép ai trả lời điện thoại gọi đến cho bà, vì vậy từ khi chị vắng mặt tôi không muốn đi đấu cả. Tôi nghĩ là chạy đi một thoáng cũng được thôi, nhưng tôi biết Miranda hôm nay rất bận bịu nên tôi muốn liên tục có mặt, phòng khi bà ấy cần. Chị hãy ghi nhớ, chúng mình không được đi vệ sinh – hay đi bất cứ đâu – mà không thống nhất trước với nhau. Chúng mình phải làm việc với nhau, làm sao đạt được kết quả tốt nhất như có thể, ok?”

“Hiểu rồi,” tôi nói. “Chị cứ đi đi, tôi sẽ không rời khỏi đây nửa bước.” Emily đứng dậy ra khỏi phòng. Tôi không tin ở tai mình nữa. Không đi vệ sinh, chừng nào chưa thống nhất kế hoạch hành động? Có đúng là Emily ngồi đây năm tiếng đồng hồ liên tục và dỗ dành bọng đái của mình, chỉ vì lo là trong hai phút rưỡi phi ra toilet chẳng may mẹ già kia gọi từ bên kia Đại Tây Dương sang? Mà chắc thế thật! Nghe có vẻ hơi kinh khủng, nhưng tôi cho rằng đó chỉ là sự hăng hái thái quá của Emily mà thôi. Không thể tin nổi là Miranda mong đợi điều gì đó ở trợ lý của mình. Tôi không tin. Nhưng biết đâu…