Tuyết - Chương 09

ÔNG CÔ PHẲI LÀ NGƯỜI VÔ THẦN KHÔNG?

Một kẻ vô thần không muốn tự sát


Khi Lam đã ra khỏi phòng, Ka lưỡng lự một hồi lâu. Thoạt tiên ông tưởng Lam sẽ quay lại ngay để hỏi ông, sau khi đã đề nghị ông hãy "nghĩ kỹ lại" lúc nãy. Nhưng rồi lập tức ông hiểu ngay là sự thể không phải thế. Nngười ta đã cho ông một thông báo, tuy với hình thức giật gân và khá kỳ khôi. Liệu đó có phải là một lời đe dọa? 

Nhưng cảm giác bị đe dọa ở Ka không mạnh bằng cảm giác mình là một người lạ ở đây. Ông đi ra khỏi nhà qua cửa chính, không thấy bà mẹ và đứa nhỏ ở phòng bên. Cảm thấy nơi này quá đỗi thù nghịch với mình, ông chạy vù xuống gác. 

Tuyết rơi chậm đến nỗi Ka có ảo giác những bông tuyết treo lơ lửng trong không khí. Cảm giác về sự chậm chạp ấy đánh thức trong Ka ấn tượng thời gian đứng im, đồng thời - vì lý do nào đó - ông cũng thấy như thể nhiều chuyện đã biến đổi, tựa như một thời gian dài đã trôi qua, mặc dù cuộc trò chuyện với Lam chỉ kéo dài hai mươi phút. 

Ông đi dọc đường ray, qua tháp xi-lô hiện ra trong mưa tuyết như một bóng trắng khổng lồ, bước vào sảnh nhà ga theo đường đã đi ra lúc nãy. Khi đi qua sảnh bẩn thỉu không một bóng người, ông thấy một con chó chạy về phía mình, cái đuôi cụp ngọn vẫy liến thoắng. Một con chó đen với chấm tròn trắng trên trán. Ka nhìn thấy ba cậu bé đang cho nó ăn bánh vừng vòng trong phòng đợi. Một trong số đó là Necip. cậu ta chạy đến trướcmặt Ka. 

"Ông đừng để các bạn học của tôi nhận ra rằng tôi biết tại sao ông đến đây." cậu nói. "Bạn thân nhất của tôi muốn hỏi ông một câu hỏi cực kỳ hệ trọng. Nếu ông rỗi rãi và dành cho Fazil một phút thì nó rất hân hạnh." 

"Được", Ka nói và ra chỗ hai cậu bé kia ngồi ở ghế băng. 

Trên những tấm áp phích sau lưng chúng, Atatürk đang nói về ý nghĩa của đường sắt và nhà nước răn đe các cô gái có ý định tự sát. Hai cậu bé đứng lên bắt tay Ka. Nhưng đột nhiên chúng có vẻ ngần ngại. 

"Trước khi Fazil đặt câu hỏi, Mesut muốn kể một chuyện mà nó đã nghe," Necip nói. 

"Không, tớ không kể đâu," Mesut luống cuống. "Cậu kể hộ tớ được không?" 

Trong khi lắng tai nghe Necip, Ka quan sát con chó chạy lồng lên trong sảnh nhà ga bẩn thỉu, vắng ngắt và nhập nhoạng tối. 

"Chuyện này xảy ra ở một trường tôn giáo đâu đó ngoài ngoại ô Istanbul, ít nhất thì tôi nghe kể thế," Necip lên tiếng."Ông hiệu trưởng ở đó vì có công việc mà đi vào một trong những tòa nhà chọc trời dạo này được xây khắp Istanbul mà chúng tôi đã thấy qua truyền hình. Ông ta vào một thang máy lớn và đi lên tầng. Trong thang máy, ngoài ông ra chỉ có một người đàn ông cao to, nom trẻ hơn ông; người này tiến đến gần và chỉ cho ông xem một quyển sách, lấy trong túi ra con dao nhỏ có cán xà cừ để rọc trang và đọc vài câu trong đó. Ông hiệu trưởng rời thang máy ở tầng mười chín. Những ngày tiếp theo, ông thấy là lạ trong người. luôn bị ám ảnh về cái chết, chẳng muốn làm việc gì và chỉ nghĩ đến người đàn ông trong thang máy. Là người mộ đạo, ông hiệu trưởng tới một bí thất dòng Cerrahi hy vọng tìm sự cứu rỗi trong tình cảnh khốn khó này. Một trưởng lão danh tiếng lắng nghe nỗi lòng của ông đến tận sáng và chẩn bệnh: 'Ngươi đã mất lòng tin vào Thượng đế, và ngoài ra, tuy không hẳn có ý thức rõ rệt, ngươi còn lấy đó làm tự hào nữa! Ngươi đã thu nạp căn bệnh quái ác này từ người đàn ông trong thang máy. Ngươi đã trở thành kẻ vô thần.' 

Ngay cả khi ông hiệu trưởng khóc lóc chối cãi thì trong một góc sâu thẳm tim mình còn thành thực ông hiểu rõ là vị trưởng lão nói đúng. Từ đó, khi đã bắt mạch được mình, ông bắt đầu đổ đốn: ông trêu ghẹo các nữ sinh trẻ đẹp ở trường, cố tìm cách ở lại một mình với mẹ các học sinh và đi ăn cắp tiền của một nữ đồng nghiệp mà ông đem lòng ghen tỵ. Đúng thế, thậm chí ông hiệu trưởng còn tự hào khi phạm những tội lỗi đó: ông họp mặt cả trường và kết tội tất cả bọn họ bị trói buộc bởi tín ngưỡng mù quáng và các tục lệ vô lý, và hỏi tại sao họ không thể tự do như ông, chẳng có gì cấm kỵ cả. Trong bài thuyết trình của mình ông dùng đầy rẫy những ngôn từ phương Tây, ông mặc đồ theo mốt phương Tây mua bằng tiền ăn trộm. Và ông tỏ rõ sự khinh bạc đối với tất cả mọi người, coi họ là hạng 'kém phát triển'. Thời gian sau đó ngôi trường nhanh chóng rơi vào cảnh hỗn độn: học sinh làm nhục một bạn gái xinh đẹp trong lớp, một giáo viên cao tuổi dạy kinh Koran bị đánh và học viên nổi loạn. Cùng thời gian đó, ông hiệu trưởng khóc than ở nhà và có ý định tự tử nhưng vì không đủ dũng cảm, ông cầu cho người khác giết mình. Để đạt mục đích ấy, trước mặt các học sinh ngoan đạo nhất ông đã - cầu Thượng đế tha tội! - phỉ báng Đấng tiên tri. Song họ đã nhận ra rằng ông mất trí và không động chạm gì đến ông. Rồi giữa phố - cầu Thượng đế tha tội! - ông bắt đầu nói huyên thuyên là Allah không có thật, và nên biến các nhà nguyện thành sàn khiêu vũ và chúng ta chỉ có thể giàu có như phương Tây nếu đi theo Thiên chúa giáo. Nhưng ngay cả các tín đồ Hồi giáo bạo liệt nhất cũng mặc kệ ông, vì họ cho là ông điên. Khi sự tuyệt vọng không thuyên giảm và ước muốn được chết ngày càng mạnh hơn, ông quay lại ngôi nhà chọc trời ngày ấy và gặp chính người đàn ông cao lớn kia trong thang máy. Người này mỉm cười với ánh mắt tỏ ra đã biết hết những gì xảy ra với ông hiệu trưởng, và chỉ cho ông xem bìa cuốn sách cầm trong tay. Trong cuốn sách này sẽ tìm được cả phương thuốc chữa căn bệnh vô thần. Ông hiệu trưởng run rẩy đưa tay chộp lấy nó. Nhưng trước khi thang máy ngừng thì người đàn ông cao lớn đã rút ra con dao cán xà cừ như thể định rọc sách lần nữa, và đâm xuyên qua tim ông." 

Ka nhớ lại một câu chuyện tương tự được lưu truyền trong cộng đồng Hồi giáo chính trị ở Đức. Không rõ cuốn sách kỳ bí ấy nói gì, nhưng khi nói đến các nhà văn xúi giục con người đến với chủ nghĩa vô thần thì bên cạnh mấy tác giả Do Thái mà Ka chưa khi nào nghe tên, Mesut còn nhắc đến một số phóng viên trên chuyên mục của mình đã hô hào cả giới truyền thông chống lại Hồi giáo chính trị (ba năm sau đó một người trong số họ đã bị bắn chết). "Những kẻ vô thần bị quỷ sứ dẫn lối đang tồn tại giữa chúng ta như ông hiệu trưởng bất hạnh nọ, chúng khổ sở vì không tìm được hạnh phúc và an bình," Mesut nói. "Ông có thấy đứng thế không?" 

"Tôi không rõ." 

"Ông không rõ nghĩa là sao?" Mesut bực bội. "Ông không phải là người vô thần à?" 

"Tôi không rõ," Ka nói. 

"Thế thì ông cho tôi biết: ông có tin rằng Allah vĩ đại đã sáng tạo cả thế giới này, tất cả, cả mưa tuyết dày đặc ngoài kia, hay ông không tin" 

"Tuyết làm tôi nghĩ đến Thượng đế," Ka nói. 

"Vâng, nhưng ông có tin là Thượng đế tạo ra tuyết?" Mesut đòi hỏi. 

Im lặng. Ka thấy con chó đen chạy qua cửa lên sân ga và nhảy nhót trên đám tuyết ngoài kia dưới ánh sáng đèn tuýp lạnh lẽo. 

"Ông không trả lời được câu hỏi ấy." Mesut nói. "Nếu người nào đã biết và yêu Allah, người đó sẽ không mảy may nghi ngờ rằng Allah tồn tại. Có nghĩa là, thực ra ông là người vô thần nhưng ngần ngại không nói ra. Đằng nào bọn tôi cũng biết rồi. Vì vậy tôi muốn thay mặt Fazil hỏi ông một điều. "Ông có chịu khổ ải như kẻ vô thần đáng thương trong chuyện ấy không? Ông có muốn tự tử không?" 

"Ngay cả khi không có sự an bình nội tại, tôi vẫn sợ tự tử," Ka trả lời. 

"Vì lý do gì?" Fazil hỏi, "vì nhà nước cấm bởi nói cho cùng thì con người là bậc tối cao trong mọi tạo vật? Nhưng chính họ cũng hiểu sai khi nới con người là 'tuyệt tác của Thượng đế'.Ông nói đi, tại sao ông sợ tự tử?" 

"Xin ông thứ lỗi cho các bạn tôi," Necip nói. "Câu hỏi này đặc biệt hệ trọng đối với Fazil." 

"Ông không sầu muộn và bất hạnh đến mức muốn tự tử sao?"Fazil hỏi. 

"Không." Ka bực mình đáp. 

"Xin ông đừng giấu gì chúng tôi." Mesut nói. "Chúng tôi không làm gì ông chỉ vì ông là người vô thần đâu. 

Im lặng căng thẳng. 

Ka đứng dậy. Ông hoàn toàn không muốn để lộ là ông bắt đầu thấy hoảng. Ông quay về phía cửa ga. 

"Ông đi à? Xin ông hãy ở lại!"Fazil nói. 

Khi Ka dừng bước thì cậu ta cũng ngừng lại, không nói thêm gì nữa. 

"Tôi muốn giải thích cho bạn tôi." Necip nói. "Ba chúng tôi yêu 'các cô gái trùm khăn' đang liều tính mạng cho đức tin của mình.'Cô gái trùm khăn' là danh hiệu do báo chí thế tục đặt cho họ. Trong mắt chúng tôi họ chỉ là các nữ tín đồ Hồi giáo, và mọi nữ tín đồ Hồi giáo đều phải liều tính mạng mình cho đức tin." 

"Cả đàn ông cũng vậy."Fazil nói thêm. 

"Dĩ nhiên," Necip nói. "Tôi yêu Hicran, Mesut yêu Hande, còn Fazil đã từng yêu Teslime, nhưng Teslime chết rồi. Người ta bảo là cô ấy đã tự sát. Nhưng chúng tôi không tin rằng một cô gái theo đạo Hồi có đức tin đủ mạnh để hy sinh mọi thứ lại có thể tự sát được." 

"Có thể cô ta không chịu đựng nổi những gì mình phải trải qua," Ka nêu ý kiến. "Nghe nói gia đình cô ta gây áp lực bắt để đầu trần và cô ta bị đuổi khỏi trường." 

"Không áp lực nào đủ mạnh khiến một tín đồ thực sựphải phạm lỗi đó cả."Giọng Necip kích động. "Những người như chúng tôi đây, cả đêm không ngủ được vì lo phạm lỗi bỏ lỡ nghi lễ cầu nguyện lúc sáng sớm. Chúng tôi đến nhà nguyện ngày càng sớm hơn. Người nào tin tưởng một cách hân hoan thì sẵn sàng chịu đựng mọi điều để tránh tội lỗi này, kể cả chấp nhận một cuộc đời chỉ toàn khổ ải." 

"Chúng tôi biết ông đã nói chuyện với gia đình Teslime,"Fazil ngắt lời Necip. "Họ có tin cô ấy tự tử không?" 

"Có họ có tin. Ban đầu cô ấy cùng bố mẹ xem Marianna, sau đó rửa ráy đúng nghi thức và cầu nguyện." 

"Teslime không xem thứ phim truyền hình loại đó."Fazil khẽ nói. 

"Cậu biết rõ cô ấy đến mức nào?" 

"Chúng tôi chưa trực tiếp làm quen bao giờ, chưa nói chuyện với nhau bao giờ."Fazil ngượng ngùng nói. "Có lần tôi thấy cô ấy từ xa, và dĩ nhiên cô ấy che kín mặt. Nhưng tất nhiên linh hồn tôi và cô ấy biết rõ nhau: người ta biết rõ nhất người mà mình yêu tha thiết. Tôi cảm nhận cô trong máu thịt như cảm nhận chính mình vậy. Một Teslime như tôi từng biết sẽ không tự sát." 

"Có thể cậu chưa biết cô ấy đủ rõ." 

"Có thể bọn phương Tây cử ông đến đây để che đậy chuyện Teslime bị giết." Mesut khiêu khích. 

"Không, không," Necip nói. "Chúng tôi tin ông. Những người khả kính ở đây gọi ông là thầy tu, là thi sĩ. Chúng tôi muốn hỏi ông về một chuyện làm chúng tôi buồn. Fazil muốn nhân danh Mesut xin ông thứ lỗi." 

"Cho tôi được phép xin lỗi,"Fazil nói. Mặt cậu ta đỏ phừng phừng, mắt ngấn nước. 

Mesut lặng im để giây phút hòa giải trôi qua. 

"Fazil và tôi là anh em kết nghĩa!" Necip nói. "Chúng tôi thường nghĩ cùng một chuyện vào cùng lúc; và người này biết người kia nghĩ gì. Fazil chỉ khác tôi một điều là không hề quan tâm đến chính trị. Bây giờ cả tôi lẫn Fazil muốn xin ông một điều.Thực ra cả hai chúng tôi đều có thể thấp nhận rằng Teslime phạm tội tự tử dưới áp lực mà bố mẹ cô và nhà nước đã gây ra. Thật đau đớn nhưng đôi khi Fazil nghĩ: 'Cô gái mà ta từng yêu đã phạm tội và tự tử'. Nhưng nếu Teslime là một người vô thần không ý thức một người bất hạnh như ông hiệu trưởng trong câu chuyện lúc nãy không biết mình vô thần, và cô ấy tự tử vì là người vô thần thì thật là một thảm họa đối với Fazil. Vì như vậy là cậu ta đã từng yêu một người vô thần. Chỉ có ông mới biết câu trả lời.Chỉ có ông mới đem lại bình yên cho Fazil, ông hiểu chúng tôi nghĩ gì rồi chứ?" 

"Ông có phải người vô thần không?"Fazil hỏi với ánh mắt cầu khẩn "Và nếu là người vô thần thì ông có tự tử không?" 

"Kể cả những hôm mà tôi tin chắc mình là người vô thần, tôi cúng không có ý muốn tự tử." Ka đáp. 

"Cảm ơn ông đã cho chúng tôi một câu trả lời thành thực," Fazin thở phào. "Ông có thiện tâm, nhưng ông sợ phải tin vào Thượng đế." 

Ka thấy ánh nhìn thù nghịch của Mesut và định bỏ đi. Có vẻ như ý nghĩ của ông giờ đã mắc mứu vào một cái gì xa vời. Ông cảm thấy một nguyện vọng sâu thẳm đi liền với một tưởng tượng trỗi dậy trong lòng, nhưng vì những sự kiện xảy ra quanh mình mà ông không thể tập trung đầu óc được. Về sau ông sẽ ngẫm nghĩ lâu về những phút ấy để ngộ ra rằng hình ảnh tưởng tượng ấy được sinh ra vừa bởi nỗi sợ chết và sự bất lực không thể tin vào Thượng đế lại, vừa bởi khát vọng hướng tới Ipek. Và chỉ chốc lát nữa thôi Mesut sẽ còn cho ông thêm một nguyên nhân nữa. 

"Ông đừng hiểu sai ý chúng tôi." Necip nói. "Chúng tôi không phản đối chuyện ai đó là người vô thần. Trong xã hội Hồi giáo người vô thần luôn có chỗ đứng của họ." 

"Chỉ phải chia tách nghĩa trang." Mesut giải thích. "Linh hồn người mộ đạo bị quấy rầy khi họ nằm cùng những người vô thần trong một nghĩa trang. Một số người vô thần đã che giấu được suốt đời là họ không tin vào Allah, họ sẽ phá sự an bình của người mộ đạo không chỉ ở thế giới bên này, mà cả ở ngoài nghĩa trang. Như thể chưa đủ khổ ải phải nằm cùng họ trong một nghĩa trang chúng tôi còn phải chống lại viễn cảnh ghê sợ là đến Ngày phán xử cuối cùng, khi phục sinh tù nấm mồ đứng dậy lại phải thấy mặt một người vô thần bất hạnh... Thưa thi sĩ Ka, ông không giấu đã từng là người vô thần nữa. Có khi ông vẫn là người vô thần cũng nên. Vậy ông hãy nói, ai làm cho tuyết rơi, đằng sau tuyết có ẩn giấu bí mật gì?"

Trong chốc lát, mọi người đều nhìn từ nhà ga vắng ngắt ra ngoài, nhìn tuyết rơi xuống đường ray trống trải trong ánh đèn tuýp. 

Ta làm gì trên thế gian này? Ka nghĩ. Trông từ xa những bông tuyết mới bất lực làm sao! Cuộc đời ta thảm hại làm sao!Người ta sống, tàn tạ và biến mất, ông nghĩ, một mặt mình đang trôi qua, mặt khác vẫn còn tồn tại. Ông vẫn còn mang tình yêu trong lòng, ông đi trong yêu thương và buồn rầu theo con đường đã xác định cho đời mình, như mọi bông tuyết đang rơi. Ông nhớ đến bố mình có mùi hương của một loại nước cạo râu nào đó. Trong khi lần theo mùi hương ấy, ông nhớ đến đôi chân lạnh của mẹ ông xỏ giày trong nhà khi chuẩn bị bữa sáng trong bếp, đến lược chải đầu, đến thuốc ho màu hồng ngọt lừ mà ông uống khi nửa đêm bị cơn ho đánh thức, đến cái thìa trong mồm, đến tất cả những thứ vụn vặt góp lại thành cuộc sống, và khi nghĩ về việc chúng liên hệ với nhau thành tổng thể, ông nghĩ đến bông hoa tuyết... 

Và như thế Ka nghe tiếng gọi từ sâu thẳm mà chỉ những thi sĩ đích thực mới nghe được và chỉ trong khoảnh khắc cảm xúc sáng tạo, tiếng gọi duy nhất khiến ông hạnh phúc. Sau bốn năm trời lần đầu tiên một bài thơ đang đến với ông, và cho dù chưa nghe rõ từng lời, ông biết bài thơ đã tự mình hoàn thiện. Ngay khi còn chưa xuất đầu lộ diện, bài thơ đã tỏa sáng sức mạnh và vẻ đẹp của số phận, khiến ông hạnh phúc tràn trề. Ông nói với ba cậu bé là ông đang vội vã rời khỏi nhà ga trống trải nhập nhoạng. Ông vội về khách sạn dưới trời tuyết chỉ nghĩ đến bài thơ sắp viết ra.